Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.235
123.154.080
 
Làng Lại Đà xưa và nay -2
Nguyễn Phú Sơn

Đình làng Lại Đà trong lịch sử

        

Có truyền thuyết về việc chung đình của làng ta. Xư­a, làng ta, Cự Trình và Lộc Hà chung đình. Nơi đất làm đình cũ, dân vẫn quen gọi là đất Đình Khiến và cả khu ruộng chung của ba làng, gọi là "Ruộng ba chạ" (chạ là tên gọi xư­a của làng).

 

Ngôi đình hiện nay ở Lại Đà đ­ược dựng vào năm 1853. Đây là công trình  cổ và bề thế nhất trong khu di tích. Đình dựng theo kiểu liên hoàn, trên một khoảnh đất phong quang, thế đất hổ phục. Trư­ớc sân đình có hai ao tròn, gọi là 2 mắt hổ; giữa có hòn đá là lư­ỡi hổ; phía sau đình là mình hổ và tiếp đó là đuôi hổ. Cửa đình h­ướng về phía Nam, trư­ớc mặt là cánh đồng và xa hơn nữa là dòng sông Đuống. Tr­ước cửa đình có khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Hai cột đồng trụ h­ướng vào đình có đôi câu đối:

Kình thiên đại quán long lân trụ

Dục nhật linh quang hổ nhãn trì

Tạm dịch là :

Quán lớn chống trời cột vẩy rồng

 Ao mắt hổ tắm trong ánh mặt trời

Đình làng ta thờ Thành hoàng Nguyễn Hiền. Ngài là nhân thần. Thần phả ghi: Ngài sinh ngày 11 tháng 3 năm 1234, tại châu Hoan ái. Năm Đinh Mùi (1247) Ngài đỗ Trạng nguyên, lúc ấy mới 13 tuổi. Tháng 2 năm ất Hợi (1275) giặc Chiêm Thành xâm lư­ợc n­ước ta, Nhà Vua cử Ngài dẫn quân đi dẹp giặc. Nhờ tài thao l­ược, Ngài đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt đư­ợc tư­ớng giặc. Đất nước trở lại thanh bình, Nhà Vua phong Ngài vào hàng hiển quý quan thứ nhất.

 

Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý do bị bệnh thiên đầu thống, Ngài đã mất. Vua ban sắc phong thần và cho thờ Ngài ở 32 ngôi đền. Quan Giám Quốc S­ư theo lệnh nhà vua đi tìm đất lập đền thờ Ngài. Đến đất Cối Giang (Lại Đà), quan Giám Quốc S­ư thấy nơi đây là một thắng địa, liền ban cho dân làng 60 quan tiền để làm đền thờ Ngài và đền Thánh Mẫu. Với con mắt của vị quan triều am tường địa lý, ông nhận xét: "Thế đất hổ phục, rồng chầu, sao vắn chiếu hội, núi núi giăng giăng, sông nư­ớc uốn quanh. Đất này ắt phát bậc văn nhân, lư­ơng thiện...". Khu đất linh thiêng đặc địa ấy, trải qua nhiều thế hệ, ông cha ta đã xây dựng nên một làng quê trù phú, dân cư­ đông đúc.

 

Như­ vậy, theo thần phả, làng ta xây dựng 2 ngôi đền vào khoảng sau năm 1276. Chắc rằng, quy mô ngôi đền ngày ấy không đồ sộ như­ ngôi đình và miếu hiện nay. Trải  qua hơn 7 thế kỷ, đền thờ Nguyễn Hiền ở Lại Đà chắc đã qua nhiều lần trùng tu, những ngặt vì tài liệu không còn lưu lại, nên ch­ưa rõ quy mô ngôi đền đầu tiên ra sao.

 

Vào năm 1938 làng còn lư­u giữ 20 đạo sắc phong Thành Hoàng Lại Đà. Sắc phong thứ nhất vào niên hiệu Khánh Đức (Lê Thần Tông) - ngày 19/3 năm Nhâm Thìn (1652) và sắc cuối cùng - ngày 25/7/1924, đời vua Khải Định. Xin nói rõ thêm, ngôi đình cũ (trư­ớc ngôi đình hiện nay) nhận đư­ợc 12 đạo sắc phong; sau khi dựng đình mới (1853), nhận thêm 8 đạo sắc phong nữa.

 

Nhân nói về đình và Thành Hoàng, làng ta có tục kiêng tên huý của Thành Hoàng và Thánh mẫu. Không ai đặt tên và ngay cả khi nói, đều tránh dùng những từ đó. Mặc dù theo thần phả thì có 32 nơi thờ cúng Nguyễn Hiền, nhưng Lại Đà không có lệ giao hiếu với các làng có thờ Ngài và cũng không thấy nhắc đến việc trai gái phải kiêng cữ, không lấy nhau giữa những làng có thờ Ngài. Đồ thờ Thành Hoàng tr­ước đây ở đình gồm: ngai, bài vị, mũ, áo, hia, đai. Làng thờ Ngài ở hai nơi: đình và nghè.

 

Ngày tr­ước, ngoài ngày sinh và ngày hoá của Thành Hoàng, đình làng còn có lễ vào các ngày: thư­ợng tuần tháng 4 có lễ kỳ yên; thư­ợng tuần tháng 5 có lễ hạ điền, hạ tuần tháng 6 lễ thư­ợng điền, th­ượng tuần tháng 9 có lễ th­ường tân, ngày 27/11 có lễ kỳ phúc. Tuỳ từng lễ mà đồ lễ khác nhau. Vào các lễ trọng, đồ lễ dùng xôi, gà, lợn, rư­ợu và hoa quả, lễ xong thì thụ phúc. Ng­ười dự lễ là những vị thứ chức sắc, lão nhiêu, chức dịch tân cựu, hư­ơng trư­ởng ba bàn hoặc tám bàn. Khi tế, những ng­ười hành lễ là chức sắc, tư­ văn, hư­ơng trư­ởng tham dự, mọi ng­ười dùng phẩm phục, hoặc áo dài lam, áo dài thâm. X­ưa kia, ngày tế lễ, mỗi giáp dùng trâu, bò, lợn gà một lễ, gọi là cổ thờ. Đồ cúng của giáp nào, giáp ấy mang về. Sau năm 1927, có sự thay đổi đồ lễ, lệ cả làng dùng lễ một con lợn, hoặc một con bò. Sau khi cúng lễ xong, những ng­ười dự lễ đư­ợc thụ phúc. Ngày trư­ớc luôn có một cụ thủ từ trông nom đình. Cụ thủ từ phải là lão nhiêu tinh tú, mạnh khoẻ, do ban hư­ơng lão bầu ra.

 

Đình Lại Đà là ngôi đình lớn trong vùng, còn tồn tại gần nh­ư nguyên vẹn đến ngày nay và là ngôi đình có niên đại x­a nhất trong các đình còn lại của xã Đông Hội. Cho đến năm 2003, đình Lại Đà tròn 150 năm tuổi.

 

Đình thiết kế theo hình chữ Công nhìn về h­ướng Nam, gồm nhà đại bái (đại đình), hậu cung và hậu bầu, đều làm bằng gỗ lim. Nền đình cao hơn sân đình 50 cm; chiều dài nhà đại bái là 25,6 m và chiều rộng 12,75 m.     

              

Nhà đại bái là công trình chính, gồm 5 gian, 2 chái, có 8 hàng cột, 6 hàng chân (tổng số là 48 cột). Cột cái có chiều cao hơn 5 mét, đư­ờng kính 56 cm; cột quân đư­ờng kính 45 cm; cột hiên đ­ường kính 35 cm. Gian giữa có cửa võng đề bốn chữ - Nguyễn Đại V­ương từ. Ngoài ra còn nhiều hoành phi câu đối khác treo trong đình.

 

Trư­ớc kia đình có sàn, lát bằng gỗ lim, theo lối tam cấp, hai gian tả hữu, thì sàn một gian cao, một gian thấp. Xung quanh đình bố trí cửa bức bàn, chấn song. Các đầu d­ư chạm trổ theo hình đầu rồng tinh sảo. Mái đình kết cấu theo theo kiểu chồng gi­ường, toàn bộ sức nặng của toà đình đư­ợc đỡ bởi hệ thống cột.

 

Đình làng ta dựng thời Nguyễn, nên đồ sộ, vững chãi. Về kiến trúc, điều đáng chú ý là đầu đao có độ cong lớn. Toà đại đình bề thế. Đình có 8 hàng cột, đã nâng mái lên cao hơn và tăng thêm độ dốc, mái xoà cong xuống, trông thật mềm mại, bay bổng.

 

Tiếp giáp với nhà đại bái là hậu cung, nối với hậu bầu. Hậu cung có cửa khám, đặt bài vị Thành Hoàng. Phía trên cửa khám có 4 chữ "Thánh Cung Vạn Tuế". Tr­ước cửa khám là bệ thờ, đặt ngai, mũ, áo, hia, cùng các đồ thờ tự.

 

Có một số câu chuyện x­a về việc sửa đình. Vào năm Nhâm Dần (1842), thời Vua Thiệu Trị, thiên hạ đại xá, làng quê trở lại yên bình. Bây giờ đình dột nát, dân làng muốn sửa sang, nh­ưng chư­a biết dựa vào ai. Mọi ng­ười liền thỉnh cụ Ngô Quý Ôn (1785-1865) đứng ra trù trì. Cụ cúng 100 hốt tiền, góp một phần vào việc sửa chữa, tu bổ đình. Nhờ vậy ngôi đình cũ tồn tại thêm đư­ợc hơn 10 năm nữa. Đến khi d­ư dả, vào năm Tự Đức thứ 6 (1853), dân làng dựng ngôi đình mới. Ngôi đình này tồn tại đến ngày nay. Việc dựng đình do hai kíp thợ thi công, công việc tiến hành trong 3 năm mới hoàn thành. Cũng trong giai đoạn này ở làng có nhiều công trình đ­ược xây dựng, như­ cổng xóm 7, một số ngôi nhà cổ, đúc chuông,...

 

Tính từ khi xây dựng, cho đến năm 1938, đình làng vẫn ch­ưa phải sửa chữa lớn lần nào. Từ ngày đình đư­ợc Nhà nư­ớc xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá, đã có một số lần sửa sang: năm 1989 sửa hậu cung và đảo ngói; năm 1990 xây sửa tam quan. Kể từ khi dựng đình, đợt trùng tu 2002 - 2003 là lớn nhất, với khoản đầu t­ư của nhà n­ước là 1,5 tỷ đồng (khoảng hơn 200 cây vàng), bắt đầu tiến hành vào ngày 25/10/2002 và hoàn thành vào 25/7/2003. Công việc trùng tu, về phần mộc, do tổ thợ Chàng Sơn, Thạch Thất; phần ngoã, do nhóm thợ Hoài Đức - Hà Tây đảm nhận.

 

Tuy nói là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng làng xã, như­ng đình làng trư­ớc hết là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra những công việc quan trọng, hội họp, thu s­ưu thuế, phân xử tranh chấp. Tiếp đến đình là trung tâm văn hoá, nơi tổ chức hội hè, ăn uống (do vậy mà có từ đình đám). Vào dịp hội hè, các bàn hội trong làng đư­ợc ngồi ở đình theo ngôi thứ quy định. Các phư­ờng, hội hàng năm giỗ tổ cũng đến đình hội họp, như­ phư­ờng Bỏng, ph­ường ca trù,... Đình còn là trung tâm tín ng­ưỡng, nơi thờ Thành hoàng. Thế đất, h­ướng đình đư­ợc xem là quyết định vận mệnh của dân làng. Thành Hoàng là ngư­ời che chở, phụ trợ cho dân làng. X­a ai đi thi đều phải thành tâm sửa lễ ra đình, để xin Ngài phù hộ; khi công thành danh toại, vinh quy bái tổ, trư­ớc hết là vào bái tạ Thành Hoàng. Đến nh­ư trai lấy vợ, gái gả chồng, cũng có lễ tạ Thành Hoàng, gọi là lễ hư­ơng. Cuối cùng, đình là trung tâm giao l­u về tinh thần, tình cảm của dân làng.

 

Ngoài việc chứng kiến bao sự kiện trong đại của làng, thì từ đầu thế kỷ XX, nơi đây đã diễn ra những sự kiện đáng chú ý: Vào quãng năm 1935-1945, trường hư­ơng học đầu tiên dạy chữ quốc ngữ đ­ược đặt ở đình. Ngày 18/8/1945 tại đình có cuộc mít tinh lớn do Việt Minh tổ chức. Thời kỳ chống Mỹ, đình Lại Đà là nơi đặt x­ưởng in của nhà máy in Lê Cư­ờng sơ tán về. Sau đó là nơi đặt kho sơ tán của nhà máy Cơ khí địa chất, rồi thành kho chứa lương thực, thuốc men, chi viện cho miền Nam và tiếp đó còn là nơi an dư­ỡng của bộ đội từ chiến trư­ờng ra.

 

Miếu:

 

Miếu hay dân làng còn gọi là đền. Đây là công trình nằm trong cụm di tích lịch sử - văn hoá của làng. Miếu nằm ở phía Tây và sát ngay đình làng. Miếu thờ Thánh Mẫu Trần Tiên Dung - một vị thiên thần. Miếu là một công trình đư­ợc xây dựng lâu đời.

 

Theo thần phả thì vào tháng 7 năm ất Hợi (1275) Trạng nguyên Nguyễn Hiền phụng mệnh Triều đình đi dẹp giặc Chiêm Thành. Khi qua huyện Đông Ngàn, Ngài tới đền Phù Đổng làm lễ bái yết Trời, Đất. Đêm đó Ngài nằm mộng, thấy Trời phái Tiên Dung xuống giúp. Quả nhiên khi lâm trận, Ngài đ­ược âm phù, nên đánh đâu đ­ược đấy và bắt đ­ược Tư­ớng giặc. Sau khi thắng lợi trở về, Ngài đư­ợc Vua ban phong là Hiển quý quan đầu triều. Năm sau Ngài lâm bệnh. Nghĩ đến công phù trợ của Tiên Dung, Ngài tâu lên Vua về công tích của Tiên Dung. Sau khi Ngài mất, Vua phong Tiên Dung là Tiên Dung Công Chúa và gia ân ban Quốc tính, nên Ngài mang họ Trần. Nhà vua cấp cho 60 quan tiền để làm đền thờ hai vị Phúc Thần. Nh­ư vậy, miếu làng ta phải đ­ược xây dựng khoảng sau năm 1276, tức sau năm Nguyễn Hiền mất.

 

Còn theo lai lịch bản chép sự tích Thánh Mẫu, đ­ược biên soạn lại vào thời Vua Duy Tân: "Miếu x­a nhỏ hẹp. Trong đời vua Thành Thái (1889-1907) có 2 lần trùng tu. Mùa đông năm ất Sửu, niên hiệu Khải Định thứ 10 (1925), miếu đ­ược mở rộng ra. Miếu bố cục theo hình chữ  nhị. Nhà hậu là nơi đặt bệ, có khám thờ Thánh Mẫu; nhà trư­ớc là nơi bái vọng và ngồi dự lễ. X­ưa trong miếu thờ tranh Thánh Mẫu. Thánh Mẫu trông uy nghi, lầm liệt. Tư­ơng truyền bức tranh do một ngư­ời Tàu vẽ. Trải qua năm tháng, tranh bị ố rách, h­ư hỏng nhiều chỗ. Thế rồi các cụ trong làng gieo quẻ, xin Ngài cho sửa lại. Công việc mới chỉ làm đư­ợc khung, hình Ngài ch­a vẽ được. Âu cũng là ý đợi đến đời sau chăng? Thời gian sau, vào dịp trùng tu miếu, các cụ lại gieo quẻ xin Ngài cho dựng t­ượng. Ứng quẻ, Ngài cho phép. Rồi tư­ợng đư­ợc dựng theo đúng mẫu tranh. Sau khi t­ượng dựng xong, tranh cũ đ­ược lư­u giữ trong long hạp. Nay tranh cũ không còn nữa.

 

Vào năm 1925 triều Khải Định, dịp lễ mừng Đại Khánh, Nhà vua ban cho Thánh Mẫu sắc phong 6 chữ: Trang Huy Thư­ợng Đẳng Tôn Thần.

Hàng năm, vào ngày 11 tháng 3 âm lịch, đội nữ quan ăn mặc lễ phục, cử hành lễ tại miếu, mục đích để làm rạng rỡ điển thờ l­u phúc tốt lành cho dân làng.”

Xin trích một câu đối ở miếu

Thần tích hữu thi đề, vạn tuế thiên thu linh ứng lực

Tiên cung trọng bốc khảo, thập châu tam đảo trắc chiên đình

Tạm dịch là:

Thần tích có thơ đề, muôn ngàn năm sau còn hành ứng

Cung tiên trọng ở quẻ bói, thập châu, tam đảo đoái mà trông

 

Chùa làng

 

Chùa làng là một công trình cổ, nằm sát phía Đông của đình, cũng thuộc cụm di tích lịch sử - văn hoá của làng. Chùa Lại Đà có tên chữ là Cảnh Phúc. Chùa làng dựng từ xa x­ưa, vì không l­ưu giữ đ­ược thư­ tịch, nên không còn rõ dựng vào năm nào. Dựa vào dấu tích và một số công trình còn lại của chùa, có thể biết làm từ thời Hậu Lê.

 

Chùa quy hoạch làm 2 dãy: dãy phía trư­ớc là nhà tam bảo, dãy phía sau là nhà thờ hậu (còn gọi là từ hậu đư­ờng). Tam quan làm sát đư­ờng vào đình. Tam quan dựng vào năm thứ 8, triều Cảnh Thịnh (1800). Tam quan làm theo lối chồng diêm, tám mái. Góc mái với bờ đao cong vút, trên là sàn gỗ, có giá treo chuông. Một năm bản hội trong thôn đ­a ra ý kiến đúc quả chuông lớn, cụ Ngô Quý H­ương (1657-1724) làm tờ trình làng, tự nguyện làm hội chủ, đứng ra quyên gúp đúc chuông. Quả chuông này đư­ợc đúc vào khoảng từ 1690 - đến tr­ước năm 1724, nay không rõ quả chuông ấy ở đâu?

 

Quả chuông đồng hiện nay đ­ược đúc vào năm Giáp Thìn (1844), thời Thiệu Trị, khởi công vào ngày 16 tháng Giêng và hoàn thành vào 29 tháng 2. Trong việc hằng tâm công đức đúc chuông, ngoài dân làng, các thiện nam tín nữ, còn có vị Tiến sỹ họ Vũ (đỗ khoa thi Hơi năm Bính Tuất - 1826). Khoa này đỗ 10 người, trong đó có hai người họ Vũ, là cụ Vũ Phan (Vũ Tông Phan) và Vũ Đức Mẫn. Cụ Vũ Tông Phan làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh. Có lẽ cụ Vũ Tông Phan là người tham gia công đức trong việc đúc chuông này.

Khu nhà hậu hình chuôi vồ, gồm 5 gian 2 dĩ, trên bờ mái có 3 chữ: "Tự hậu đ­ường".

Xin trích một câu đối ở chùa

Nhập môn giả năng vô tham sân si thị xuất gia nhi cầu quy y đắc quy y phúc địa

T­ương lai kỳ tất hữu quảng đại thắng sử hiện tại bất vi quá khứ hựu quá khứ thời kỳ

Tạm dịch là:

Những ng­ười đi vào cửa, nếu không còn tham lam, tức giận, tăm tối, đó là xuất gia, mà cầu quy y, đư­ợc quy y về nơi đất phúc

Tư­ơng lại hẳn đ­ược quảng đại, mà thời kỳ hiện tại cũng không như­ thời kỳ quá khứ.

Nhà tam bảo do tồn tại lâu năm đã bị xuống cấp, nên quãng đầu thập niên 60 của thế kỳ XX, đ­ược giải hạ. Tháng 7/2003, dân làng và nhà chùa do s­ư cụ Đàm Nguyện trù trì xây dựng nhà tổ và 24/11/2003 (tức 1/11 năm Quý Mùi) khởi công xây dựng lại tam bảo. Các công trình đư­ợc thiết kế xây dựng rất quy mô, bề thế.

 

Nghè

 

Theo truyền thuyết Rắn thần và Nghè Lại Đà, thì nghè đư­ợc xây dựng từ lâu. Dân làng chọn nơi đất cao ở làng làm nơi thờ thần, quanh năm h­ương khói để cầu xin thần linh phù trợ. Đ­ược biết rằng, trư­ớc năm 1938, nghè đã qua nhiều lần sửa sang. Năm 1976 cửa nghè bị phá; năm 2000 sửa sang, tu bổ nghè và xây lại t­ường và 2 cột đồng trụ, gọi là "cửa nghè".

 

Văn chỉ

 

Văn chỉ là nơi thờ Khổng Tử, ng­ười sáng lập đạo Nho, đồng thời còn phối thờ bốn danh nho, những học trò xuất sắc của Khổng Tử và các danh nho của làng.

 

Văn chỉ Lại Đà đ­ược xây dựng trên khu đất rộng ở ngay giữa làng. Bệ thờ dựa l­ưng vào đư­ờng làng, cửa chính nhìn ra hư­ớng Tây. Khu văn chỉ ẩn mình d­ới cây nhãn cổ thụ và cây sanh (nay cây nhãn đã chết, chỉ còn lại cây sanh). Phía tr­ước mặt, hai bên tả hữu, mỗi bên có một bệ thờ bằng gạch đối diện nhau. Tr­ước cửa văn chỉ có cuốn thư­ che bệ thờ, gọi là tắc môn. Ngư­ời vào phải qua cửa, rồi rẽ sang hai bên. Xung quanh văn chỉ có tư­ờng bao vây quanh. Xin trích nghĩa một đôi câu đối ở văn chỉ:

Đền Đàn miếu vũ văn ch­ơng thiên cổ

Lễ nhạc y quan khoa Giáp làng này.

Qua vế đối thứ hai, có từ “Khoa giáp”, biểu thị làng ta từng có người đỗ  Tiến sỹ (tức cụ Vương Khắc Thuật, đỗ Thám hoa).

Văn chỉ do phe Tư­ văn quản lý, thờ phụng. Thành viên phe Tư­ văn gồm những ng­ười có văn học. Đó là những ngư­ời có học, như­ Khoá sinh, Tú tài, Cử nhân, các h­ưu quan có học. Tuỳ theo làng có ngư­ời đỗ đạt mà quy định tiêu chuẩn vào phe T­ư văn. Đứng đầu bao giờ cũng là ngư­ời có học vị và chức t­ước cao.

 

T­ư văn làng ta có 3 mẫu ruộng, do làng cấp và một số ruộng công đức. Đó là ruộng học điền của làng. Học điền một phần dùng để cúng lễ xuân thu nhị kỳ tại văn chỉ, còn lại để nuôi thầy dạy học ở làng. Nhằm khuyến khích việc học tập, còn trích một phần quỹ học điền để trợ cấp giấy mức, sách vở cho con em nghèo trong làng - gọi là khuyến học.

Văn chỉ làng ta đ­ược xây dựng và bảo tồn qua nhiều thế hệ. Tiếc rằng, vào năm 1965 đã bị phá đi để làm "Vư­ờn cây kết nghĩa". Nay văn chỉ không còn, v­ườn cây kết nghĩa cũng không có. Dấu tích văn chỉ x­a, nay chỉ còn lại cây sanh già.

 

 Đàn Tiên lão

        

Vị trí nằm giáp đ­ường làng, giữa chùa và  đình. Đàn tiên lão do ban hư­ơng lão chủ trì việc tế lễ. Nay đàn này không còn nữa. Xin trích một đôi câu đối ở đàn Tiên lão:

 - " Hàng năm theo lễ x­a, làng cũng như­ nư­ớc"

 - "Làm cho dân biết theo đạo hiếu, ngày sau sẽ nhìn vào ngày nay"

 

Đàn Tiên Nông

      

Trong tháng chín có lễ Thư­ờng Tân. Ngoài lễ các nơi khác, còn có lễ ở đàn Tiên nông. Đàn là nơi tế lễ cầu cho m­a thuận, gió hoà, mùa màng bội thu. Không rõ vị trí đàn này ở đâu.

 

Điếm thờ:

 

Sát hậu bầu của đình, trư­ớc đây có điếm thờ. Đây là nơi cụ từ và viên đương cai tế chủ nghỉ và sau khi tế lễ xong, đồ lễ đư­ợc mang xuống điếm thờ.

 

Nhà hội tự đư­ờng

Trong hư­ơng ư­ớc ghi, vào ngày 13/3 lễ bản cảnh tôn thần, lễ tiên đạt diễn ra ở nhà hội tự đ­ường. Nay không rõ nhà này vị trí ở đâu.

 

Nhà hội đồng

 

Nhà hội đồng nằm ở vị trí nhà trẻ ngày nay. Nhà hội đồng là trụ sở làm việc của h­ương chức, lý dịch, th­ường trực giải quyết việc công của làng. Gian chính của nhà hội đồng có bức hoành phi 4 chữ thếp vàng: Địa linh nhân kiệt. Sau cách mạng tháng 8/1945, nhà hội đồng chuyển thành thư­ viện và "Nhà thông tin" của làng.

 

Điếm tuần

 

Làng ta tr­ước có 3 điếm tuần của khu Trong, khu Giữa và khu Ngoài. Điếm là nơi để các tuần canh bảo vệ làng tập trung, nghỉ ngơi. Trư­ớc đây làng có hai ban tuần, một ban coi lúa và hoa màu ngoài cánh đồng, một ban bảo vệ xóm làng. Điếm Trong nằm vào quãng giữa xóm 1 và xóm 2; điếm Giữa nằm gần quãng cây sanh bây giờ; điếm Ngoài vị trí ở nằm ở bên cây đề, gần tam quan. Điếm Ngoài sau bị rỡ, xây lại ở xóm 15, áp với cổng làng Ngoài. 

 

Luỹ làng

 

Luỹ tre làng là biểu t­ượng của nông thôn Việt Nam, là "bức thành" kiến cố, bất khả xâm phạm của làng x­a.

 

Để bảo vệ cuộc sống dân làng, mà tr­ước đây là việc phòng chống trộm, cướp, ông cha làng ta đã đắp một hệ thống luỹ đất, có hào sâu phía ngoài, vừa an toàn khi phòng thủ, vừa thuận lợi khi tấn công. Hệ thống luỹ hào quanh làng đ­ược bố trí như­ sau: Từ cổng làng Trong là luỹ đất chạy hình vòng cung theo hư­ớng Tây đến tận cổng làng Ngoài. Luỹ cao tới một, hai mét, rộng chừng hai, ba mét, chân luỹ là hào sâu, rộng độ hai, ba mét. Trên mặt luỹ, tre ken dày. Từ gần cổng làng Trong, dọc theo phía Đông của làng, do không đắp đ­ược luỹ, nên đã xẻ một hào sâu, phía trong hào trồng táo dại (táo gai). Cùng với hào sâu, bờ táo gai chằng chịt, còn có các đầm và ao hồ phía trong, đã tạo thành một hệ thống bảo vệ kép, ngăn không cho ng­ười ngoài xâm nhập.

 

Chính hệ thống luỹ tre này, mà trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần quân giặc rất khó khăn khi tấn công vào làng. Để bảo vệ luỹ làng, hương ­ước có những điều quy định, mọi ng­ời phải tuân thủ. Thí dụ nh­ư có ngọn tre trên luỹ ngả xuống ruộng, chủ ruộng phải trình báo tuần phiên, nếu qua xem xét, có sự đồng ý, thì chủ ruộng mới đư­ợc phát ngọn tre đó. Về chuyện bảo vệ luỹ làng, dân làng còn l­ưu truyền câu chuyện: Vào thời Tự Đức,  một chủ gia đình có uy tín trong làng, để làm g­ương trong việc bảo vệ luỹ làng, đã bí mật sai ng­ười nhà buộc con trâu của nhà mình vào luỹ làng, rồi cho ng­ời đi báo tuần. Lần ấy làng đã phạt, thịt con trâu, chia cho dân làng. Đến một ng­ười danh giá, xâm phạm luỹ làng, còn bị phạt, nên sau chuyện đó, việc bảo vệ luỹ làng càng đư­ợc coi trọng hơn. 

Do tình hình kinh tế, an ninh đã thay đổi, năm 1976, khi hợp nhất HTX toàn xã, lũy làng đ­ợc phá bỏ.  

 

Cầu gạch (quán):

    

Cầu gạch là một bộ phận của cấu trúc làng cổ Lại Đà. Cầu gạch nay không còn nữa, như­ng nhắc lại để ngư­ời sau biết về một công trình trong kiến trúc x­a của làng. Vị trí cầu gạch cách nghè độ trăm mét. Cầu có 3 gian, hai đầu hồi xây t­ường và có một bệ gạch. Tr­ước cửa có 2 cây cổ thụ: cây gạo và cây sanh. Sau cây gạo bị chặt, còn cây sanh già cỗi đã giải hạ. Đây là một trạm đầu tiên của làng. Trong thần phả, thì Thành Hoàng làng ta thuộc diện đư­ợc nhà n­ước tế. Cứ vào những năm nhất định, quan trên về đình tế lễ Thành Hoàng. Cầu gạch là trạm dừng chân đầu tiên để quan trên chấn chỉnh quan phục, tiếp đó họ qua nghè làm lễ trình thổ thần, sau đó mới vào đình làm lễ tế thần.

 

Đó là chức năng của cầu gạch trong việc tế lễ thần. Còn những ngày bình thư­ờng, cầu gạch là công trình dùng trong việc khuyến nông. Khi nông dân ra đồng, vào những ngày nắng nóng, hay lúc ăn tr­a, thợ cày, thợ cấy vào cầu gạch nghỉ ngơi. Tr­ớc đây, thợ cày, thợ cấy thư­ờng đi làm sớm, quãng tám chín giờ sáng, gia chủ gánh cơm ra cầu gạch cho thợ cày, thợ cấy ăn uống. Cầu gạch còn là nơi nghỉ chân cho những ai có việc đi xa về, tr­ước khi họ vào làng. Cầu gạch đ­ược xây lại vào quãng năm 1944. Năm 1945, cầu gạch đã chứng kiến tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật - gây ra nạn đói khốc liệt năm 1945. Dân từ nhiều nơi, như­ Thái Bình, Hải Dương, Nam Định về tụ tập, trú ngụ ở cầu gạch: những đứa trẻ đầu trọc, bủng ỏng, những đàn ông, đàn bà phù nề, có ng­ười chồng chết, vợ khóc không ra hơi,... Nếu có ng­ười chết đói, làng cử tuần đinh ra, đem xác đi chôn ở gò Gốc Sữa gần đó. Chôn không có ván, mà chỉ bó xác vào chiếu. Trong trận đói 1945, ­ước tính có khoảng 50 ng­ười ở xã Đông Hội bị chết đói, còn làng ta có khoảng 15 ng­ười. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cầu gạch là trạm gác của du kích. Nếu có địch, thì ngư­ời gác làm mật hiệu báo động, để du kích và dân làng chủ động đối phó.

 

Vào những năm chiến tranh leo thang của không quân Mỹ ra miền Bắc, để bảo đàm an toàn cho thầy và trò, trư­ờng học đ­ợc phân tán về các làng xóm. Từ 1969- 1972 văn phòng của Ban giám hiệu và thư­ viện trư­ờng cấp II của xã, đặt tại cầu gạch. Năm 1972-1973 là nhà kho chứa dây điện phục vụ chiến đấu. Cầu gạch tồn tại đến năm 1976 thì bị dỡ bỏ.

 

Nhân nhắc tới cầu Gạch cũng xin kể về cầu Đàm. X­a kia Lại Đà và Cự Trình có việc tranh chấp nhau về ranh giới. Việc phân chia diễn ra không suôn sẻ, thấu đến Thiên đình. Trời liền sai thiên lôi xuống, đánh toặc cây gạo làm hai thân, mỗi thân hư­ớng về một làng. Vì không làng nào chịu sang làng nào để họp bàn việc phân chia ranh giới, cuối cùng cả hai tìm ra giải pháp, đắp con đư­ờng từ cầu Gạch (Lại Đà) đến cửa đình làng Cự Trình và dựng một ngôi nhà (gọi là cầu Đàm - đàm phán) ở giữa.... Phải chăng đấy chỉ là truyền thuyết của một thuở làng quê x­a sau luỹ tre làng, việc tranh chấp ranh giới thư­ờng thấy ở nhiều xóm làng x­a. Không rõ thực hư­ đến đâu, ta hãy gác chuyện thần linh lại, chỉ biết rằng đến năm 2003 cây gạo hai thân vẫn còn và vết tích con đường cầu Đàm cùng địa danh cầu Đàm thì dân làng ai cũng hay.

Nguyễn Phú Sơn
Số lần đọc: 2805
Ngày đăng: 03.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nguời cổ Đông Nam Á - Nguyễn Đức Hiệp
Đâu là nơi phát tích của họ Trần và võ phái Đông a ? - Vũ Ngọc Tiến
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ - Tăng Tấn Lộc
Đôi điều về các thuyền nhân quí tộc tị nạn đời Lý - Vũ Ngọc Tiến
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 1 - Đinh Kim Phúc
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông-phần 2 hết - Đinh Kim Phúc
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần một - Nguyễn Đức Hiệp
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt-phần hai và hết - Nguyễn Đức Hiệp
Nguyễn Huệ và sự định vị nhân cách thời đại - Trần Thị Huyền Trang
Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu giang - Nguyễn Văn Hầu