Nghề làng xưa và nay
Lại Đà nằm giữa một vùng đất trũng, chiêm khê, mùa thối. Hai chữ Lại Đà đã hàm ý cảnh sông nước. Làng lại thuộc diện người nhiều, ruộng ít. Người xưa có câu: Nhân sinh bách nghệ, ý nói trên đời có tới trăm nghề, song quy lại có 4 loại: sỹ, nông, công, thương.
Nghề làm ruộng: Đó là nghề phổ biến ở làng.
Ruộng đất của cả làng xưa có độ hơn 400 mẫu, với hơn 50 mẫu xâm canh ở Trung Thôn, nên bình quân đất đai trên đầu người khá thấp. Ruộng đất công (công điền) - làng quản khoảng 50 mẫu, làng cho thuê lấy tiền xung công quỹ; ruộng hậu, ruộng xóm chừng 30 mẫu.
Người giàu thuộc loại điền chủ có tới hai, ba mươi mẫu. Điền chủ thuê nông dân đến cày cấy, gặt hái, trả công người làm thuê bằng thóc hoặc bằng tiền. Loại phú nông. Họ có chừng năm bảy mẫu. Một phần do gia đình làm, một phần họ thuê mướn thợ cày thợ cấy, thuê người cắt cỏ, chăn trâu vào lúc "nông vụ chí kỳ" gấp gáp. Loại trung nông có độ một, hai mẫu ruộng, công việc đồng áng đều do gia đình làm là chính, có thể thuê mướn thêm người theo mùa vụ. Loại bần nông: Ruộng đất có vài ba sào, cấy cày không đủ ăn, họ phải cày thuê cuốc mướn, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm, quanh năm vẫn nghèo đói. Cố nông: Họ hoàn toàn không có ruộng đất, phải cày thuê, cuốc mướn và làm đủ nghề, cuộc sống rất cơ cực.
Là vùng đất chiêm trũng, trước đây điều kiện canh tác ở làng ta rất khó khăn. Về mùa gặt, lúa chín phải bó thành lượm, rồi bốc vào thuyền, theo luồng chở lúa về làng. Đến tối, thợ gặt dùng néo, néo các lượm lúa, đập lên cối đá hay tấm ván. Mùa gặt nông dân đập lúa bì bạch đến khuya.
Lại Đà là một làng nông nghiệp, nhưng không phải là làng thuần nông, mà còn có một số nghề khác. Chính vì hoàn cảnh thiên nhiên ngặt nghèo, ông cha ta đã phải tìm đủ cách để bơn trải, bảo đảm cho cuộc sống. Ngoài nghề làm ruộng, làng còn nhiều nghề: Nghề thợ mộc làm các loại: nhà tre, nhà gỗ, đóng đồ gỗ, đóng thuyền, làm đàn cho các kép hát ca trù; thợ may, cắt quần áo; thợ xây; thợ cúp tóc; thợ dệt vải; thợ sơn; thợ chạm; thợ nhuộm; thợ làm vàng mã; đan lát; đóng gạch ngói; nghề buôn bè; nghề hàng xén; nghề bán mật đường; nghề hàng xáo; nghề đúc đồng; nghề thêu ren; nghề bán giải khát: với đôi quang gánh toòng teng đi khắp hội này đến chợ khác khắp vùng; nghề hát ca trù; nghề địa lý, để đất cát mồ mả, đặt hướng làm nhà cửa cho thiên hạ. Xin giới thiệu một cái nghề khá đặc biệt xuất hiện ở làng ta vào những năm sau đại chiến thế giơí lần thứ II - nghề chiếu ống nhòm. Khi kỹ thuật chiếu bóng đang du nhập mạnh vào nước ta, điện ảnh mới mẻ đến đất Hà Thành. Ông phó nhòm mua những cuộn phim đã hết hạn sử dụng, đem về cắt ra thành từng cảnh, lắp vào hệ thống quang học trong hộp kín. Người xem ghé mắt nhìn qua ống nhòm, hình được phóng to: cảnh duyệt binh, cảnh đánh nhau. Người xem đa một xu, được nhòm mấy cảnh. Ông phó đi hết chợ này, đến chợ khác, tuy vốn liếng bỏ ra không nhiều, nhưng thu được cũng khá. Nghề này đến cách mạng tháng 8/1945 thì "giải nghệ"
Có thể chưa thống kế hết được các nghề xa ở Lại Đà, nhưng có 2 nghề thu hút nhiều người làng tham gia, là nghề làm bỏng và trồng rau cần. Nghề làm bỏng gạo đã giúp nhiều gia đình có kế sinh nhai, có nhà còn phong lưu, xây cất được "nhà ngói cây mít". Chính nghề này mà làng có tên Cói Bỏng. Xin nêu một vài chi tiết về "chuyện nghề" bỏng: Bỏng gạo Lại Đà từ thứ "công đất trời cho", đó là thứ nếp quê. Gạo nếp vừa mới xay xong, đem đồ xôi, rồi phơi nắng cho khô, tiếp đó sàng xảy sạch trấu, cất vào chum, đậy kín. Đến khi làm bỏng, nhà hàng cho vào chảo, rang nổ thành hạt bỏng. Khi chảo mật đã đun nóng già, thì đổ bỏng vào trộn đều, sau đó đổ ra một cái mâm vuông, san cho đều và phẳng. Mặt trên rải một lợt giấy bản, lại lấy mẻ khác, đổ tiếp lên. Lấy miếng neo cau hình thang, to độ bằng bàn tay, phết đều một lượt. Sau cùng áp thước gỗ và dùng dao cắt đều thành từng miếng. Mỗi mâm cắt đợc 110 miếng, cứ năm miếng một xếp vào thùng. Mỗi thùng có bốn mâm, gánh bỏng có tám mâm. Thùng bỏng Lại Đà có kiểu dáng riêng biệt, thùng ken bằng nứa lột, cuốn hình tròn, đáy tròn, nắp tròn, phía trong và ngoài phết sơn cho kín. Để tránh bỏng hút ẩm, trước khi xếp bỏng, quanh thùng quây một lớp lá chuối khô. Người làm bỏng kị nhất là thùng hở, gió lùa vào, làm bỏng rời ra, cho nên có câu:
Ai làm cho cả gió nồm
Cho bỏng kẹo tôi chảy, cho mồm tôi nhai
Người bán bỏng Lại Đà gánh bộ đi khắp chợ gần, chợ xa, đến tận Thái Nguyên, chợ Chu - Bắc Cạn, chợ Chũ - Bắc Giang, Hội Phủ Giầy- Nam Định,...
Nghề trồng rau cần: Rau cần Lại Đà ngon có tiếng trong vùng. Nghề trồng rau cần khá vất vả, nên làng ta có câu ca:
Làm thân con gái Lại Đà
Mới mùng hai tết đã sà xuống ao.
Cũng vì có nghề trồng rau cần nên làng ta có tên là Cói Rau Cần.
Ngày nay một số nghề cũ ở làng đã mất đi, song một số nghề mới xuất hiện. Là một làng quê với những con người cần cù, năng động, hơn chục năm gần đây, khi thị trường có nhu cầu bao gói hàng, ở làng đã xuất hiện nghề làm bao túi giấy. Nghề thợ xây cũng có rất nhiều người làm. Ngoài làm ở làng, nhiều kíp thợ ra Hà Nội và các vùng xung quanh để xây dựng nhà cửa. Từ năm 1995, làng xuất hiện nhiều cửa hàng tạp hoá, cửa hàng ăn uống, cửa hàng bán thực phẩm, cửa hàng sửa chữa xe đạp, xe máy, máy khâu, dịch vụ cho mợn đồ hiếu hỷ, dịch vụ vận tải, chụp ảnh, đóng đồ gỗ,... Ngay giữa làng, chỗ cây sanh, từ sáng đến chiều đã hình thành một khu chợ, phục vụ các nhu cầu của dân làng.
Đời sống ngày nay của dân làng
Hơn 15 năm đổi mới, bộ mặt làng quê Lại Đà đã đổi thay nhanh chóng, song vẫn phải nhắc lại quá khứ, để chúng ta thấy hết được những đổi thay hôm nay. Trong trận đói năm ất Dậu 1945, làng ta có tới 15 người bị chết đói. Không nói đâu xa, vào những năm 80 của thế kỷ trước, làng xóm còn nhiều gia đình mái tranh vách đất. Vào dịp giáp vụ, cảnh đứt bữa, chạy ăn từng buổi, hay vay mượn nhau, diễn ra rất phổ biến. Một trong những nguyên nhân mà xa kia dân làng phải lưu tán, tha phương cầu thực ở nhiều nơi, có nguyên nhân là do đói khổ.
Giờ đây bộ mặt quê hương có rất nhiều đổi thay. Hãy nói về sản xuất nông nghiệp: Là một vùng đất ngập úng, những ngày nay hệ thống thuỷ lợi từ kênh cấp I đến hệ thống kênh cấp nước khác hết sức thuận tiện. Chỉ cần qua loa truyền thanh thông báo lịch cấp nước, bà con có thể chủ động lấy nước vào ruộng nhà mình. Ngoài sức kéo là trâu bò, hiện nay còn có máy cày, máy bừa phục vụ. Cũng không còn cảnh kẽo kịt gánh phân, gánh lúa, mà nay là xe cải tiến, xe trâu, xe công nông đảm nhận. Ít ai tưởng tượng nổi cảnh nông dân phi xe máy ra đồng thăm lúa. Mùa thu hoạch, không còn cảnh làng xóm đêm khuya vẫn bì bọp tiếp đập lúa. Ngay trên cánh đồng, đã có máy tuốt phục vụ. Cối xay, cối giã gạo đã thành dĩ vãng, trong làng nay có nhiều máy xay sát phục vụ. Năng suất cây trồng tăng lên nhiều lần so với trước. Nếu trước 1945, mỗi ha chỉ đạt khoảng trên 2 tấn, thì nay đã đạt trên 10 tấn/ha. Nhiều giống lúa mới, nhiều loại cây trồng xuất hiện trên đồng ruộng Lại Đà.
Nếu như trước đây, đau ốm, người ta chỉ biết cầu trời, khấn phật, hay tìm mớ lá lẩm trong vườn điều trị, thì ngày nay đã có trạm ý tế của xã và bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh. Phụ nữ và trẻ em được chăm sóc y tế chu đáo. 100% phụ nữ sinh đẻ tại trạm y tế, không còn cảnh mụ vườn đỡ đẻ tại nhà. Thời kỳ mang thai, phụ nữ được thăm khám, chăm sóc. 100% trẻ em được tiêm chủng 6 loại vác xin, phòng các bệnh cơ bản.
Hệ thống giáo dục cũng rất phát triển. Hiện thôn có nhà trẻ trông nom các cháu, bước vào 6 tuổi các em đợc cắp sách tới trường. Lớp tuổi từ 55 trở xuống đều biết chữ và hầu hết từ tuổi 15 đến 45 có trình độ học vấn cấp II. Hiện nay số trẻ em của làng đến trường, từ mẫu giáo đến các cấp phổ thông, có khoảng gần 600 em.
Năm 1989 trạm biến thế điện ở trung tâm xã được nâng cấp. Năm 1993 thôn cải tạo hệ thống cột điện và đường dây tải điện, bảo đảm điện dân sinh, điện sản xuất đến các hộ gia đình, cùng hệ thống đèn chiếu sáng đường làng, ngõ xóm. Cũng trong năm 1993 nhà văn hoá thôn được hoàn thành. Năm 1994 đường làng được bê tông hoá, có hệ thống thoát nước mưa, nước thải. Lại Đà là thôn đầu tiên trong xã thực hiện việc bề tông hoá đường làng. Một số công trình công cộng đợc quy hoạch và xây dưng, như khu sân vận động ở phía Tây của làng; nhà trẻ và mẫu giáo; trụ sở thôn; điểm tập kết vật liệu xây dựng ở hai đầu làng; bãi tập kết rác thải, hàng ngày có xe đi thu góm rác sinh hoạt; hai phía đầu làng có hai khu nghĩa trang.
Làng có hệ thống truyền thanh, tiếp âm đài TNVN, đài phát thanh huyện Đông Anh và hàng ngày, nếu làng, xã có hoạt động, hay những vấn đề quan trọng, sẽ loan báo lên hệ thống loa truyền thanh. Ngay đầu đoạn đường rẽ vào làng, có điểm bưu điện văn hoá xã, trạm y tế xã, trường cấp I và trường cấp II xây cao hai, ba tầng.
Bắt đầu từ năm 1995 và đặc biệt sau năm 2000, nhà cửa được xây dựng khang trang. Hiện nay 100% gia đình là nhà ngói, hay mái bằng, nhiều nhà xây theo kiểu biệt thự. Trước năm 2000, nhiều gia đình khoan giếng, có bể lọc. Nhiều gia đình mắc điện thoại, mua sắm máy vi tính cho con học hành. Gần như 100% gia đình có ti vi, radio, nhiều gia đình dùng bếp ga. Hầu hết các gia đình có xe máy, thậm chí có nhà có cả ô tô.
Ngoài việc đời sống của người dân nâng lên, đã xuất hiện nhiều điển hình gia đình làm ăn thịnh đạt, như gia đình các ông bà: Vương Khắc Tiếu, một chủ doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong xây dựng; Vương Khắc Nhâm; Nguyễn Phú Tưởng; Ngô Bá Hoàn; Ngô Quý Tuấn; Ngô Quý Việt,...
Xu thế đô thị hoá đã lan nhanh tới vùng quê Lại Đà. Do việc quy hoạch của thành phố và dự án xây dựng một số tuyến đường và cây cầu qua sông Đuống, sông Hồng, nên gần đây ở làng, tốc độ xây dựng nhà cửa, đường xá diễn ra nhanh chóng. Giá đất ở làng tăng cao, có gia đình giá trị bất động sản ước tính lên tới vài ba tỷ đồng. Những tín hiệu trên là điều đáng mừng, nhưng cũng chứa đựng những mầm mống gây xáo trộn về văn hoá - kinh tế làng quê. Kinh tế thị trường len lỏi vào từng gia đình, quan hệ nông thôn truyền thống bị ảnh hưởng. Tốc độ xây dựng diễn ra nhanh chóng, làng xóm thành "đô thị", đang đe doạ "bức tranh" làng cổ Lại Đà, mà trước hết là đường làng, đường ngõ, vườn cây, hồ ao, luỹ tre, đặc biệt là những ngôi nhà cổ - đang đứng trước nguy cơ bị phá rỡ, để thay vào đó bằng nhà tầng, biệt thự.
Đó là những vấn đề đang đặt ra với Lại Đà.
Phần IV: Phụ lục
Thần phả Thành Hoàng Lại Đà
Trạng Nguyên Nguyễn Hiền quê ở Châu Hoan ái. Ngài sinh vào ngày 11 tháng 3 năm Giáp Ngọ (1234) đời Vua Trần Thái Tông. Thân mẫu Ngài họ Lê. Bà mang thai Ngài tròn 12 tháng. Hôm sinh Ngài, có hương thơm bay ngào ngạt, báo hiệu điềm lành. Sinh ra, Ngài có diện mạo tuấn tú khác thường. Lúc nhỏ Ngài thiên bẩm đã rất tinh anh, có tài đối đáp, thông tỏ sách vỡ, lí lẽ, trí tuệ siêu phàm, đợc tôn là bậc Thần đồng.
Vào năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiên ứng Chính Bình thứ mời sáu (1247), Vua mở khoa thi, kén chọn người tài trong thiên hạ. Khoa ấy Ngài đỗ Trạng Nguyên, Lê Văn Hưu cũng đỗ khoa ấy.
Tháng 2 năm ất Hợi (1275) giặc Chiêm Thành xâm lược nước ta. Giặc chia làm 5 toán quân. Nhà Vua lo âu, liền triệu Nguyễn Hiền cùng văn võ bá quan họp bàn kế đánh giặc. Nguyễn Hiền được phong là tướng, chỉ huy 3.000 quân sỹ. Tháng 7 năm ấy, khi dẫn quân qua vùng Đông Ngàn, Ngài tới đền Phù Đổng làm lễ bái yết trời đất. Đêm ấy Ngài nằm mộng, thấy trời giáng xuống vị Thánh Mẫu Trần Tiên Dung giúp dẹp giặc. Ngài mừng lắm, liền dẫn quân đi dẹp giặc. Nhờ có Thánh Mẫu phù trợ, Ngài giết được tướng giặc và dẹp tan quân giặc. Nhớ tới công phù trợ của Thánh Mẫu, Ngài có thơ rằng:
Thánh Mẫu Tiên Dung hành liệt nữ,
Đi mây về gió thật linh thiêng,
Ra tay giúp rập bên tả hữu,
Bao phen hiển ứng thoả cầu mong!
Hay tin thắng trận, Nhà Vua mừng rỡ lắm, liền phong cho Nguyễn Hiền vào hàng quan hiển quý hạng nhất trong triều.
Ít lâu sau Ngài bị bệnh "thiên đầu thống", rồi ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý (1276) Ngài mất. Lúc Ngài sắp mất, Nhà Vua ra ngắm trời, thấy trời đất mù mịt, ảm đạm khác thường, như báo có điểm dữ.
Sau khi mất, Ngài được Nhà Vua ban sắc phong thần, thờ phụng ở 32 ngôi đền, chiểu theo từng trang ấp mà thờ cúng. Quan Giám Quốc Sư được Vua sai tìm đất lập đền thờ và sắc tới các đền. Khi đi qua trang Cối Giang, đất vùng Đông Ngàn, quan Giám Quốc Sư thấy thế đất ở trang có hai gò cao, lại có rồng chầu theo hướng Càn Tốn, nhiều sao văn chiếu hội, trước thì có ấn đờng làm án, thế đất rồng chầu lại, quanh vùng sông nước hội tụ, xa xa núi núi giăng hàng ôm ấp. Thế đất này khí phách thật linh thiêng, trường tồn, ất phát các bậc văn nhân lơng đống. Quan Giám Quốc Sư liền tìm các cụ bô lão trong trang Cối Giang, cấp cho 60 quan tiền để lập hai đền: một đề thờ và tế lễ Nguyễn Hiền theo nghi thức quốc gia; một đề thờ Thánh Mẫu. Nguyễn Hiền khi sống thì võ công hiển hách, giúp dân giữ nước, khi mất được thờ phụng tôn nghiêm, ghi vào Tự Điển.
Thật to tát thay! Đẹp đẽ thay! Đời đời không mãi!
Thần Phả Tiên Dung Công Chúa
Thánh Mẫu họ Trần, tên huý là Tiên Dung. Vào tháng 7 năm ất Hợi (1275) Trạng Nguyên Nguyễn Hiền vâng mệnh Triều đình đi dẹp giặc Chiêm Thành. Khi qua vùng Đông Ngàn, Ngài tới đền Phù Đổng làm lễ bái yết trời đất. Đêm đó Ngài nằm mộng, thấy Trời phái Thánh Mẫu Tiên Dung xuống giúp.
Khi lâm trận, Nguyễn Hiền được Thánh Mẫu phù trợ, Ngài phá tan quân giặc. Trở về, Ngài được Vua phong vào hàng quan hiển quý nhất trong triều.
Ngày 1/8 năm Bính Tý (1276) Trạng Nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh. Lúc sắp mất, ông có sớ tâu lên Nhà vua công tích của Thánh Mẫu. Nhà Vua rất trân trọng thánh tích phù giúp của Tiên Dung. Sau khi Nguyễn Trạng Nguyên mất, Nhà Vua truy phong Ngài là Đại Vương, Trần Thánh Mẫu là Tiên Dung Công Chúa. Nhà Vua còn ban cho Tiên Dung Công Chúa 18 mỹ tự: Cẩn Tiết Đoan Trang Tinh Nhất Kim Tư Ngọc Chất Yểu Điệu Tiên Dung Đình Tự Công Chúa
Hai vị đều là phúc thần. Nhà Vua lại sai quan Giám Quốc Sư chọn đất dựng đền thờ Nguyễn Trạng Nguyên và Tiên Dung Công Chúa. Trang Cối Giang được cấp 60 quan tiền, dựng đền thờ Nguyễn Đại Vương và Tiên Dung Công Chúa.
Ghi chú: Nguyễn Hiền là nhà hoạt động chính trị kiêm ngoại giao. Ông quê ở làng Dương A, huyện Thượng Nguyên (nay thuộc tỉnh Nam Định). Lúc nhỏ thông minh, nhanh nhẹn, chăm chỉ. Đi học ở chùa, sư viết bài đến đâu, ông thuộc lòng ngay đến đấy. Năm 11 tuổi nổi tiếng thần đồng. Năm 1247, ông đi thi ở kinh đô, làm bài phú cực hay. Vua đọc xong phê luôn hai chữ" Thượng tứ" và lấy đỗ Trạng Nguyên. Hôm dự lễ ăn mừng các vị tân khoa, Vua ngạc nhiên thấy vị Trạng Nguyên mới 12 tuổi, bé xíu, bèn hỏi:
Học ai mà giỏi thế? Ông đáp: Tôi không phải sinh ra đã biết. Nhưng vấn thì tự lượng mà hiểu, chữ nào còn ngỡ, thì hỏi các sư, không có thày dạy. Truyền rằng, Vua cho là ông thiếu lễ phép, bắt về học lễ ba năm. Ông về quê lao động, hầu hạ cơm nước cha mẹ. Mấy năm sau, sứ nhà Tống sang, đưa ra mấy câu thơ thử tài:
" Lưỡng nhật bình đầu nhật.
Tứ sơn điên đảo sơn.
Lưỡng vương tranh nhất quốc.
Tứ khẩu tung hoàng gian."
Triều thần các quan không ai hiểu là gì. Vua cho mời ông đến. Ông đọc xong, phân tích ngay thành chữ "điền". Sứ Tống chịu phục tài. Vua phong ông tước Kim Tử Vĩnh Lộc Đại Phu. Ông làm quan đến chức Thượng Thư bộ Công, rồi mất. Nhân dân đều thương tiếc. Vua cho dân làng lập đền thờ và đổi tên huyện thành Thượng Hiền.
20 đạo sắc phong Thành hoàng Lại Đà
Thờ Thành Hoàng là phong tục thờ cúng khá lâu đời và phổ biến ở Việt Nam, phổ biến đến mức, không làng nào không có Thành Hoàng. Vì vậy vào năm 1572, đời Vua Lê Anh Tông, triều đình phải ra lệnh sưu tầm và soạn ra thần tích của Thành hoàng các làng để Vua ban sắc phong thần.
Sắc thứ nhất - Phong năm Khánh Đức thứ tư, ngày 19 tháng 3 (1652)
Sắc thứ hai- Phong năm Thịnh Đức thứ 3, ngày mùng 6 tháng 7 (1655)
Sắc thứ ba - Phong năm Dương Đức thứ 3, ngày 19 tháng 7 (1674)
Sắc thứ tư - Phong năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày mùng 10 tháng 8 (1710)
Sắc thứ năm - Phong Năm Vĩnh khánh thứ 3, ngày mùng 10 tháng 12 (1731)
Sắc thứ sáu - Phong năm Cảnh Hưng thứ nhất, ngày 14 tháng 7 (1731)
Sắc thứ bảy - Phong năm Cảnh Hưng thứ 18, ngày mùng 8 tháng 8 (175
Sắc thứ tám - Phong năm Cảnh Hng thứ bốn mời bốn, ngày 16 tháng 5 (1779)
Sắc thứ chín - Phong năm Chiêu Thống thứ nhất, ngày 12 tháng 3 (1787)
Sắc thứ mười - Phong năm Quang Trung thứ ba, ngày 29 tháng 7 (1790)
Sắc thứ mười một - Phong năm Cảnh Thịnh thứ nhất, ngày 19 tháng 10 (1793)
Sắc thứ mười hai - Phong năm Bảo Hưng thứ hai, ngày 17 tháng 5 (1802)
Sắc thứ mười ba - Phong năm Minh Mạng thứ t, ngày 11 tháng 7 (1821)
Sắc thứ mười bốn - Phong năm Thiệu Trị thứ tư, ngày mùng 1 tháng 8 (1844)
Sắc thứ mười lăm - Phong năm Thiệu Trị thứ....., ngày mùng 5 tháng 9
Sắc thứ mười sáu - Phong năm Tự Đức thứ ba, ngày 10 tháng 12 (1850)
Sắc thứ mười bảy - Phong năm Tự đức thứ 33 , ngày mùng 4 tháng 11 (1880)
Sắc thứ mười tám - Phong năm Đồng Khánh thứ hai, ngày mùng 1 tháng 7 (1887)
Sắc thứ mười chín - Phong năm Duy Tân thứ ba, ngày mùng 1 tháng 8 (1907)
Sắc thứ hai mươi - Phong năm Khải Định thứ chín, ngày 25 tháng 7 (1924)
Trích: Hương ước làng Lại Đà
- Năm 1938 - Lại Đà, xã Hội Phụ, Phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, phụng sao ngày 1/9/1942 -