Đình làng Lại Đà trong lịch sử
Có truyền thuyết về việc chung đình của làng ta. Xưa, làng ta, Cự Trình và Lộc Hà chung đình. Nơi đất làm đình cũ, dân vẫn quen gọi là đất Đình Khiến và cả khu ruộng chung của ba làng, gọi là "Ruộng ba chạ" (chạ là tên gọi xưa của làng).
Ngôi đình hiện nay ở Lại Đà được dựng vào năm 1853. Đây là công trình cổ và bề thế nhất trong khu di tích. Đình dựng theo kiểu liên hoàn, trên một khoảnh đất phong quang, thế đất hổ phục. Trước sân đình có hai ao tròn, gọi là 2 mắt hổ; giữa có hòn đá là lưỡi hổ; phía sau đình là mình hổ và tiếp đó là đuôi hổ. Cửa đình hướng về phía Nam, trước mặt là cánh đồng và xa hơn nữa là dòng sông Đuống. Trước cửa đình có khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Hai cột đồng trụ hướng vào đình có đôi câu đối:
Kình thiên đại quán long lân trụ
Dục nhật linh quang hổ nhãn trì
Tạm dịch là :
Quán lớn chống trời cột vẩy rồng
Ao mắt hổ tắm trong ánh mặt trời
Đình làng ta thờ Thành hoàng Nguyễn Hiền. Ngài là nhân thần. Thần phả ghi: Ngài sinh ngày 11 tháng 3 năm 1234, tại châu Hoan ái. Năm Đinh Mùi (1247) Ngài đỗ Trạng nguyên, lúc ấy mới 13 tuổi. Tháng 2 năm ất Hợi (1275) giặc Chiêm Thành xâm lược nước ta, Nhà Vua cử Ngài dẫn quân đi dẹp giặc. Nhờ tài thao lược, Ngài đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc. Đất nước trở lại thanh bình, Nhà Vua phong Ngài vào hàng hiển quý quan thứ nhất.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý do bị bệnh thiên đầu thống, Ngài đã mất. Vua ban sắc phong thần và cho thờ Ngài ở 32 ngôi đền. Quan Giám Quốc Sư theo lệnh nhà vua đi tìm đất lập đền thờ Ngài. Đến đất Cối Giang (Lại Đà), quan Giám Quốc Sư thấy nơi đây là một thắng địa, liền ban cho dân làng 60 quan tiền để làm đền thờ Ngài và đền Thánh Mẫu. Với con mắt của vị quan triều am tường địa lý, ông nhận xét: "Thế đất hổ phục, rồng chầu, sao vắn chiếu hội, núi núi giăng giăng, sông nước uốn quanh. Đất này ắt phát bậc văn nhân, lương thiện...". Khu đất linh thiêng đặc địa ấy, trải qua nhiều thế hệ, ông cha ta đã xây dựng nên một làng quê trù phú, dân cư đông đúc.
Như vậy, theo thần phả, làng ta xây dựng 2 ngôi đền vào khoảng sau năm 1276. Chắc rằng, quy mô ngôi đền ngày ấy không đồ sộ như ngôi đình và miếu hiện nay. Trải qua hơn 7 thế kỷ, đền thờ Nguyễn Hiền ở Lại Đà chắc đã qua nhiều lần trùng tu, những ngặt vì tài liệu không còn lưu lại, nên chưa rõ quy mô ngôi đền đầu tiên ra sao.
Vào năm 1938 làng còn lưu giữ 20 đạo sắc phong Thành Hoàng Lại Đà. Sắc phong thứ nhất vào niên hiệu Khánh Đức (Lê Thần Tông) - ngày 19/3 năm Nhâm Thìn (1652) và sắc cuối cùng - ngày 25/7/1924, đời vua Khải Định. Xin nói rõ thêm, ngôi đình cũ (trước ngôi đình hiện nay) nhận được 12 đạo sắc phong; sau khi dựng đình mới (1853), nhận thêm 8 đạo sắc phong nữa.
Nhân nói về đình và Thành Hoàng, làng ta có tục kiêng tên huý của Thành Hoàng và Thánh mẫu. Không ai đặt tên và ngay cả khi nói, đều tránh dùng những từ đó. Mặc dù theo thần phả thì có 32 nơi thờ cúng Nguyễn Hiền, nhưng Lại Đà không có lệ giao hiếu với các làng có thờ Ngài và cũng không thấy nhắc đến việc trai gái phải kiêng cữ, không lấy nhau giữa những làng có thờ Ngài. Đồ thờ Thành Hoàng trước đây ở đình gồm: ngai, bài vị, mũ, áo, hia, đai. Làng thờ Ngài ở hai nơi: đình và nghè.
Ngày trước, ngoài ngày sinh và ngày hoá của Thành Hoàng, đình làng còn có lễ vào các ngày: thượng tuần tháng 4 có lễ kỳ yên; thượng tuần tháng 5 có lễ hạ điền, hạ tuần tháng 6 lễ thượng điền, thượng tuần tháng 9 có lễ thường tân, ngày 27/11 có lễ kỳ phúc. Tuỳ từng lễ mà đồ lễ khác nhau. Vào các lễ trọng, đồ lễ dùng xôi, gà, lợn, rượu và hoa quả, lễ xong thì thụ phúc. Người dự lễ là những vị thứ chức sắc, lão nhiêu, chức dịch tân cựu, hương trưởng ba bàn hoặc tám bàn. Khi tế, những người hành lễ là chức sắc, tư văn, hương trưởng tham dự, mọi người dùng phẩm phục, hoặc áo dài lam, áo dài thâm. Xưa kia, ngày tế lễ, mỗi giáp dùng trâu, bò, lợn gà một lễ, gọi là cổ thờ. Đồ cúng của giáp nào, giáp ấy mang về. Sau năm 1927, có sự thay đổi đồ lễ, lệ cả làng dùng lễ một con lợn, hoặc một con bò. Sau khi cúng lễ xong, những người dự lễ được thụ phúc. Ngày trước luôn có một cụ thủ từ trông nom đình. Cụ thủ từ phải là lão nhiêu tinh tú, mạnh khoẻ, do ban hương lão bầu ra.
Đình Lại Đà là ngôi đình lớn trong vùng, còn tồn tại gần như nguyên vẹn đến ngày nay và là ngôi đình có niên đại xa nhất trong các đình còn lại của xã Đông Hội. Cho đến năm 2003, đình Lại Đà tròn 150 năm tuổi.
Đình thiết kế theo hình chữ Công nhìn về hướng Nam, gồm nhà đại bái (đại đình), hậu cung và hậu bầu, đều làm bằng gỗ lim. Nền đình cao hơn sân đình 50 cm; chiều dài nhà đại bái là 25,6 m và chiều rộng 12,75 m.
Nhà đại bái là công trình chính, gồm 5 gian, 2 chái, có 8 hàng cột, 6 hàng chân (tổng số là 48 cột). Cột cái có chiều cao hơn 5 mét, đường kính 56 cm; cột quân đường kính 45 cm; cột hiên đường kính 35 cm. Gian giữa có cửa võng đề bốn chữ - Nguyễn Đại Vương từ. Ngoài ra còn nhiều hoành phi câu đối khác treo trong đình.
Trước kia đình có sàn, lát bằng gỗ lim, theo lối tam cấp, hai gian tả hữu, thì sàn một gian cao, một gian thấp. Xung quanh đình bố trí cửa bức bàn, chấn song. Các đầu dư chạm trổ theo hình đầu rồng tinh sảo. Mái đình kết cấu theo theo kiểu chồng giường, toàn bộ sức nặng của toà đình được đỡ bởi hệ thống cột.
Đình làng ta dựng thời Nguyễn, nên đồ sộ, vững chãi. Về kiến trúc, điều đáng chú ý là đầu đao có độ cong lớn. Toà đại đình bề thế. Đình có 8 hàng cột, đã nâng mái lên cao hơn và tăng thêm độ dốc, mái xoà cong xuống, trông thật mềm mại, bay bổng.
Tiếp giáp với nhà đại bái là hậu cung, nối với hậu bầu. Hậu cung có cửa khám, đặt bài vị Thành Hoàng. Phía trên cửa khám có 4 chữ "Thánh Cung Vạn Tuế". Trước cửa khám là bệ thờ, đặt ngai, mũ, áo, hia, cùng các đồ thờ tự.
Có một số câu chuyện xa về việc sửa đình. Vào năm Nhâm Dần (1842), thời Vua Thiệu Trị, thiên hạ đại xá, làng quê trở lại yên bình. Bây giờ đình dột nát, dân làng muốn sửa sang, nhưng chưa biết dựa vào ai. Mọi người liền thỉnh cụ Ngô Quý Ôn (1785-1865) đứng ra trù trì. Cụ cúng 100 hốt tiền, góp một phần vào việc sửa chữa, tu bổ đình. Nhờ vậy ngôi đình cũ tồn tại thêm được hơn 10 năm nữa. Đến khi dư dả, vào năm Tự Đức thứ 6 (1853), dân làng dựng ngôi đình mới. Ngôi đình này tồn tại đến ngày nay. Việc dựng đình do hai kíp thợ thi công, công việc tiến hành trong 3 năm mới hoàn thành. Cũng trong giai đoạn này ở làng có nhiều công trình được xây dựng, như cổng xóm 7, một số ngôi nhà cổ, đúc chuông,...
Tính từ khi xây dựng, cho đến năm 1938, đình làng vẫn chưa phải sửa chữa lớn lần nào. Từ ngày đình được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá, đã có một số lần sửa sang: năm 1989 sửa hậu cung và đảo ngói; năm 1990 xây sửa tam quan. Kể từ khi dựng đình, đợt trùng tu 2002 - 2003 là lớn nhất, với khoản đầu tư của nhà nước là 1,5 tỷ đồng (khoảng hơn 200 cây vàng), bắt đầu tiến hành vào ngày 25/10/2002 và hoàn thành vào 25/7/2003. Công việc trùng tu, về phần mộc, do tổ thợ Chàng Sơn, Thạch Thất; phần ngoã, do nhóm thợ Hoài Đức - Hà Tây đảm nhận.
Tuy nói là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng làng xã, nhưng đình làng trước hết là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra những công việc quan trọng, hội họp, thu sưu thuế, phân xử tranh chấp. Tiếp đến đình là trung tâm văn hoá, nơi tổ chức hội hè, ăn uống (do vậy mà có từ đình đám). Vào dịp hội hè, các bàn hội trong làng được ngồi ở đình theo ngôi thứ quy định. Các phường, hội hàng năm giỗ tổ cũng đến đình hội họp, như phường Bỏng, phường ca trù,... Đình còn là trung tâm tín ngưỡng, nơi thờ Thành hoàng. Thế đất, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh của dân làng. Thành Hoàng là người che chở, phụ trợ cho dân làng. Xa ai đi thi đều phải thành tâm sửa lễ ra đình, để xin Ngài phù hộ; khi công thành danh toại, vinh quy bái tổ, trước hết là vào bái tạ Thành Hoàng. Đến như trai lấy vợ, gái gả chồng, cũng có lễ tạ Thành Hoàng, gọi là lễ hương. Cuối cùng, đình là trung tâm giao lu về tinh thần, tình cảm của dân làng.
Ngoài việc chứng kiến bao sự kiện trong đại của làng, thì từ đầu thế kỷ XX, nơi đây đã diễn ra những sự kiện đáng chú ý: Vào quãng năm 1935-1945, trường hương học đầu tiên dạy chữ quốc ngữ được đặt ở đình. Ngày 18/8/1945 tại đình có cuộc mít tinh lớn do Việt Minh tổ chức. Thời kỳ chống Mỹ, đình Lại Đà là nơi đặt xưởng in của nhà máy in Lê Cường sơ tán về. Sau đó là nơi đặt kho sơ tán của nhà máy Cơ khí địa chất, rồi thành kho chứa lương thực, thuốc men, chi viện cho miền Nam và tiếp đó còn là nơi an dưỡng của bộ đội từ chiến trường ra.
Miếu:
Miếu hay dân làng còn gọi là đền. Đây là công trình nằm trong cụm di tích lịch sử - văn hoá của làng. Miếu nằm ở phía Tây và sát ngay đình làng. Miếu thờ Thánh Mẫu Trần Tiên Dung - một vị thiên thần. Miếu là một công trình được xây dựng lâu đời.
Theo thần phả thì vào tháng 7 năm ất Hợi (1275) Trạng nguyên Nguyễn Hiền phụng mệnh Triều đình đi dẹp giặc Chiêm Thành. Khi qua huyện Đông Ngàn, Ngài tới đền Phù Đổng làm lễ bái yết Trời, Đất. Đêm đó Ngài nằm mộng, thấy Trời phái Tiên Dung xuống giúp. Quả nhiên khi lâm trận, Ngài được âm phù, nên đánh đâu được đấy và bắt được Tướng giặc. Sau khi thắng lợi trở về, Ngài được Vua ban phong là Hiển quý quan đầu triều. Năm sau Ngài lâm bệnh. Nghĩ đến công phù trợ của Tiên Dung, Ngài tâu lên Vua về công tích của Tiên Dung. Sau khi Ngài mất, Vua phong Tiên Dung là Tiên Dung Công Chúa và gia ân ban Quốc tính, nên Ngài mang họ Trần. Nhà vua cấp cho 60 quan tiền để làm đền thờ hai vị Phúc Thần. Như vậy, miếu làng ta phải được xây dựng khoảng sau năm 1276, tức sau năm Nguyễn Hiền mất.
Còn theo lai lịch bản chép sự tích Thánh Mẫu, được biên soạn lại vào thời Vua Duy Tân: "Miếu xa nhỏ hẹp. Trong đời vua Thành Thái (1889-1907) có 2 lần trùng tu. Mùa đông năm ất Sửu, niên hiệu Khải Định thứ 10 (1925), miếu được mở rộng ra. Miếu bố cục theo hình chữ nhị. Nhà hậu là nơi đặt bệ, có khám thờ Thánh Mẫu; nhà trước là nơi bái vọng và ngồi dự lễ. Xưa trong miếu thờ tranh Thánh Mẫu. Thánh Mẫu trông uy nghi, lầm liệt. Tương truyền bức tranh do một người Tàu vẽ. Trải qua năm tháng, tranh bị ố rách, hư hỏng nhiều chỗ. Thế rồi các cụ trong làng gieo quẻ, xin Ngài cho sửa lại. Công việc mới chỉ làm được khung, hình Ngài cha vẽ được. Âu cũng là ý đợi đến đời sau chăng? Thời gian sau, vào dịp trùng tu miếu, các cụ lại gieo quẻ xin Ngài cho dựng tượng. Ứng quẻ, Ngài cho phép. Rồi tượng được dựng theo đúng mẫu tranh. Sau khi tượng dựng xong, tranh cũ được lưu giữ trong long hạp. Nay tranh cũ không còn nữa.
Vào năm 1925 triều Khải Định, dịp lễ mừng Đại Khánh, Nhà vua ban cho Thánh Mẫu sắc phong 6 chữ: Trang Huy Thượng Đẳng Tôn Thần.
Hàng năm, vào ngày 11 tháng 3 âm lịch, đội nữ quan ăn mặc lễ phục, cử hành lễ tại miếu, mục đích để làm rạng rỡ điển thờ lu phúc tốt lành cho dân làng.”
Xin trích một câu đối ở miếu
Thần tích hữu thi đề, vạn tuế thiên thu linh ứng lực
Tiên cung trọng bốc khảo, thập châu tam đảo trắc chiên đình
Tạm dịch là:
Thần tích có thơ đề, muôn ngàn năm sau còn hành ứng
Cung tiên trọng ở quẻ bói, thập châu, tam đảo đoái mà trông
Chùa làng
Chùa làng là một công trình cổ, nằm sát phía Đông của đình, cũng thuộc cụm di tích lịch sử - văn hoá của làng. Chùa Lại Đà có tên chữ là Cảnh Phúc. Chùa làng dựng từ xa xưa, vì không lưu giữ được thư tịch, nên không còn rõ dựng vào năm nào. Dựa vào dấu tích và một số công trình còn lại của chùa, có thể biết làm từ thời Hậu Lê.
Chùa quy hoạch làm 2 dãy: dãy phía trước là nhà tam bảo, dãy phía sau là nhà thờ hậu (còn gọi là từ hậu đường). Tam quan làm sát đường vào đình. Tam quan dựng vào năm thứ 8, triều Cảnh Thịnh (1800). Tam quan làm theo lối chồng diêm, tám mái. Góc mái với bờ đao cong vút, trên là sàn gỗ, có giá treo chuông. Một năm bản hội trong thôn đa ra ý kiến đúc quả chuông lớn, cụ Ngô Quý Hương (1657-1724) làm tờ trình làng, tự nguyện làm hội chủ, đứng ra quyên gúp đúc chuông. Quả chuông này được đúc vào khoảng từ 1690 - đến trước năm 1724, nay không rõ quả chuông ấy ở đâu?
Quả chuông đồng hiện nay được đúc vào năm Giáp Thìn (1844), thời Thiệu Trị, khởi công vào ngày 16 tháng Giêng và hoàn thành vào 29 tháng 2. Trong việc hằng tâm công đức đúc chuông, ngoài dân làng, các thiện nam tín nữ, còn có vị Tiến sỹ họ Vũ (đỗ khoa thi Hơi năm Bính Tuất - 1826). Khoa này đỗ 10 người, trong đó có hai người họ Vũ, là cụ Vũ Phan (Vũ Tông Phan) và Vũ Đức Mẫn. Cụ Vũ Tông Phan làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh. Có lẽ cụ Vũ Tông Phan là người tham gia công đức trong việc đúc chuông này.
Khu nhà hậu hình chuôi vồ, gồm 5 gian 2 dĩ, trên bờ mái có 3 chữ: "Tự hậu đường".
Xin trích một câu đối ở chùa
Nhập môn giả năng vô tham sân si thị xuất gia nhi cầu quy y đắc quy y phúc địa
Tương lai kỳ tất hữu quảng đại thắng sử hiện tại bất vi quá khứ hựu quá khứ thời kỳ
Tạm dịch là:
Những người đi vào cửa, nếu không còn tham lam, tức giận, tăm tối, đó là xuất gia, mà cầu quy y, được quy y về nơi đất phúc
Tương lại hẳn được quảng đại, mà thời kỳ hiện tại cũng không như thời kỳ quá khứ.
Nhà tam bảo do tồn tại lâu năm đã bị xuống cấp, nên quãng đầu thập niên 60 của thế kỳ XX, được giải hạ. Tháng 7/2003, dân làng và nhà chùa do sư cụ Đàm Nguyện trù trì xây dựng nhà tổ và 24/11/2003 (tức 1/11 năm Quý Mùi) khởi công xây dựng lại tam bảo. Các công trình được thiết kế xây dựng rất quy mô, bề thế.
Nghè
Theo truyền thuyết Rắn thần và Nghè Lại Đà, thì nghè được xây dựng từ lâu. Dân làng chọn nơi đất cao ở làng làm nơi thờ thần, quanh năm hương khói để cầu xin thần linh phù trợ. Được biết rằng, trước năm 1938, nghè đã qua nhiều lần sửa sang. Năm 1976 cửa nghè bị phá; năm 2000 sửa sang, tu bổ nghè và xây lại tường và 2 cột đồng trụ, gọi là "cửa nghè".
Văn chỉ
Văn chỉ là nơi thờ Khổng Tử, người sáng lập đạo Nho, đồng thời còn phối thờ bốn danh nho, những học trò xuất sắc của Khổng Tử và các danh nho của làng.
Văn chỉ Lại Đà được xây dựng trên khu đất rộng ở ngay giữa làng. Bệ thờ dựa lưng vào đường làng, cửa chính nhìn ra hướng Tây. Khu văn chỉ ẩn mình dới cây nhãn cổ thụ và cây sanh (nay cây nhãn đã chết, chỉ còn lại cây sanh). Phía trước mặt, hai bên tả hữu, mỗi bên có một bệ thờ bằng gạch đối diện nhau. Trước cửa văn chỉ có cuốn thư che bệ thờ, gọi là tắc môn. Người vào phải qua cửa, rồi rẽ sang hai bên. Xung quanh văn chỉ có tường bao vây quanh. Xin trích nghĩa một đôi câu đối ở văn chỉ:
Đền Đàn miếu vũ văn chơng thiên cổ
Lễ nhạc y quan khoa Giáp làng này.
Qua vế đối thứ hai, có từ “Khoa giáp”, biểu thị làng ta từng có người đỗ Tiến sỹ (tức cụ Vương Khắc Thuật, đỗ Thám hoa).
Văn chỉ do phe Tư văn quản lý, thờ phụng. Thành viên phe Tư văn gồm những người có văn học. Đó là những người có học, như Khoá sinh, Tú tài, Cử nhân, các hưu quan có học. Tuỳ theo làng có người đỗ đạt mà quy định tiêu chuẩn vào phe Tư văn. Đứng đầu bao giờ cũng là người có học vị và chức tước cao.
Tư văn làng ta có 3 mẫu ruộng, do làng cấp và một số ruộng công đức. Đó là ruộng học điền của làng. Học điền một phần dùng để cúng lễ xuân thu nhị kỳ tại văn chỉ, còn lại để nuôi thầy dạy học ở làng. Nhằm khuyến khích việc học tập, còn trích một phần quỹ học điền để trợ cấp giấy mức, sách vở cho con em nghèo trong làng - gọi là khuyến học.
Văn chỉ làng ta được xây dựng và bảo tồn qua nhiều thế hệ. Tiếc rằng, vào năm 1965 đã bị phá đi để làm "Vườn cây kết nghĩa". Nay văn chỉ không còn, vườn cây kết nghĩa cũng không có. Dấu tích văn chỉ xa, nay chỉ còn lại cây sanh già.
Đàn Tiên lão
Vị trí nằm giáp đường làng, giữa chùa và đình. Đàn tiên lão do ban hương lão chủ trì việc tế lễ. Nay đàn này không còn nữa. Xin trích một đôi câu đối ở đàn Tiên lão:
- " Hàng năm theo lễ xa, làng cũng như nước"
- "Làm cho dân biết theo đạo hiếu, ngày sau sẽ nhìn vào ngày nay"
Đàn Tiên Nông
Trong tháng chín có lễ Thường Tân. Ngoài lễ các nơi khác, còn có lễ ở đàn Tiên nông. Đàn là nơi tế lễ cầu cho ma thuận, gió hoà, mùa màng bội thu. Không rõ vị trí đàn này ở đâu.
Điếm thờ:
Sát hậu bầu của đình, trước đây có điếm thờ. Đây là nơi cụ từ và viên đương cai tế chủ nghỉ và sau khi tế lễ xong, đồ lễ được mang xuống điếm thờ.
Nhà hội tự đường
Trong hương ước ghi, vào ngày 13/3 lễ bản cảnh tôn thần, lễ tiên đạt diễn ra ở nhà hội tự đường. Nay không rõ nhà này vị trí ở đâu.
Nhà hội đồng
Nhà hội đồng nằm ở vị trí nhà trẻ ngày nay. Nhà hội đồng là trụ sở làm việc của hương chức, lý dịch, thường trực giải quyết việc công của làng. Gian chính của nhà hội đồng có bức hoành phi 4 chữ thếp vàng: Địa linh nhân kiệt. Sau cách mạng tháng 8/1945, nhà hội đồng chuyển thành thư viện và "Nhà thông tin" của làng.
Điếm tuần
Làng ta trước có 3 điếm tuần của khu Trong, khu Giữa và khu Ngoài. Điếm là nơi để các tuần canh bảo vệ làng tập trung, nghỉ ngơi. Trước đây làng có hai ban tuần, một ban coi lúa và hoa màu ngoài cánh đồng, một ban bảo vệ xóm làng. Điếm Trong nằm vào quãng giữa xóm 1 và xóm 2; điếm Giữa nằm gần quãng cây sanh bây giờ; điếm Ngoài vị trí ở nằm ở bên cây đề, gần tam quan. Điếm Ngoài sau bị rỡ, xây lại ở xóm 15, áp với cổng làng Ngoài.
Luỹ làng
Luỹ tre làng là biểu tượng của nông thôn Việt Nam, là "bức thành" kiến cố, bất khả xâm phạm của làng xa.
Để bảo vệ cuộc sống dân làng, mà trước đây là việc phòng chống trộm, cướp, ông cha làng ta đã đắp một hệ thống luỹ đất, có hào sâu phía ngoài, vừa an toàn khi phòng thủ, vừa thuận lợi khi tấn công. Hệ thống luỹ hào quanh làng được bố trí như sau: Từ cổng làng Trong là luỹ đất chạy hình vòng cung theo hướng Tây đến tận cổng làng Ngoài. Luỹ cao tới một, hai mét, rộng chừng hai, ba mét, chân luỹ là hào sâu, rộng độ hai, ba mét. Trên mặt luỹ, tre ken dày. Từ gần cổng làng Trong, dọc theo phía Đông của làng, do không đắp được luỹ, nên đã xẻ một hào sâu, phía trong hào trồng táo dại (táo gai). Cùng với hào sâu, bờ táo gai chằng chịt, còn có các đầm và ao hồ phía trong, đã tạo thành một hệ thống bảo vệ kép, ngăn không cho người ngoài xâm nhập.
Chính hệ thống luỹ tre này, mà trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần quân giặc rất khó khăn khi tấn công vào làng. Để bảo vệ luỹ làng, hương ước có những điều quy định, mọi ngời phải tuân thủ. Thí dụ như có ngọn tre trên luỹ ngả xuống ruộng, chủ ruộng phải trình báo tuần phiên, nếu qua xem xét, có sự đồng ý, thì chủ ruộng mới được phát ngọn tre đó. Về chuyện bảo vệ luỹ làng, dân làng còn lưu truyền câu chuyện: Vào thời Tự Đức, một chủ gia đình có uy tín trong làng, để làm gương trong việc bảo vệ luỹ làng, đã bí mật sai người nhà buộc con trâu của nhà mình vào luỹ làng, rồi cho ngời đi báo tuần. Lần ấy làng đã phạt, thịt con trâu, chia cho dân làng. Đến một người danh giá, xâm phạm luỹ làng, còn bị phạt, nên sau chuyện đó, việc bảo vệ luỹ làng càng được coi trọng hơn.
Do tình hình kinh tế, an ninh đã thay đổi, năm 1976, khi hợp nhất HTX toàn xã, lũy làng đợc phá bỏ.
Cầu gạch (quán):
Cầu gạch là một bộ phận của cấu trúc làng cổ Lại Đà. Cầu gạch nay không còn nữa, nhưng nhắc lại để người sau biết về một công trình trong kiến trúc xa của làng. Vị trí cầu gạch cách nghè độ trăm mét. Cầu có 3 gian, hai đầu hồi xây tường và có một bệ gạch. Trước cửa có 2 cây cổ thụ: cây gạo và cây sanh. Sau cây gạo bị chặt, còn cây sanh già cỗi đã giải hạ. Đây là một trạm đầu tiên của làng. Trong thần phả, thì Thành Hoàng làng ta thuộc diện được nhà nước tế. Cứ vào những năm nhất định, quan trên về đình tế lễ Thành Hoàng. Cầu gạch là trạm dừng chân đầu tiên để quan trên chấn chỉnh quan phục, tiếp đó họ qua nghè làm lễ trình thổ thần, sau đó mới vào đình làm lễ tế thần.
Đó là chức năng của cầu gạch trong việc tế lễ thần. Còn những ngày bình thường, cầu gạch là công trình dùng trong việc khuyến nông. Khi nông dân ra đồng, vào những ngày nắng nóng, hay lúc ăn tra, thợ cày, thợ cấy vào cầu gạch nghỉ ngơi. Trớc đây, thợ cày, thợ cấy thường đi làm sớm, quãng tám chín giờ sáng, gia chủ gánh cơm ra cầu gạch cho thợ cày, thợ cấy ăn uống. Cầu gạch còn là nơi nghỉ chân cho những ai có việc đi xa về, trước khi họ vào làng. Cầu gạch được xây lại vào quãng năm 1944. Năm 1945, cầu gạch đã chứng kiến tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật - gây ra nạn đói khốc liệt năm 1945. Dân từ nhiều nơi, như Thái Bình, Hải Dương, Nam Định về tụ tập, trú ngụ ở cầu gạch: những đứa trẻ đầu trọc, bủng ỏng, những đàn ông, đàn bà phù nề, có người chồng chết, vợ khóc không ra hơi,... Nếu có người chết đói, làng cử tuần đinh ra, đem xác đi chôn ở gò Gốc Sữa gần đó. Chôn không có ván, mà chỉ bó xác vào chiếu. Trong trận đói 1945, ước tính có khoảng 50 người ở xã Đông Hội bị chết đói, còn làng ta có khoảng 15 người. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cầu gạch là trạm gác của du kích. Nếu có địch, thì người gác làm mật hiệu báo động, để du kích và dân làng chủ động đối phó.
Vào những năm chiến tranh leo thang của không quân Mỹ ra miền Bắc, để bảo đàm an toàn cho thầy và trò, trường học đợc phân tán về các làng xóm. Từ 1969- 1972 văn phòng của Ban giám hiệu và thư viện trường cấp II của xã, đặt tại cầu gạch. Năm 1972-1973 là nhà kho chứa dây điện phục vụ chiến đấu. Cầu gạch tồn tại đến năm 1976 thì bị dỡ bỏ.
Nhân nhắc tới cầu Gạch cũng xin kể về cầu Đàm. Xa kia Lại Đà và Cự Trình có việc tranh chấp nhau về ranh giới. Việc phân chia diễn ra không suôn sẻ, thấu đến Thiên đình. Trời liền sai thiên lôi xuống, đánh toặc cây gạo làm hai thân, mỗi thân hướng về một làng. Vì không làng nào chịu sang làng nào để họp bàn việc phân chia ranh giới, cuối cùng cả hai tìm ra giải pháp, đắp con đường từ cầu Gạch (Lại Đà) đến cửa đình làng Cự Trình và dựng một ngôi nhà (gọi là cầu Đàm - đàm phán) ở giữa.... Phải chăng đấy chỉ là truyền thuyết của một thuở làng quê xa sau luỹ tre làng, việc tranh chấp ranh giới thường thấy ở nhiều xóm làng xa. Không rõ thực hư đến đâu, ta hãy gác chuyện thần linh lại, chỉ biết rằng đến năm 2003 cây gạo hai thân vẫn còn và vết tích con đường cầu Đàm cùng địa danh cầu Đàm thì dân làng ai cũng hay.