Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.209
123.151.897
 
Nhà mái lá – Nét văn hoá độc đáo của làng quê Bình Định
Mai Thìn

Bài tham luận tham gia Hội thảo VNDG Bình Định 2006

 

Đối với người Bình Định, ngoài  lo cái ăn, cái mặc thì việc  dựng nhà  là sự kiện  trọng đại nhất của một  đời người. Ngày Xưa, nhà cửa ở nông thôn  Bình Định đều lợp tranh. Chỉ có đền, chùa, đình, miễu  hoặc vùng thị tứ giàu có mới lợp ngói. Nhà cửa của dân thường có hai loại: nhà cặp và nhà lá  mái.                                 

 

Nhà lá mái to lớn hơn nhà cặp. Cột kèo, xiên trính đều bằng gỗ danh mộc. Đoạn tiếp giáp các cột kèo  có chạm hình  lân, qui, hoặc nho sóc tuỳ theo từng nhà. Vách thường trét đất ở trong, tô vôi ở ngoài, hoặc xây toàn đá ong hay gạch, rồi tô vôi láng; thường thì nhà nào cũng ba gian hai chái, có nhà đến 5 gian hai chái. Những gian giữa, phía trước đóng bàng khoa, có nhà đóng phên dại, hoặc cổng. Hè trước rất rộng. Có khi lại làm một lớp cổng hoặc phên dại ở ngoài cho thêm chắc chắn.

 

Vì tính chất qui mô như vậy, nên để làm được ngôi nhà lá mái là cả quá trình gian khổ, lâu dài và là một sự kiện trọng đại của đời người. Người Bình Định có câu tục ngữ:“ Một lần cất nhà bằng ba lần cha chết  ” là vậy.

 

Thợ làm nhà lá mái thường phải là thợ giỏi, có tay nghề  cao trong vùng. Họ được gia chủ  rước về nuôi  ăn ở  trong trại ( được cất lên gần nơi làm nhà ) để làm từ năm này sang năm khác. Có nhà, từ khi  khởi công  dựng nhà, người con trai chưa lấy vợ, nhưng  đến khi khánh thành   thì đã có cháu nội để  ẵm bồng; nghĩa là phải mất hai-ba năm mới hoàn thành, mặc dù trước đó việc chuẩn bị khởi công dựng nhà cũng  đã khá lâu. Gia chủ phải  đi mua gỗ tận  vùng Bình Khê ( Tây Sơn ) đóng bè chở về, rồi tre phải được chặt, ngâm ở ao, mương  trước đó cả năm trời  để chống mối mọt; còn đá ong thì  đặt cho  các thợ làm đá ở Nhơn Mỹ hay  Thiết Trụ xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn… chọt theo kích cỡ đã định sẵn.Vì thế nên ca dao mới có câu:

 

“Anh về dỡ gỗ đa đa

Cất nhà lá mái tháng ba em về.”

 

Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ  còn phải tổ chức giã gạo để  nấu cơm cho thợ  làm nhà  ăn. Đây là công việc  được khá nhiều nam thanh nữ tú  trong thôn và các vùng lân cận  hưởng ứng; vì  giã gạo không đơn thuần là một  hoạt động  nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hoá khá độc đáo của người Bình Định, bỡi nó gắng liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo.

 

Tuy hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng nhà lá mái là một loại hình kiến trúc khá bền vững, nhiều nhà do bị cháy phần mái, hoặc vì điều kiện phải di dời, người ta tháo rời các mộng bằng gỗ, cắt các vòng mây buộc  rồi  dỡ từng cây cột, kèo, trính để dựng nhà  khác.

Ngôi nhà của cha tôi ở thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn có dàn cột kèo, xiên, trính… truyền qua ba đời với ba lần dựng nhà, đến đời cuối cùng đã gần một trăm năm  sử dụng, nhưng vẫn vững chắc.         

 

Nét độc đáo của nhà mái  lá nó có tới hai lớp mái. Lớp mái thứ nhất ( giống phần trần trong nhà xây), nhưng được lợp phủ lên các đầu cột, kèo vào bám chặt  vào các đòn tay bằng các sợi dây mây chuốt rất kỹ. Phần mái này  có nơi lát ván hoặc vỏ cây đập dập, hoặc bằng những cây tre già  (có sẵng ở khắp nơi ) đã ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, rồi dùng chàng ( dụng cụ của thợ mộc ) đục, dầm thành  những tấm khịa bằng phẳng  trải lên trên  đầu cột, kèo và các đòn tay   trước khi đắp  đất sét đã trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh  với độ dốc lớn, song song với lớp mái thứ  nhất  để đến mùa mưa thóat nước nhanh, giữ được độ bền của mái rạ lâu hơn.

Như vậy, nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần  khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói.

           

Lớp mái này  lợp bằng tranh rạ đánh thành tấm dài độ 1,5-2m. Người ta dùng lạt tre  cột tấm tranh  vào cây mè phủ lên trên  lớp mái thứ nhất  theo thứ tự lớp lang từ  dưới lên đến nóc. Ngày nay lớp mái tranh này được thay bằng  ngói cho vững bền hơn.

Mái nhà và mái lá nằm cách nhau chừng năm baỷ  tấc, hoặc một thước, do những trụ chống. Vì thế ở trong  nhà  lá mái, mùa nắng đóng kín cữa  thấy mát rượi, mùa đông  thì ấm áp, dễ chịu  chứ không như nhà bê tông  ngày nay  phải luôn có  quạt  hoặc máy điều hoà nhiệt độ.        

               

Vách nhà lá mái cũng được làm hai lớp. Để trét vách, người ta dùng  tre đã ngâm kỹ, chẻ thành  mầm, trỉ. Cây mầm to bảng hơn cây trỉ ( khoảng ½ cây tre ) dựng đứng bên trong vách cách nhau vài ba tấc để cột cây trỉ làm  sườn trét vách. Ðất ruộng pha sét  nhào nhuyễn với rơm, nhét vào những ô mầm trỉ. Hàng trỉ giữ cho đất không rơi. Trét 2 phía trong ngoài xong, thợ đất cịn dng đất gị mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Nếu trét không kỹ hoặc trét  bằng đất bở thì khi vách khô, đất nứt nẻ, rơm lòi ra ngoài rất xấu.

 

Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt, nhưng có một điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Xung  quanh nền thường đắp đá ong có nhiều ở đồi Gò Quánh, hoặc Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Nền nh trn phải cao hơn nh dưới, nh trước phải cao hơn nh sau, vì theo quan niệm của người Bình Định thì:

 

Nền nhà nước đổ chảy vào

làm ăn phát đạt đón chào ngợi ca

nền nhà nước đổ chảy ra

làm ăn kha khá tiêu pha bội phần

nền nàh bằng phẳng như cân

đề phòng con cháu ái  ân tư tình.

 

Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rảnh, chạm khắc công phu. Ngày trước  chủ yếu là cửa bàng khoa  gồm nhiều khung hình chữ nhật  theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra  nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một  số ô vuông ở trên có  những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được  để tạo ra khoảng trống cho mát. Vì thế nên cữa này còn có tên gọi là cữa” thượng song hạ bảng” là vậy.

 

Nhà nghèo thì làm cữa” phên dại”, cữa này cũng  có cấu tạo bằng khung gỗ  hình chữ nhật đứng, có khổ thường là khoảng ( 8 tấc x 1,6 m ), có các thanh ngang cho chắc. Người ta chẻ tre, vót kỹ rồi gài vào  các thanh ngang của khung này cho kín  sịt sẽ có một tấm cữa phênh dại  bằng phẳng và kín đáo .

 

Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cữa cho rộng rãi  và tận dụng kê  làm  bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi.

 

Ngày nay, người ta ít dùng cữa phênh dại hoặc cữa bàng khoa  mà thay bằng  các cữa lá sách  hoặc cữa bảng  tiện lợi và đẹp hơn.

 

Cữa lá sách  phần dưới khép kín bằng  những tấm ván  vuông  như cữa bảng, phần trên có nhiều thanh gỗ xếp  nghiêng nghiêng để thông gió  và từ bên ngoài không nhìn vào được. Lối kết cấu cữa ngõ của nhà lá mái cũng thể hiện tính cách của chủ gia là sống khép kín, “đóng cữa bảo nhau”, không muốn “chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường. ”

 

Cữa của nhà lá mái ở Bình Định  thường thấp, bậc lại cao, đặc biệt là cữa đi lên  gian nhà trên, nơi  có bàn thờ.

Theo các cụ già  giải thích  thì cần bố trí  cữa như thế  để nhắc nhở mọi người  khi bước vào gian thờ tự phải cúi đầu, mọi động tác phải khoan thai , cung kính. Đặc biệt, ngày xưa, gian thờ này  người phụ nữ không được vãng lai. Ngày nay, tục này không còn nữa, vì vai trò  nam nữ bình quyền và cũng vì người đàn ông  luôn đi làm ăn xa, mọi công việc ở nhà, kể cả nhang đèn, cúng giỗ đều do người phụ nữ quán xuyến, nếu không được vãng lai thì  lấy người đâu mà hương khói !

 

Ngoài việc chạm khắc sao cho sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này  vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao. Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là đạt yêu cầu.

 

Trong việc dựng nhà lá mái, quan trọng nhất là gác đòn dông. Lễ gác đòn dông  thường tiến hành vào đêm khuya để tránh người ta “ dòm ngó “, nhất là đàn bà chửa. Luận về cách chọn ngày giờ để gác đòn dông, dân gian Bình Định có bài thơ:

 

Kinh Dịch luận gác đòn dông

Giờ Tí, giờ Sửu: Phước hồng trời ban

 

Khi đòn dông gác lên phải dán một lá bùa và treo một bát quái bằng gỗ để cầu an, trừ tà. Gỗ làm đòn dông phải là cây  thẳng, tròn, không bị sâu mọt. Khi gác đòn dông, bao giờ đầu ngọn cũng phải nằm bên tay  phải của ngôi nhà. Về kinh nghiệm này, người Bình Định có bài thơ về cách đặt trang ông táo và gác đòn dông:

 

Ngồi trong nhà nhìn ra đường cái

Gốc đòn dông tay trái tả ban

Ngọn dông  tay phải rõ ràng

Cùng là trang táo thiếp chàng nên ghi.

 

Nhà lá mái ở Bình Định  thường  có từ 12 đến 16 cây cột  lớn trồng thẳng xuống đất theo bốn hàng, mỗi hàng bốn cây, bao gồm: Hàng cột cái ( cao và to nhất ) rồi đến hàng cột con, hoặc cột nhì, cột ba nhỏ và thấp hơn. Riêng bốn cây  cột ở giữa cao  từ 3,5m  đến 4m, còn các cây cột bên ngoài  giảm đều xuống từ  2 đến 3m. Đoạn tiếp giữa các đầu cột  với các cây xiên, trính đều có chạm  trổ hình con lân, qui, hoặc nho sóc  rất công phu.

 

Xiên là cây  đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều dọc ngôi nhà.

Trính  là cây  đặt từ  đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều ngang của ngôi nhà.

Ở Bình Định, cây xiên thường bào có cạnh lục giác, chạy rãnh nổi, hoặc chạm hoa văn rất đẹp; còn cây trính ( để đỡ trụ lỏng ) thì được đẽo bằng một khúc gỗ rất to, dáng  cong hình vòm, và cũng được chạm trổ hoa văn, sống  nổi , uốn lượn  dọc theo thân cây.

 

Khi đầu cột có chạm trổ thì đầu kèo cũng chạm trổ cho cân xứng. Các cây trính, xiên dùng gỗ vuông thì  ở cạnh có chạy chỉ  và những gờ , rãnh  dọc chiều dài cho đẹp. Ngoài các cột đứng còn có các trụ lỏng; tuỳ theo nhà mà có trụ lỏng cối, trụ lỏng ba lá hoặc trụ lỏng  chữ lập.

 

Trong nhà lá mái, trụ lỏng  và xiên, trính là  các  điểm trang trí  quan trọng. Khách đến thường  nhìn lên trần và thấy ngay trụ lỏng, cũng như trính, xiên… cho nên trụ lỏng không  chỉ là cây gỗ thẳng đơn thuần mà  còn được trang trí  dưới nhiều hình thức.

 

Điều đặc biệt ở  nhà lá mái là nơi giáp khớp, ngàm, người ta không dùng đinh như ngày nay mà  khoan lỗ, đóng những con sẻ  bằng tre đực già  thay đinh  giữ  chặt, vì thế khi chạm trổ không đụng đến lưỡi bạc, chàng, hoặc cưa đục của thợ mộc.

           

Nhà cất theo kiểu ấy trông nặng nề vì cột choáng hết nhiều chỗ. Hơn nữa, ba gian nhà trên hoàn toàn dùng để thờ. Trước bàn thờ kê trường kỷ hoặc phản gõ, thỉnh thoảng khách đến ngồi và nằm, chứ người trong nhà ít khi dùng đến. Trong nhà lại treo nhiều liễn, đối,  trướng,  sáo… cho nên dù nhà rộng đến đâu, vào cũng thấy lấn cấn không được thoải mái.

           

Nhà    mái thường xoay mặt vào hướng  Nam. Và nhà nào cũng đều có vườn cây ở chung quanh và sân ở phía trước, rồi  hàng rào ở 4 bên. Nhiều nhà chỉ trồng” cau liên phòng “ và chuối, ( chuối vườn sau, cau vườn trước ); sân phần nhiều dện đất thịt. Để khỏi nổi bùn, hàng năm dùng phân bò tươi khuấy nước sềnh sệch, đem tráng lên mặt sân cho láng để phơi thóc  đậu, nông sản. Còn hàng rào thì mặt trước thường trồng duối, chè tàu, hớt tỉa mỹ thuật, hoặc rào cây tre khô, bằng thẳng chắc chắn. Phía sau và hai bên thường trồng tre, trúc cao xanh. Trong vườn thì trồng các loại rau cải, hoa quả, mùa nào thức ấy. Đặc biệt, đến ngày tết nhà nào cũng trồng hoa vạn thọ vàng ươm cả vườn.

           

Ngõ ra vào trổ trước nhà. Có nhà trổ thêm ngõ sau. Và ngõ sau cũng như ngõ trước đều trổ xiên một bên, chứ không bao giờ trổ ngay ở giữa. Ngõ trước nếu vì phương hướng phải trổ ở giữa, thì đường vào nhà cũng phải chạy né một bên, hoặc quanh co như ất tự:

Đường đi,  nước chảy chớ cho ngay

Hai bên thềm uyển như ất tự

Gia nội an khương, tự nhiên hưng.

 

Từ cách bố trí cửa, ngõ, sân, vườn như trên, đã tạo nên  sự hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc. Sống trong nhà lá mái, tuy kín mà không bí, thấp mà không ẩm, con người  dễ giao hoà với thiên nhiên cây cỏ nên thường sống thanh bạch, đậm nhân văn và có cốt cách văn hoá cao.

           

“Mái nhà xưa, khu vườn cổ “ chính là  môi trường thích hợp  để bảo tồn thuần phong mỹ tục, đạo lý  truyền thống của gia đình  mà người  Bình Định gọi chung là “nếp nhà”. Phải chăng tên gọi “nếp nhà “ này cũng xuất phát từ gia phong  của những chủ nhân ngôi nhà lá mái  ở Bình Định.

      

Như vậy, không chỉ l một di sản vật chất quý bu, nh l mi  còn là  một phần đời sống tinh thần, một nét văn hóa tốt đẹp của người Bình Ðịnh.

Cách đây chừng hơn mươi năm, nhà lá mái vẫn cịn kh nhiều ở vng Binh Định, đặc biệt l ở - khu vực ven kinh thành Hồng Ðế xưa. Nhưng nay do thiếu điều kiện bảo quản nên nhiều ngôi nhà cổ đã bị hư hỏng dần.

 

Nếu ở Phương Tây có những ngôi nhà tuyền gỗ thì nhà lá mái của Bình Định cũng có thể coi  là một loại hình  kiến trúc nhà gỗ  độc đáo không nơi nào có được. Bỡi gỗ là  vật liệu chính của nhà lá mái, gỗ hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi, kể cả trong ký ức và tương lai, trong cuộc sống hiện tại và lâu dài, và ngay cả trong cái chết của con người.

 

Những ai từng lớn lên trong nhà lá mái không thể quên cái bậc cữa  mòn nhẵn, mỗi lần bước  qua  là một lần  quệt vào ống quyển đau nhói; và cũng không thể quên  những cây cột láng bóng  đã không biết bao nhiêu lần  va vào trán trong đêm khuya quờ lối  tìm cữa ra ngoài.  Và có lẽ tiếng động khó quên nhất trong nhà lá mái, đẫm đầy trong  ký ức tuổi thơ  là tiếng võng đưa cót két những trưa hè thanh vắng.

 

Am thanh  ấy đối với tôi  như một sức mạnh huyền bí  neo giữ suốt đời  những ký ức  gắn liền với  tuổi thơ  trong ngôi nhà lá mái, và trở thành những vần thơ trong bài “ Tiếng võng ” viết năm 1989:                                      

Đi mòn tuổi xanh

chiều nay con về thăm mẹ

mới đến đầu hè

            đã nghe

            tiếng võng đưa

                        cót két…

                  …mẹ đón con

            lưng còng dáng võng

xưa mẹ ru

võng còng

cót két…

giờ mẹ già rồi

ru ai

mà cót két hoài

tiếng võng

mẹ ơi! ?

           

Am thanh ấy tạo nên  từ gỗ, sắc màu ấy, tâm linh ấy  phôi thai từ gỗ. Gỗ không chỉ che chở, nâng đỡ, bao bọc  thân xác con người từ  lúc mới sinh ra cho đến lúc đã qua đời mà còn hun đúc những ý chí  bền bĩ, kiên trung; dưỡng nuôi những tinh thần  thuỷ chung, nhân hậu.

           

Thật vậy, ngoài những cột kèo, xiên, trính… gắn liền với ngôi nhà, gỗ còn kề cận với con người  trong sinh hoạt, sản xuất  qua những vật dụng, như: giường tủ, bàn ghế, hay thúng mủng, cuốc cày….Từ chiếc tăm xỉa răng, đôi guốc mộc  đến chiếc nón đội đầu; từ tấm vạt giường  bện tre mát rượi  hay chiếc rế đặt dưới niêu cơm, chiếc rương đựng nữ trang, quần áo của cô gái  mới về làm dâu, hay cái cối cái chày thức suốt những đêm hò giã gạo đến tấm phản gõ láng bóng ở nhà trên, hay bộ bình phong, liễn thờ  chạm khảm cầu kỳ … tất cả  cùng sống, cùng yêu, cùng buồn vui chia sẻ với con người, giúp con người giữ nếp gia phong  đạo lý, sống  nhân hậu, yêu thương.

           

Gỗ có mặt ở ruộng vườn, gỗ sinh sôi nảy nở ở đồi nương, sông suối, gỗ đi theo suốt cuộc đời người … Ngày nay, có xi măng, sắt thép, dù bền vững và tiện lợi hơn nhiều, song vẫn không thể thay được  chiếc phản gõ mát rượi  những trưa hè, không thể thay được chiếc võng đưa cot két, và lại càng không thể thay được ngôi nhà cuối cùng cho người đã qua đời.        Người Bình Định  bây giờ   làm nhà không dụng nhiều cột kèo, xiên trính nữa, mà xây xông thẳng lên chứ  không có chái, không có cột gỗ trong nhà. Người ta xây tường, thả đòn tay, đóng rui mè bằng tre ngâm kỹ ( hoặc dùng  sắt xà gồ ) rồi móc ngói, lợp to-le cho tiện. Nhà  giàu  thì đúc trụ, đổ bê tông mái bằng  chứ không dụng gỗ, vì bây giờ gỗ đã trở thành thứ  không phải “ của trời cho “ như xưa nữa. Song các  thứ đồ dùng, như án thờ, bàn ghế, sập, gụ… thì lại   được chạm trổ  tinh vi, cầu kỳ trông rất sang trọng, cổ kính  hơn xưa…./.

Mai Thìn
Số lần đọc: 5025
Ngày đăng: 06.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Hát lễ- hát bội Bình Định - Mai Thìn
Hò giã gạo Bình Định – sản phẩm độc đáo của nhà nông - Mai Thìn
Tình yêu quê hương đất nước của người Vĩnh Long qua ca dao - Tăng Tấn Lộc
Rối nước - Khánh Phương
Mượn kiếp đào nương... - Khánh Phương
“Yêu nhau chẳng lấy được nhau...” - Khánh Phương
Tuồng , còn hơn một nghệ thuật - Khánh Phương
Nghi lễ Bàu Đá “Vọng lên đỉnh núi cụng vài ly” - Nguyễn Thanh Mừng
Ngày nghinh ông bên vàm sông ông Đốc - Nguyễn Lê Hồng Hưng
Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc - Ngô Ðức Thịnh