Mẹ đi đằng trước, con lẽo đẽo theo sau, buổi chợ sớm mai thưa người nhưng chộn rộn vì những câu hỏi ríu ran của thằng nhỏ. Mẹ ơi, con cá gì mà có cái mỏ dài quá vậy, thằng con chỉ tay vào con... vịt, hỏi. Nhưng khi mẹ trả lời đấy là con vịt, nó giãy nảy, con vịt phải có lông chứ. Dằng dặc sau đó là những câu hỏi khác, tại sao con cá kia lại nằm im re, vì sao nó chết, ai làm nó chết. Tại sao cọng rau này màu tím còn rau kia màu xanh. Mẹ vẫn nhẫn nại trả lời con và diễn đạt làm sao cho giản dị, dễ hiểu. Chỉ câu hỏi: “Mẹ ơi, tại sao người ta đem bán cá em bé? Sao người ta không cho cá em bé đi học mẫu giáo mà ăn thịt tụi nó làm chi, tội nghiệp...”, mẹ phải ngẩn ra rất lâu, phân vân tìm câu trả lời.
Nhưng không thể lờ đi, vì thằng con ngước con mắt đầy vẻ xót thương nhìn mẹ, như chờ đợi, như van xin, như cầu cứu. Trong cái thau gần đầy nước, hàng triệu con cá con (mà thằng nhỏ xem như bạn đồng trang lứa với nó) đang chen chúc nhau đớp không khí một cách tuyệt vọng. Lứa cá nhỏ hơn đầu đũa này thường là từ 15-30 ngày tuổi, người ta gọi là rồng rồng. Hơi giống trẻ con, lúc mới chào đời rồng rồng có màu đỏ, và ngả sang đen khi chúng lớn dần lên. Lúc ấy, chúng sẽ từ bỏ cái tên cúng cơm của mình, xúng xính với tên mới: Cá lóc.
Rồng rồng được cá mẹ sinh khi trời bắt đầu rải xuống những sợi mưa. Nước hớn hở dâng lên, tắm mát những ao, đìa đã mỏi mê vì những ngày khô kiệt. Sấm chớp vẫn lừ đừ, gầm gừ trong những đám mây nặng trĩu nước. Sa mưa ! Những nụ mầm mới bắt đầu nhú lên trên những cọng rau muống, rau đắng, rau ngổ... già nua. Những sinh vật của ruộng đồng như cá, ếch... vào mùa sinh sản. Lúc này, trong ao hay xuất hiện những bầy rồng rồng - những quầng đỏ lâm nhâm trên mặt nước, to như cái nia, di chuyển lấp lánh, nhịp nhàng.
Đây cũng là khoảng thời gian mẹ đi chợ, hay thấy lòng buồn rợn ngợp. Đầu chợ là cá rồng rồng, cuối chợ cũng cá rồng rồng. Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng trứng lặc lè. Ai cũng có thể nhìn thấy muôn vạn hạt trứng nhỏ lấm tấm bên trong. Dài theo lối đi, người ta bày bán mấy con cá lóc ốm nhom vật vờ bên cạnh lũ cá rô, cũng lép kẹp, chỉ bụng là quá khổ vì phải bọc lấy trứng. Cá quãng này ăn không béo, nhiều nhớt, tanh, thịt cứng, dai nhách. Dường như lũ cá đã cố ép xác, tự làm mình xấu đi, già đi, nhếch nhác, xóa dấu của sự hấp dẫn để bảo vệ lũ con sắp chào đời nhưng cũng không thoát khỏi bàn tay của con người.
Nhưng giữa chợ đời, chẳng mấy ai để tâm mà cám cảnh cho phận rồng rồng, cho con cá... có bầu, như mẹ. Hay ai cũng thấy bất nhẫn, nhưng họ cũng im lặng làm ngơ, như mẹ. Khi lấy đũa gắp mớ rồng rồng kho tiêu thơm lựng, họ cũng thấy áy náy, quá nhiều sinh vật mất cơ hội sống chỉ vì một miếng ăn của con người? Hay họ vô tư, chẳng nghĩ gì cả, bằng chứng là những sinh vật tội nghiệp ấy đã bị tận diệt hết sa mưa này đến sa mưa khác, bất chấp lệnh cấm của chính quyền (cũng phải, ngang nhiên bày bán mà có thấy ông chính quyền nào lên tiếng đâu, mắc gì phải sợ).
Mẹ đắn đo rất lâu, mẹ sợ suy nghĩ kia được nói nên lời sẽ là quá tàn nhẫn đối với đứa trẻ. Cuối cùng, mẹ nói, tại bà con mình còn nghèo. Vì nghèo, nên phải dầm mình kéo từng bầy rồng rồng, lội ròng rãi trên khắp đồng bãi tìm bắt từng con nhái, con ếch để đổi lấy ít gạo. Vì nghèo, nên đang cạy cơm cháy bữa sáng đã lo ngay ngáy bữa chiều, hơi sức đâu nghĩ tới tương lai xa vời. Và vì bụng chưa no, nên những gì người ta rao trên đài, nào là phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn hệ sinh thái... chỉ là những ngôn ngữ xa vời.
Mẹ buộc phải nói những điều quá phức tạp, đối với thằng con năm tuổi. Nhưng đó là câu trả lời bao dung nhất, ít đau đớn nhất... Chắc chắn, lớn lên nó sẽ hiểu. Chỉ sợ, lúc đó, những sản vật của ao đồng trở thành hàng quý hiếm. Và vĩnh viễn thằng con không biết âm thanh ếch, nhái kêu ran ngoài đồng sau mưa, cảnh cá rô, thác lác ục sôi dưới đìa mùa hạn, tiếng cá lóc táp lụp bụp như dừa rụng xuống ao.
Tất cả những thứ ấy, như một món nợ mà lớp con cháu không thể đòi lại từ những thế hệ đi trước. Có trả nổi đâu mà đòi...
Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 29-6-06
Lên trang này ngày 29-6-06
Những điều phiền muộn...
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Sáng nay gặp anh bạn đang ngồi hút thuốc trong phòng, vẻ mặt buồn như... thua độ đá banh. Hỏi sao ỉu xìu vậy? Bạn bảo, hàng điệp đỏ trước nhà, ven theo bờ hồ, “thằng kỹ sư nông nghiệp nọ kết liễu rồi”. Hàng cây cao đang vào độ trổ bông, cháy lòng cháy dạ mấy nhỏ học trò đang vào mùa thi cử. Vậy mà chỉ để cho cái sân sáng láng, người ta đã phá bỏ nó đi. Nghe nói lúc đầu mấy ông già hưu trí la quá trời, người nọ không dám chặt, anh ta lén rải thuốc, kỹ sư nông nghiệp mà, thiếu gì cách. Mấy bữa nay hàng cây bắt đầu quéo ngọn, xuống lá tả tơi...
Cái cảm giác bất lực làm anh bạn trở nên trầm uất. Cuộc sống đầy rẫy những điều phiền muộn. Một hàng điệp vừa qua đời. Một đứa bé ngủ li bì (vì tác dụng của thuốc) trong tay người ăn xin (mà ai cũng biết tỏng ông ta không phải là cha nó). Một ngôi nhà lai căng đỏ chót ở góc đường. Một cụ già nằm soài ngoài đường, kẻ gây ra tại nạn đã chạy mất. Vân vân và vân vân. Tôi cũng gặp biết bao chuyện cứ âm ỉ ám vào nụ cười của mình. Kinh nghiệm, càng đa cảm với sự mạnh yếu, thấp cao thì rước đau vào lòng. Như anh bạn tôi, cứ mỗi lần cơ quan tổ chức hội họp, tổng kết hay dịp kỷ niệm ngành, chờ mãi lãnh đạo không tới dự, anh thấy mình tủi thân quá, nghĩ cũng là “con” sao cấp trên bên trọng bên khinh, chắc mình là “con ghẻ” nên phải chịu cảnh thiếu ăn, thiếu tình thương phụ mẫu. Bữa rồi sơ kết sáu tháng ở sở V, bữa kia ở sở X thì đủ mặt bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch...
Nghĩ tới nghĩ lui, đa sầu đa cảm riết rồi anh đổi tính, nhún nhường, mặt lúc đăm chiêu, buồn buồn, tủi tủi, giọng uẫn ức, càm ràm như ông già tám mươi. “Sao mà mở con mắt ra là thấy cảnh mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo. Thấy nhà cao quăng rác xuống nóc nhà thấp, xe bốn bánh xịt khói bụi vô mặt người đi xe hai bánh. Lãnh đạo nằm... bệnh viện cũng ngon lành hơn dân (chớ nói chi tới chuyện cưới gả, tân gia, thôi nôi, đầy tháng...). Văn thư ủy ban xã râu mới lún phún chưa đủ cứng đã ra oai, hách dịch với cụ già...”. Kể tới đây, anh bạn thở dài, ra vẻ rầu trong bụng quá chừng. Niềm vui, nỗi đam mê lớn nhất của anh là bóng đá, nhưng vì quá sầu muộn nên cái cách xem bóng đá của anh cũng ngộ, thay vì yêu đội bóng giỏi có lối đá đẹp, đấu pháp hay... anh lại chằm chặp bênh đội chiếu dưới, đội yếu thế, đội không tên tuổi... Thí dụ như kỳ Euro vừa rồi, thức trắng, cắm đầu cắm cổ để ủng hộ Bungari, Nga, Latvia... sáng ra vào cơ quan, anh thất thểu. Hỏi sao chuốc sầu não vô mình làm chi? Anh phân trần, thấy đội yếu là anh thương, thương vì hoàn cảnh của họ sao mà giống mình.
Coi lại gần hết cuộc đời, anh ghét nhất là sự không công bằng. Vì vậy mà sáng nay anh không quên buồn bã tiếc thương cho một hàng điệp đỏ, thương cái phận yếu ớt bọt bèo của cây cỏ trước sự tàn ác của con người.
Nhưng nửa đời sắp qua đi, thường thì người ta chỉ biết tiếc nuối, cám cảnh mà quên (hay không dám) làm một điều: đấu tranh với cái xấu.
Có một đêm, tôi đi qua góc đường nơi người đàn ông ăn xin và đứa bé hay ngồi. Họ đã biến mất. Tôi hối hận điên cuồng vì tiếc, đáng lẽ mình đã phải làm gì đó, và biết đâu sẽ cứu đứa bé ấy ra khỏi cuộc đời đày ải thống khổ. Ước gì tôi đã từng bước chân lại gần chỗ họ, thay vì chỉ cho xe chạy ngang qua, rồi ngậm ngùi. Và anh bạn tôi biết đâu sẽ cứu được hàng cây...
Tôi thường tự hào là mình còn biết rung động, chia sẻ, cảm thông với những trắc trở của cuộc đời (cũng khá hơn so với nhiều người vô cảm khác). Nhưng một hôm thì niềm tự hào ấy cũng không còn nữa...