Sống là sống để mà đi/Chuyến tàu bạn hữu, chiếc xe nhân tình (Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Câu thơ "triết lý sống" đó của Nguyễn Bính trong bài thơ viết tặng Hoàng Tấn vào khoảng năm 1941 cho ta thấy rõ tâm trạng chung của ông cũng như của một lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Bởi vì bắt đầu từ năm 1940 trở đi, thời thế đã có những dấu hiệu cho thấy sẽ có sự thay đổi lớn. Nhưng thay đổi theo hướng nào thì không phải ai cũng nhận ra được. Sự ngột ngạt khó chịu khiến người ta muốn thoát ra khỏi nơi chốn quá quen thuộc của mình. Sinh kế chỉ là một. Phần còn lại là ước muốn tự giải thoát mình khỏi sự bế tắc trong tư tưởng.
Với Nguyễn Bính, ngoài tâm trạng chung đó ra, ông còn là một nhà thơ thèm đi từ trong máu thịt. Ông muốn đi, muốn đến, muốn lang thang khắp đất trời:
Nửa đêm nghe tiếng còi tàu/Ngày mai ta lại bắt đầu ra đi/Sông ngang núi trái quản gì(Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Vì thế vào tháng 9/1943, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài, Vũ Trọng Can rủ nhau làm chuyến "hành phương Nam". Đây là chuyến đi thứ hai của Nguyễn Bính nhưng với Tô Hoài thì là chuyến đầu tiên. Trước đó, vào khoảng năm 1939 Nguyễn Bính đã đến Sài Gòn, lê gót ở Chợ Quán, Đa Kao rồi về Biên Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long.
Đến Sài thành trong một chuyến tàu chiều ngơ ngác, "nhà văn của những chú dế mèn" đã cảm thấy choáng ngợp khi nhìn cảnh "người ăn uống rào rào như tằm ăn rỗi" ở cái bùng binh trước chợ Bến Thành. Tuy thế ba chàng văn thi sĩ vẫn quyết tâm "kiếm ăn lương thiện". Nhưng cuối cùng phải chia tay nhau, hai chàng văn sĩ xuôi về Bắc, chỉ còn một mình Nguyễn Bính ở lại. Là vì thật ra không có máu giang hồ cũng khó mà lăn lóc nơi xứ người.
Giang hồ còn lại mình tôi/Quê người đắng khói, quê người cay men
Nam Kỳ rồi lại Cao Miên/Tắm trong một cái biển tiền người ta
Biển tiền, ôi biển bao la/Mình không bẩn được vẫn là tay không (Thôn Vân)
Mấy câu thơ này Nguyễn Bính viết tặng Bùi Hạnh Cẩn trong một lần chia tay người bạn thơ đồng thời là người anh em cô cậu nhưng nó cũng nói lên tâm trạng của ông trong nhiều cuộc chia tay với các bạn hữu văn nghệ khác như Tô Hoài, Vũ Trọng Can.
Tuy vậy ở lại Nam Kỳ, Nguyễn Bính cũng không phải đến nỗi là "giang hồ còn lại mình tôi". Ông được nhiều anh em văn nghệ sĩ đón nhận thật chân tình. Lại viết báo, làm thơ để kiếm sống như thời kỳ ở Hà Nội. Sài Gòn từ khá lâu đã dần vươn lên để trở thành một trung tâm văn hóa của phía Nam, không thua kém Hà Nội là mấy. Vì thế nên nhiều văn nghệ sĩ đất Bắc tìm thấy ở đây đất dụng võ. Trước đó Tản Đà, Ngô Tất Tố cũng đã từng bỏ đất Bắc vào Sài Gòn - cái nơi mà Nguyễn Bính nhận xét là Kinh kỳ bụi quá xuân không đến (Xóm dừa) - kiếm sống bằng nghề viết lách.
Nguyễn Bính đến ở với các bạn hữu trong một căn nhà thuê bằng gỗ nhỏ lợp ngói ở khu vực đường Nguyễn Văn Cừ, Q.1, TP.HCM ngày nay. Căn nhà có vườn hoa cùng cây ăn trái bao bọc chung quanh. Nguyễn Bính thích thú đặt tên cho nơi ở này là Lan Chi Viên. Từ khi Nguyễn Bính đến ở, nhiều anh em văn nghệ thường ghé chơi vườn nhỏ Lan Chi để chuyện trò về văn chương, thế sự. Ngoài ra, còn có một số sinh viên học sinh yêu mến Nguyễn Bính, tác giả Lỡ bước sang ngang, cũng thường xuyên lui tới.
Vào thời gian đó, thơ Nguyễn Bính là một thứ thời thượng của báo chí. Nhiều tờ báo muốn có thơ ông để đăng. Có một lần chủ nhiệm tờ Dân Báo thông qua một người đặt Nguyễn Bính viết một bài thơ để đăng vào số đặc biệt. Đó là bài Xóm dừa. Bài thơ không thuộc loại quá đặc sắc như một số bài thơ đã dẫn tuy nhiên nó lại liên quan đến một câu chuyện thú vị, cho ta thấy một phần tính cách của Nguyễn Bính. Hoàng Tấn cho biết, khổ thơ thứ hai của bài thơ này nguyên gốc Nguyễn Bính viết như sau:
Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn
Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ/Thiên hạ đem thơ đọ với tiền
Khổ thơ này, khi đem đến tòa soạn thì ông chủ nhiệm không đồng ý. Là vì hai câu thơ cuối có vẻ ám chỉ. Ông đề nghị sửa hai câu này nhưng Nguyễn Bính nhất định không chịu sửa. Căng thẳng xảy ra. Nhưng bởi tờ báo đã lỡ quảng cáo trong số đặc biệt sẽ có bài thơ của Nguyễn Bính, nên nếu rút bài thơ ra thì không được mà để như thế cũng không ổn. Người môi giới "bán thơ" cho Nguyễn Bính là Tế Xuyên, vốn cũng là anh em văn nghệ chơi thân với nhau, phải đến thuyết phục mãi thì Nguyễn Bính mới chịu sửa lại khổ thơ này.
Ở Lan Chi Viên mãi cũng cảm thấy chán. Căn bệnh thèm đi lại nổi lên. Cũng như thời kỳ ở Hà Nội vào những năm 1936 - 1939, Nguyễn Bính cũng chỉ muốn xem Sài Gòn như là một "đại bản doanh" để từ đó thực hiện những chuyến đi ra các vùng xa như Đông Nam Bộ hoặc Tây Nam Bộ mà thôi. Nguyễn Bính cũng đã làm vài chuyến loanh quanh Sài Gòn rồi. Có lúc đi vài ba ngày, có lúc đi cả tuần mới về lại chỗ trọ. Một hôm Nguyễn Bính nhận được một phong thư từ xứ Hà Tiên gửi đến Lan Chi Viên. Đó là thư của thi sĩ Đông Hồ, mời Nguyễn Bính về miền đất cuối cùng đất nước để thăm chơi. Vài hôm sau, Nguyễn Bính khăn gói lên đường.
Tại Hà Tiên, Nguyễn Bính bắt tay vào sáng tác một trường ca, lấy cảm hứng từ cô cháu gái của Mộng Tuyết. Chẳng rõ thế nào mà nửa đường đứt gánh, Nguyễn Bính vội vã bỏ xứ Hà Tiên, bỏ luôn trường ca đang dang dở, ai cản thế nào cũng không được. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết thì trường ca lấy tên một loài cây là Thạch sương bồ, Nguyễn Bính đã viết được đến mấy trăm trang. Có lẽ do nhân vật gợi nên cảm hứng cho ông là cô cháu gái của nữ sĩ Mộng Tuyết đỏng đảnh sao đó khiến ông không còn cảm hứng để viết tiếp. Kể lại chuyện này, nhà thơ Mộng Tuyết vẫn lấy làm tiếc.
Từ giã Hà Tiên, Nguyễn Bính lại quay về Lan Chi Viên để tiếp tục làm thơ viết báo. Và những vần thơ hay lại tiếp tục ra đời để ngày nay còn lại với chúng ta.
Nguyễn Bính - thi sĩ giang hồ : Hành phương Nam - bài thơ hay cuối cùng
Hành phương Nam là bài thơ duy nhất của Nguyễn Bính làm theo thể loại hành. Ta không rõ Nguyễn Bính làm bài thơ này trong trường hợp nào. Có lẽ ông sáng tác bài này trong thời gian ở Lan Chi Viên chăng? Đáng tiếc là người có thể trả lời được câu hỏi này là Hoàng Tấn thì đã mất từ lâu.
Thời kỳ ở Hà Nội, Nguyễn Bính chơi thân với Thâm Tâm và Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, nhà thơ bậc thầy về thể loại hành, vào năm 1940 hoặc có thể sớm hơn nữa, có sáng tác một bài hành nổi tiếng là bài Tống biệt hành. Trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Bính, với các văn thi sĩ bạn bè, chỉ có mình Thâm Tâm là người có thể gây ảnh hưởng ít nhiều lên phong cách sáng tác của ông mà thôi. Theo tài liệu của Hoài Việt thì tiếp theo sau Tống biệt hành, Thâm Tâm có sáng tác thêm một số bài hành nữa cũng rất hay như Can trường hành, Vọng nhân hành vào năm 1944. Có lẽ điều này đã kích thích Nguyễn Bính thử sức với một thể thơ không quen thuộc lắm với ông chăng? Tuy vậy Hành phương Nam lại là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Bính. Ta hãy đọc lại khổ thơ đầu của bài thơ này:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua, én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Nỗi niềm cô đơn buồn tủi khi xuân về tết đến vốn là nỗi niềm cố hữu lâu nay của Nguyễn Bính. Ông đã từng thể hiện tình cảm này trong rất nhiều bài thơ khác mà điển hình nhất là bài Xuân tha hương. Ta còn nhớ những câu thế này trong Xuân tha hương:
Chén rượu tha hương! Trời! Đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng
Lúc viết bài Hành phương Nam này cũng như nhiều bài thơ hoài cố hương khác, chắc hẳn là Nguyễn Bính đang say rượu. Qua nhiều tài liệu khác nhau ta có thể tin điều này. Bản chất con người Nguyễn Bính, do tính nghệ sĩ quá lớn của mình, nên rất yếu mềm và luôn cảm thấy cô đơn. Hoàng Tấn có kể một câu chuyện rất đặc biệt về việc sáng tác thơ của Nguyễn Bính. Một đêm nọ ở Lan Chi Viên, sau cuộc nhậu mọi người đều ngủ say sưa, chỉ còn lại một mình Nguyễn Bính. Quá nửa đêm, khi Hoàng Tấn giật mình thức giấc vẫn thấy Nguyễn Bính ngồi bên bàn. Ông vừa làm thơ và uống rượu một mình, vừa ôm mặt khóc rưng rức. Hóa ra là ông đang hồi tưởng lại quá khứ. Con người Nguyễn Bính là như vậy. Sống với quá khứ là một trong những đặc điểm của ông. Cho nên ta không lạ gì khi Nguyễn Bính viết mấy câu thơ nỗi lòng như thế này trong bài thơ:
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Hành là một thể thơ cổ, vào thời kỳ này không còn nhiều tác giả sử dụng để sáng tác nữa. Tuy nhiên thể thơ này có thể chuyển tải được những tình cảm bi tráng với giọng thơ đôi lúc rất hào sảng. Nhờ vậy mà Hành phương Nam mới lột tả hết được cái "chất Nguyễn Bính":
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
Nguyễn Bính thuở nhỏ học chữ Nho. Ông đọc nhiều thơ Đường, thông thuộc nhiều điển tích Tàu. Bởi thế một số bài thơ ông sử dụng điển tích Tàu rất nhuần nhuyễn và hay. Chẳng hạn trong bài Hành phương Nam này:
Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây
Về mặt tình cảm, ta thấy tâm tưởng của Nguyễn Bính nhiều lúc như muốn thả trôi về một thời đại xa xưa nào đó. Một thời đại mà ở đó có vua có quan có những cung tần mỹ nữ. Một thời đại mà ở đó có những tráng sĩ dũng cảm lên ngựa tuốt gươm như Kinh Kha, Nhiếp Chính, có những người sẵn sàng giúp đỡ kẻ sĩ như Mạnh Thường Quân. Thế giới đó làm ông ngây ngất. Nếu như Hàn Mặc Tử thả hồn mình vào chốn trăng sao để quên thực tại thì Nguyễn Bính lại tìm về một thời xưa xa nào đó để ẩn dật. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của thơ Nguyễn Bính.
Lúc này có lẽ là vào quãng thời gian 1943 - 1944. Nguyễn Bính đã lăn lóc ở rất nhiều vùng đất khác nhau - "lăn lóc có dư mười mấy tỉnh" như ông nói trong bài thơ Giời mưa ở Huế. Cuộc đời ông đã trở nên dày dạn sương gió rồi. Ông đã là một con người của công chúng, tiếng tăm nổi như cồn nhưng éo le thay cuộc sống cơm áo gạo tiền hằng ngày vẫn làm ông mệt mỏi. Điều mâu thuẫn này thường đến với nhiều người tài như vậy. Cũng vì cơm áo nên nhiều người không thoát ra được vòng luẩn quẩn:
Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trí thân vào nợ nước mây
Ở chỗ này, ta nhớ lại Nguyễn Vỹ với bài thơ Gửi Trương Tửu. Nguyễn Vỹ đã viết mấy câu thơ nổi tiếng:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết
Nguyễn Bính không nói bỗ bã như Nguyễn Vỹ nhưng tâm tư của ông thì cũng như vậy. Và rồi cũng như Nguyễn Vỹ, ông lại dùng rượu để quên buồn phiền:
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Lại uống rượu! Nếu có người nào chịu khó đi đếm những lần Nguyễn Bính nhắc đến rượu ở trong thơ chắc sẽ gặp được nhiều lắm. Có lẽ cả trăm lần ông dùng từ rượu:
Chị ơi! Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não lòng
(Xuân tha hương)
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say
(Giời mưa ở Huế)
Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi
Hoa tàn rượu ế ấy tình tôi
(Hoa với rượu)
...
Nhưng ngồi giữa chợ để "uống say mà gọi thế nhân ơi" cũng thật là thú vị. Tiếc là Nguyễn Bính không chịu kết lại bài thơ ở đây để ông còn ngồi uống rượu mãi giữa chợ mà ông lại viết thêm một khổ nữa:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà người cả tiếng cười
Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…
Có vẻ như ông đã quá say.
---------------------------------------------------
H.1 : Thi sĩ Nguyễn Bính
H.2 : Nguyễn Bính và gia đình Đông Hồ - Mộng Tuyết tại Hà Tiên