Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.027
123.137.607
 
Phụ lục: Những câu hò giã gạo Ninh Hoà
Nguyễn Man Nhiên

1. HÒ CHÀO MỜI TRẦU VÀ GIAO DUYÊN

Chặng đầu của một cuộc hò giã gạo là những bài hò chào với nội dung thăm hỏi, tìm hiểu đối phương, rào đón và dò dẫm tình ý, tài nghệ. Lời hò khiêm nhường, từ tốn và lịch sự. Tiết tấu khúc chiết, gãy gọn với tốc độ dồn dập, sôi động theo nhịp chày hai (hai người giã) hoặc chày ba (ba người giã).

Bài hò này giã nhịp chày ba, hai nàng và một chàng.

- Cô gái 1:

Hò ơ hò…

Tôi xin chào lớn trước nhỏ sau

Chào người bạn mới may đâu tương phùng

Đường xa cách trở mấy sông

Mến tình nặng nghĩa dốc lòng đến đây

Dễ đâu gặp được dịp này

Tôi xin mời miếng trầu cay gọi là

Rằng nghe chàng giỏi hò ca

Đêm nay mong đặng nghe qua giọng hò.

- Cô gái 2:

Xin chào anh bạn tổng bên

Nhịp chày mình sẽ làm quen trong câu hò

Trước tiên thăm hỏi nơi nhà

Hai thân tóc hạc da gà (1) có khỏe không?

Băng sương chẳng quản đường trường

Mới hay tri kỷ tìm đường tri âm.

- Chàng trai:

Vừa nghe thục nữ ướm lời

Lòng mừng gặp gỡ đặng người ước mong

Trước xin chào các bà các ông

Cùng cô chú bác sau chào chung bạn mình

Dẫu rằng đường sá gập ghềnh

Bởi chưng nặng nghĩa trọng tình mà đi

Nhịp chày qua (2) đáp bạn nữ nhi

Mẹ già đã yếu cha thì tuổi cao

Khi đi cha mẹ dạy mấy điều

Gặp người hiền đức ghi vào giữa tâm

Nay biết ai là bạn tri âm

Nhờ nàng chỉ giúp mối tình thâm sau này.

- Cô gái 1:

Biết chàng lòng vốn đa mang

Thiếp xin làm mối hai nàng ở bên sông

Sanh đôi cô chị tên Tam tòng(3)

Cô em tên Tứ dức(4) má hồng còn xuân

Qua sông chàng hỏi nhà ông Ngũ luân(5)

Mai này chàng đến một lần thử sao.

- Cô gái 2:

Hai cô rất kén bạn đời

Kén nhân kén ngãi kén người thủy chung

Không kén ruộng đất vàng ròng

Nếu chàng thấy đủ đạo luân thường(6) ghé chơi

Hai cô chàng chọn một người

Chị em thiếp thật dạ tỏ lời mối manh.

- Chàng trai:

Giọng hò làm mối trắng trong

Chắc cô Tứ đức, Tam tòng cũng gần đây

Luân thường nhà qua có đầy

Nhắn hai cô qua sẽ chọn ngày rào thưa.

- Cô gái 1:

Sao chàng lòng quá đa đoan

Chị em rào hết thì nghĩa nhơn ở chỗ nào

Hãy nên tính lại xem sao

Nếu không chàng sẽ khó rào đặng ai

- Chàng trai:

Qua đâu bẻ ách lộn nài (7)

Chị ra phần chị em thời phận em

Chỉ e giống quá dễ lầm

Luân thường có sẵn đâu dám vượt tầm lễ nghi.

CHÚ THÍCH:

(1) Tóc hạc da gà: Người già tóc trắng như lông hạc, da dùn như da gà.

(2) Qua: Tôi

(3) Tam Tòng: 3 điều phải theo của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, đó là: khi còn ở nhà phải theo cha, khi đi lấy chồng phải theo chồng, khi chồng chết thì phải theo con trai.

(4) Tứ Đức: 4 đức hạnh tốt của người phụ nư, đó là: giữ mình trinh tiết, ăn nói đàng hoàng, dáng điệu dịu dàng, chăm chỉ khéo léo.

(5) & (6): Luân thường: gồm Ngũ luân (đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo bằng hữu, đạo anh em) và Ngũ thường (Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).

(7) Bẻ ách lộn nài: Con trâu đi bên thá (bên trái) vượt cái ách qua bên (bên phải), ngược lại con trâu đi bên lộn dây nài (dây cHòang cổ) sang bên thá, ám chỉ hạng người tráo trở, gian dối.

 

2. HÒ KỂ TRUYỆN TÍCH NHÂN NGHĨA

Xưa, những đêm hò giã gạo đối đáp truyện tích nhân nghĩa rất được bà con nông thôn Ninh Hòa ưa thích, bởi  ý nghĩa từng câu từng đoạn thường đậm nét đạo lý cương thường.

Bài dưới đây do hai chàng trai hò đối đáp:

- Chàng trai 1 hò trước:

Hò ơ hò…

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ

Thiên hạ hà nhân bất thức quân(1)

May sao gặp bạn tình thân

Ta cùng học hỏi nghĩa nhân mới là

Nhớ tích xưa:

Thương thay cho kẻ quạt mồ(2)

Ghét thay cho kẻ cầm vồ tháo săng(3)

Chuyện đời lấy đó làm răn

Tôi thưa anh bạn đạo hằng ở đâu?

- Chàng trai 2 đáp:

Hò hơ hò…

Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm

Bất thị thi nhân mạc hiến thi(4)

Cảm ơn người bạn tương tri

Tôi biết chi nói nấy đỡ thì vài câu

Đạo hằng ở tại trên đầu

Thân gầy cõng mẹ phiêu du tìm chồng

Lóc thịt mình dâng mẹ no lòng(5)

Quỷ thần cảm động mà không hại nàng

Ai kia kết nghĩa kim bằng

Bởi ganh tài đức chặt chân bạn hiền(6)

Nọ người lòng dạ bất nhân

Hỏi bạn nghĩa chữ ngũ luân là thế nào?

- Chàng trai 1 đáp:

Ngũ luân nghĩa thật cao sâu

Quân thần nghĩa trọng dám đâu sai lời

Phụ tử tình nặng chớ phai

Phu thê tấm cám trọn đời phải thủy chung

Huynh thì hữu đệ phải cung

Giữ tình cốt nhục chứ không nghe xằng

Chữ tín đạo của kim bằng

Thương chàng Tôn Tẫn giận thằng Bàng Quyên

Dưới trăng tôi nghe tiếng khảy đờn

Tiếng đờn bằng hữu bạn còn nhớ ai?

- Chàng trai 2 đáp:

Tiếng đờn tôi nhớ ông Bá Nha(7)

Nghe Tử Kỳ khảy ông biết là nước xuôi

Ông Bá Nha khi đã chết rồi

Tử Kỳ buồn bã suốt đời đờn treo

Ai người kết nghĩa vườn đào(8)

Nhờ bạn kể lại trước sau tỏ tường?

- Chàng trai 1 đáp:

Tích xưa nghe chuyện ba ông

Ông Lưu bụng bự Quan Công râu dài

Ông Trương mắt ốc gan chì

Ba ông thề nguyện kết thì tử sanh

Trời cho thề ấy được thành

Nghĩa trung sắt đá sử xanh không mờ

Còn ai là đứa vô nghì

Cướp công của bạn nhận giết thì chằng tinh?

- Chàng trai 2:

Thương thay cho chú Thạch Sanh(9)

Bị thằng họ Lý bạc tình anh em

Trời cao báo ứng không lầm

Ác giả thì bị họa thâm đó bạn vàng

Ai kia chuộng quý tham sang

Nhẫn tâm giết vợ để mang ấn hầu?

Nghe bạn kinh sử thuộc lầu

Giảng cho tích ấy rõ câu nhân tình.

- Chàng trai 1:

Chuyện xưa Ngô Khởi (10) ác tâm

Bất lương giết vợ để làm nguyên nhung

Nhưng trời đâu có thứ dung

Về sau quả báo vận cùng bị xé thây

Bạn ơi! Tôi hỏi chuyên này

Có bà Nguyệt Kiểu cứu ai đường cùng?

- Chàng trai 2 đáp:

Tôi giận lũ Tạ Thiên Lăng(11)

Bất trung soán đoạt ngai vàng Tề Vương

Lòng bà Nguyệt Kiểu như gương

Cứu ngay ấu chúa chạy bươn ra Phàn Thành

Cảm thương Khương Linh Tá liều mình

Quân thần trọn đạo tử sanh không màng

Đêm khuya dưới ánh trăng vàng

Gạo đã giã trắng mời bạn vàng dừng tay

Ta cùng quấn thuốc nhai trầu cay

Trầu nồng nhân nghĩa thuốc xây luân thường.

CHÚ THÍCH:

(1) Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ/ Thiên hạ hà nhân bất thức quân: 2 câu này xuất xứ từ bài “Biệt Đổng Đại” của Cao Thích đời nhà Đường, nghĩa là: “Đừng buồn nơi đất khách không bạn tri kỷ/ Trong thiên hạ ai người chẳng biết anh”.

(2) Quạt mồ: Trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có chuyện một lão trọc phú ích kỷ sợ sau khi chết cô vợ trẻ đi lấy chồng khác nên lo dặn trước là phải chôn xác lão nơi đất có mạch nước nhỉ, rồi bắt cô vợ ở luôn bên cạnh quạt cho đến khi nào mộ lão khô mới được đi lấy chồng!

(3) Cầm vồ tháo săng: Cũng trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có chuyện   một người đàn bà ngoại tình, chồng chết chưa kịp chôn đã cầm chày vồ phá quan tài để khoét mắt chồng giao cho tình nhân!

(4) Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm/ Bất thị thi nhân mạc hiến thi: 2 câu này nghĩa là: Gặp người kiếm khách mới nói chuyện kiếm pháp với họ/ Đừng nên nói chuyện thi ca với kẻ không biết làm thơ.

(5) Kể chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn.

(6) Kể chuyện thời Đông Chu liệt quốc có hai người bạn học là Tôn Tẩn, Bàng Quyên. Khi Quyên làm quan ở Ngụy vì ghen tài mà chặt chân Tẩn. Tẩn giả điên được  sứ Tề cứu đưa về Tề làm quân sư. Sau Quyên xua binh đánh Hàn, vua Tề sai Tẩn dẫn quân cứu Hàn và lập mưu giết được Quyên tại Mã Lăng.

(7) Kể chuyện Bá Nha, Tử Kỳ. Bá Nha là người giỏi đánh đàn, Chung Tử Kỳ là người sành nghe đàn. Bá Nha muốn bày tỏ tình ý gì qua tiếng đàn, Tử Kỳ đều thấu hiểu cả. Về sau Tử Kỳ chết, Bá Nha treo đàn không đánh nữa vì cho rằng trên đời này không còn ai hiểu nổi tiếng đàn của mình.

(8) Vườn đào: nơi 3 anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đời Tam Quốc kết nghĩa, thề cùng nhau sống chết để khôi phục nhà Hán.

(9) Kể chuyện Thạch Sanh, Lý Thông.

(10) Ngô Khởi: Nhân vật đời Chiến Quốc, làm quan nước Lỗ. Tề đánh Lỗ, Lỗ muốn dùng Khởi làm tướng nhưng nghi ngờ Khởi có vợ Tề. Khởi bèn giết vợ dâng đầu cho vua Lỗ để được làm tướng soái.

(11) Tạ Thiên Lăng: Tuồng Sơn Hậu kể chuyện anh em Tạ Thiên Lăng cướp ngôi vua Tề. Bà Nguyệt Kiểu là chị Tạ Thiên Lăng lập mưu cứu ấu chúa chạy ra Phàn Thành, Khương Linh Tá đi đoạn hậu cản thương bị Tạ Ôn Đình giết chết. Về sau vua Tề phục nghiệp, anh em nhà họ Tạ (chỉ trừ bà Nguyệt Kiểu) bị tiêu diệt.

 

3. HÒ ĐỢI CHỜ VÀ OÁN THAN

- Cô gái  có chồng đóng lính ở xa:

Hò ơ hò…

Chàng đi lưu thú(1) nay đã ba thu

Trông chàng như thể bà Vọng Phu trông chồng

Thương chàng vượt núi băng sông

Chân mây góc biển lạnh lùng xác xơ

Nhớ chàng thiếp nhờ tả tờ thơ

Gởi ra biên ải biết bao giờ đến nơi

Thơ rằng: vạn lý trùng khơi

Chòi tranh cột nứa thiếp giữ lời sắt son

Cầu cho chàng đặng vuông tròn

Nơi nhà cha mẹ yếu thiếp không sờn đạo dâu

Nắng mưa chẳng ngại dãi dầu

Chữ trinh thiếp để trên đầu khó phai

Vắng chàng gương thiếp chẳng soi

Lược kia kệ lược chẳng đoái Hòai làm chi

Ít hàng lệ thiếp lâm ly

Thơ kia chẳng biết đến thì chàng không.

-Chàng trai đóng vai chinh phu hò đáp:

Ngó ra ngoài hướng đèo Rù Rì(2)

Bỗng nghe Tân Định(3) trạm kỳ trẩy vô(4)

Sáng mơi qua nhận được tờ thơ

Lật ra mới biết là thơ của nàng

Vừa nghe chỉ có mấy hàng

Hai dòng nước mắt rụa ràng nghẹn tâm

Qua nhờ thầy ngũ trưởng(5) tả dùm

Mấy hàng gởi bậu mối tình thâm của chồng

Cha già nhờ bậu cúc cung

Để qua trả nợ núi sông cho đời

Chạnh lòng qua lắm bậu ơi!

Nhớ cha thương vợ đầy vơi giọt sầu

Nguyện cùng trời rộng bể sâu

Trăng thề ngày lưu thú qua giữ câu chung tình

Phần bậu vẹn được tiết trinh

Mười năm mãn thú ta với mình đoàn viên.

- Cô gái:

Nghe thơ chồng gởi buổi chiều

Lòng đầy thương nhớ biết nói sao cho cùng

Thiếp thề giữ vẹn thủy chung

Bà Vọng Phu chờ đặng thiếp một lòng chờ theo

Dù cho bão tố ngặt nghèo

Nuôi cha mẹ yếu thiếp không nao tấc lòng

Chàng yên lòng trả nợ non sông

Trời nuôi ta sẽ tương phùng bên nhau.

CHÚ THÍCH:

(1) Lưu thú: Đi lính đóng quân ở xa.

(2) Rù Rì: tên đèo ở phía bắc Nha Trang

(3) Tân Định: tên cũ của huyện Ninh Hòa ngày nay.

(4) Trạm kỳ trẩy vô: đến kỳ ngựa trạm chuyển công văn giấy tờ vào.

(5) Ngũ trưởng: người chỉ huy một cơ binh 50 lính.

 

4. HÒ CHẮP NỐI DUYÊN NỢ

Bài hò này là lời thở than tâm sự giữa những người còn son trẻ gặp cảnh lỗi duyên gãy gánh mong kết nối bạn đồng hội đồng thuyền.

- Chàng trai kể lể:

Hò hơ hò…

Thấy người đủ cặp đủ đôi

Còn tôi thì phải lẻ loi một mình

Đêm đêm tôi oán trách ông cao xanh

Duyên đang nồng thắm ông đành phân hai

Khóc cho cánh nhạn rẽ bầy

Con còn con mất lạc loài kêu sương

Kể từ vắng vẻ bóng hường

Nắng mưa cui cút cảm thương phận mình

Chim kêu dưới suối tang tình

Không ai lẻ bạn cho mình kín đôi.

- Cô gái vốn là người cùng cảnh ngộ nửa đường đứt gánh, bao ngày tháng sống lạnh lùng âm thầm bên nong tằm khung cửi, nghe chàng trai than thở, nàng cũng trải lòng chân thật mong kết bạn trăm năm:

Nghe tiếng xe cán bông cút ca cút kít

Chợt nghe tiếng chàng thống thiết nhớ ai

Nợ duyên cũng tại số trời

Người còn kẻ mất không ở đời với nhau

Nhìn lên trời thiếp thương chàng Ngưu

Thương cho Chức Nữ ở hai đầu sông Ngân

Thương xa rồi lại thương gần

Thương thiếp duyên phận cô đơn giống chàng

Bao năm duyên số lỡ làng

Lắm phen gặp cảnh phũ phàng không biết nương ai

Nếu chàng thương cánh bèo trôi

Dây tơ ta nối thành đôi bạn lành

Nói ra nghĩ thẹn cho mình

Trâu đi tìm cột sao cột dành tìm trâu!

Nhưng mà chàng ơi!

Thiếp sợ bao sóng gió dãi dầu.

Một thân bồ liễu không dám đón đầu phong ba.

- Nghe cô gái tâm sự, chàng trai vô cùng cảm động:

Ông Trời bày chuyện bẽ bàng

Bắt qua gãy gánh bắt nàng đứt dây

Hai lần gặp bậu đến nay

Thầm thương nào dám tỏ ngay cái tình

Cũng là duyên nợ ba sinh(1)

Qua mong cùng bậu kết tình phu thê

Gừng cay muối mặn nguyện thề

Qua lo nghi thất(2) bậu yên bề nghi gia(3)

Thương cho bụng bậu thiệt thà

Thương qua bậu chẳng nề hà tỏ phân

Từ nay rõ được nghĩa nhân

Gió to đừng sợ cơ hàn đừng lo.

CHÚ THÍCH:

(1) Nợ ba sinh: Người xưa quan niệm vợ chồng có duyên nợ với nhau đến ba kiếp là tiền sinh, kim sinhhậu sinh.

(2) Nghi thất: yên bên vợ.

(3) Nghi gia: yên bên chồng.

 

5. HÒ ĐỐ VÀ HÒ CHƠI CHỮ

Đây là giai đoạn chính, thường diễn ra vào đêm thứ hai hay ba của cuộc hò. Phần hò này là để so tài ứng đối và sự hiểu biết cao thấp. Hễ bên trai đố thì bên gái giải, bên gái gài thì bên trai gỡ. Với những câu đố ngắn và dễ thì người đáp đáp lại liền, còn với những câu đố dài và khó thì hai bên tạm ngưng giã gạo năm mười phút để ăn trầu hút thuốc hội ý tìm lời giải, sau đó tiếp tục. Hầu hết các bài hò đố đều có ý nghĩa dí dỏm hài hước, nhưng không khí tranh tài rất căng thẳng, gay cấn. Chỉ cần đàn anh bên nào thắng được một đêm hát hò “hóc búa” là được nổi tiếng và sẽ có em út đến xin làm “nghiệp môn” (học trò trong nhà thầy).

- Cô gái nhịp chày xướng:

Hò hơ hò…

Nghe chàng đố giỏi nhất làng

Hỏi rằng con cá trê vàng có mấy cái râu

Con gì cái bụng rất sâu

Con gì nối được nhịp cầu ở sông Ngân

Tại sao có mười ba đợt trăng tròn

Đố chàng ai đứng đầu non đợi chồng

Vua gì hóa cuốc ven sông

Đêm đêm nhớ nước não nùng “quốc gia”

Vợ chồng ai cách trở sông Ngân hà

Ai người giúp bạn đăng khoa tiếng đời

Vua nào mê muội tiếng cười

Để cho cơ nghiệp chôn vùi còn chi

Vua nào nếm mật nằm gai

Vua nào nếm phẩn chờ mai phục thù

Ai một bước nhảy khắp bốn châu

Ai ăn một bữa trả ơn sâu nghìn vàng

Nếu chàng đáp được tỏ tường

Trầu này thuốc đó thiếp lẹ làng bưng dâng.

- Trước lời thách thức của cô gái, chàng trai bình tĩnh hò đáp lại:

Dưới trăng nghe bậu hát lần đầu

Lòng này muốn được ăn trầu nàng dâng

Qua đáp bậu nghe cho rõ ràng

Xưa nay con cá trê vàng có bốn cái râu

Con người bụng dạ rất sâu

Quạ đen bắt được nhịp cầu ở sông Ngân

Năm nhuận có mười ba đợt trăng tròn

Bà Vọng phu vò võ đầu non đợi chồng

Vua Thục hóa cuốc ở ven sông

Đêm đêm nhớ nước chạnh lòng “quốc gia”

Chàng Ngưu ả Chức ly biệt bến Ngân hà

Tô Tần giúp bạn vinh hoa một đời

U Vương mê muội tiếng cười

Đông Châu cơ nghiệp tơi bời một khi

Vua Ngô nếm mật nằm gai

Vua Việt nếm phẩn chờ mai phục thù

Ngộ Không một bước nhảy khắp bốn châu

Hoài Âm ăn một bữa trả ơn sâu nghìn vàng

Qua đã đáp được tỏ tường

Tháng sau qua muốn cưới nàng được chăng?

- Trước lời lẽ giải đáp trôi chảy của chàng trai, cô gái tìm cách tránh trớ thêm lần nữa:

Cưới thiếp đâu có dễ dàng

Lần này đáp được rõ ràng thiếp sẽ theo

Hôm qua giờ Mẹo

Thiếp đi chợ Gò Miêu(1)

Rao bán một con mèo

Mèo chưa bán được thiếp đói meo cả lòng

Xách mèo về gặp Bốn Mão ở Quảng Đông

Bác hứa mua cho anh Chấn

Chỉ trong vòng tháng hai

Hết tháng hai sao chẳng thấy ai

Chàng mà đáp được thiếp theo ngay chân chàng.

- Điều hóm hỉnh trong đoạn hò của cô gái là các chữ Mẹo, Miêu, Mão (đều có nghĩa là mèo), quẻ Chấn thuộc về tháng hai. Chàng trai cũng không kém, đối ngay bằng các chữ Tuất, Cầy, Cẩu, Khuyển (đều có nghĩa là chó), quẻ Càn thuộc về tháng chín:

Ở đời phải giữ ngũ thường

Lòng qua không thích trớ tràng đổi thay

Xin bậu hãy nghe đáp đây

Hôm kia giờ Tuất

Qua đến quán Cây Cầy

Đem tiền mua con cẩu choai choai

Mười Dư không bán chó chỉ đổi vài cái trứng non

Thấy người lạ lũ khuyển sủa càn

Hẹn tháng chín gió bấc qua sang bắt về

Lời đáp cũng đã xuôi bề

Thôi thôi ta hãy chung ghe thuận dòng

Bậu ơi! Đừng có trớ lòng vòng

Sắt cầm ta kết thủy chung hảo cầu

Về nhà thưa cha mẹ đuôi đầu

Kiềng đồng qua sắm lễ bỏ trầu nàng đeo

Bậu đừng vội nói đi theo

Để qua bưng kỉnh tiền cheo cho làng.

CHÚ THÍCH:

(1) Chợ Gò Miêu: tên một cái chợ xưa ở tổng Thân Thượng.

 

6. HÒ NÓI LÁI

Bài hò này theo lối nói lái diễn ngữ:

- Đối:

Mắm nêm ăn với quả cà

Vắng anh Tử Trực(1) đâu mà biết ngon.

- Đáp:

Bụi riềng trồng ở bờ ao

Chú Mộc Tồn(2) quấn quít ngày nào cũng xin.

CHÚ THÍCH:

(1) Tử Trực là con ngay, con ngay là cay ngon, ám chỉ quả ớt.

(2) Mộc Tồn là cây còn, cây còn là con cầy, ám chỉ thịt chó.

 

Bài hò này theo lối nói lái trực tiếp:

- Cô gái nhịp chày xướng:

Hò ơ hò…

Hát tình hát nghĩa đã qua

Bây giờ hát lái mới biết là hơn thua

Mẹ mua con cá đối lúc trưa

Để trên cối  đá sao bây giờ mất tiêu

Chàng chỉ dùm con cá đối ở đâu

Hay mèo tha dấu ngoài rào sau mất rồi!

- Chàng trai đáp lại:

Cá mắm chuyện của nữ nhi

Bậu còn vô ý thì chuyện gì cho nên

Con mèo đuôi cụt nhà bên

Biết mẹ đi mua cá nó leo lên mút đuôi kèo

Mẹ xách con cá đối nó nhìn theo

Thấy để trên cối đá nó khều liền tay

Lần sau nhớ lấy lần này

Thấy mẹ mua cá đem ngay cất liền.

 

Trong hò nói lái có lối hò lái bí. Hò lái bí chỉ có bài đối mà không có bài đáp lại tương xứng, như bài hò sau đây:

- Cô gái:

Tích xưa Ngô Khởi tài cao

Vợ mừng ngơi khổ thoát bao dãi dầu

Khởi tham danh cao mê công hầu

Lấy dao canh cổ vợ ai nào nhẫn tâm

Nếu chàng kinh sử nhập tâm

Đạo tào khang chàng giảng rõ để làm gương soi.

- Chàng trai đành bó tay trước câu hò đối bí hiểm này và hẹn tháng sau. Một tháng sau cũng không tìm được câu giải, chàng ta “lặn” luôn trong lần giao lưu kế tiếp. Bốn năm tháng trôi qua, tại nơi cũ lại diễn ra cuộc hò đối đáp, chàng trai nghĩ rằng cô gái sẽ không có mặt, hoặc giả nếu có cô ta cũng quên mất. Không ngờ lần tái ngộ này cả hai lại gặp nhau bên cối gạo, cô gái hò nhắc lại món nợ cũ:

Năm ngoái chàng nợ câu hò

Hẹn rằng sẽ trả mà bây giờ cũng không

Hay chàng cùng Ngô Khởi một lòng

Vợ chàng có ngơi khổ hay không hỡi chàng?

- Chàng trai thú thực bó tay, nhưng để vớt vát bèn cải biên vài câu hò mép ở đâu đó để thay vào:

Qua không rành chuyện sử kinh

Bậu hò lái bí qua đành chịu thua

Bây giờ hát chuyện bán mua

Chuyện cày chuyện cấy chuyện dưa chuyện cà

Chuyện rằng:

Có nàng Thị Mãnh ở nơi ta

Tới làng Thạnh Mỹ(1) tìm nhà em trai

Em trai đã xuống Bình Tây

Bầy tinh biết được chận ngay giữa đường

Thôi thôi  qua từ giã cô nương

Để mau xuống đó tìm phương giúp người.

- Cô gái chưa chịu, toan bắt bẻ, thì một cô gái khác hóa giải cũng bằng câu hò hiểm hóc:

Cảm thương anh Trí Bá(2) làng xa

Đáp câu trá bí, chị em ta cũng nương lời.

CHÚ THÍCH:

(1) Làng Thạnh Mỹ nay có tên là Thanh Mỹ thuộc xã Ninh Quang huyện Ninh Hòa.

(2) Trí Bá: nhân vật đời Xuân Thu, là người thất bại trong giấc mộng công hầu.

 

7. HÒ CHỌC GHẸO MỈA MAI

 

Trong sinh hoạt hò hát giữa các làng với nhau, lúc nào hai bên cũng giữ lễ nghi tình cảm, do đó ít sử dụng những bài hò có nội dung chọc ghẹo, mỉa mai. Tuy nhiên đôi lúc cũng có vài  cặp trai gái quá quen mặt nên khích bác châm chọc nhau, thảng hoặc có cô cậu do bản tánh xấu nên bị bạn hò chế giễu.

- Một chàng trai mắt bét ghẹo cô gái cổ cò:

Hò hơ hò…

Bậu kia ngồi ngóng cổ cò

Đến đây không hát không hò không khoan

Hay là cả tấm tình son

Bị xông bùa ngải nên quên hát hò.

- Chàng trai đơn phương giã gạo khiêu chiến. Cô gái kia bất bình vào cầm chày giã gạo nghênh chiến ngay:

Ai kia có mắt như mờ

Hay mắt bị bét ghèn lòa mắt chăng!

Phận mình đầu tóc rối nhăng

Lại còn xoi bói cổ bằng cổ cao…

(Mất một đoạn)

… Tại sao mà gọi trăng già trăng non

Tại sao trăng khuyết liền tròn

Tại sao đá cứng bị mòn bởi chân

Ít câu tôi hò hát có chừng

Hỏi người mắt bét rõ ràng nghe chưa.

- Không ngờ cô gái tấn công mình, chàng trai phản kích lại:

Mắt qua hơi bét, cô bậu ghét quá rồi

Trời làm qua phải chịu thôi

Mà sao bậu dám nặng lời mỉa khinh

Bảy mươi chưa gọi rằng lành

Chê người rồi sẽ lượt mình người chê…

(Mất một đoạn)

… Trăng già vì bởi trăng qua hạ tuần

Núi non tiếng lóng của cổ nhơn

Núi non đâu phải là con núi già

Nguyệt thực bậu biết chăng là

Trăng tròn vội khuyết khuyết ra liền tròn

Qua nghe chân cứng đá mềm

Chưa nghe chân cứng đá mòn bậu ơi!

Tiện đây qua tỏ vài lời

Con gái cú tắng(1) chắc ế đời xuân xanh.

- Ngày xưa con gái bị rủa ế chồng là nặng lắm, cô gái bực tức đáp ngay:

Ế chồng tôi chẳng có lo

Sợ ai ế vợ nằm co một mình

Cổ cò tôi cũng chịu đành

Ai kia mắt bét không dám tỏ tình với ai.

- Không ngờ cuộc hát đêm nay căng thẳng đến thế, một người khác vào giã chày ba can gián:

Đêm nay hát nghĩa hát tình

Sao ai hát mỉa hát kình với ai

Dĩ hòa vi quý ai ơi!

Nhịn nhau một tiếng láng lơi nghĩa tình

Nhịn người người sẽ nhịn mình

Gặp nhau xỉa xói sao đành cùng nhau

Tôi xin can mời thuốc mời trầu

Rồi cùng hò tiếp những câu dịu dàng.

CHÚ THÍCH:

(1) Cú tắng: Hay gây sự.

8. HÒ CHIA TAY THAN THỞ

 

Một cuộc hò đối đáp kéo dài đến ba bốn đêm liền, trai gái tha hồ gửi gắm lòng mình qua câu hò hơ dưới ánh trăng thanh. Từng đôi trai gái thay nhau hát những câu hò nhân nghĩa chứa đựng ý tình hẹn biển thề non, từng nhịp chày vang lên đều đặn như nối kết nhịp đập của những con tim vừa chớm yêu đương. Không biết bài bản họ học từ đâu, thuộc lúc nào, mà đối đáp thao thao như dòng nước chảy, tình cảm càng lúc càng trào dâng lai láng. Nhưng cuộc vui nào rồi cũng phải tàn. Chặng cuối của cuộc hò giã gạo là hò chia tay, hò từ giã, những câu hò chan chứa bao nỗi cảm phục, luyến tiếc, vui buồn, thương nhớ, vấn vương…

 

Đêm nay là đêm cuối. Tiếng gà khuya xao xác gáy như đánh thức giấc mộng yêu đương. Sực tỉnh lại thì giờ phút chia tay sắp đến rồi, bao nỗi buồn thương luyến tiếc tràn ngập vào cả con tim của đôi trai gái:

- Cô gái:

Gặp nhau chưa thỏa tấc lòng

Trăng đã xế bóng buồn không hỡi chàng

Cuốc kêu quốc quốc đoạn trường

Nặng thương nặng nhớ hai hàng châu rơi

Bỏ chày buông cối chàng ơi!

Ngưu Lang Chức Nữ ven trời chân mây

Duyên may ta gặp dịp này

Tình chàng ý thiếp tràn đầy nghĩa nhơn

Xa chàng thiếp thệ sắt son

Biển sông dù cạn cũng không sờn tình ta

Sang canh giục giã tiếng gà

Sương khuya nhuộm thắm trăng tà non tây

Thương nhau chàng nhớ lời này

Tránh xa Ngô Khởi học nơi Bá Lý Hề

Chắp tay giữa trời đất thiếp thề

Thủy chung thiếp quyết không hề sang ngang.

- Chàng trai cũng xúc động bùi ngùi, ngân cao giọng hò bên cối gạo bằng lời lẽ thủy chung:

Ngãi nhân mới kết chữ đồng

Sông Tương kẻ cuối bến người đầu dòng bậu ơi!

Nhìn bậu nước mắt qua tuôn rơi

Lòng đầy trĩu nặng một trời nhớ thương

Biết nhau vừa tạc đá vàng

Vì đâu qua bậu hai đàng chia tay

Bậu thì lẻ bóng nơi đây

Phần qua về lại làng tây ven rừng

Bậu còn nặng nghĩa thủy chung

Thì mong bậu nhớ cái gương vợ Mãi Thần

Kìa như mặt ả Kim Liên

Chuyện xưa kẻ ấy ai còn khen chi

Lòng qua mãi mãi khắc ghi

Mong sao dạ bậu đừng thay đổi nào

Dời chân biết gởi gì nhau

Qua xin trao bậu túi trầu làm tin.

Nguyễn Man Nhiên
Số lần đọc: 4524
Ngày đăng: 12.12.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trò diễn dân gian “ Hát mộc “ –Một vốn quý trong di sản văn hoá Khánh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Lưới đăng – Nghề biển truyền thống ở Khánh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Nhà mái lá – Nét văn hoá độc đáo của làng quê Bình Định - Mai Thìn
Hát lễ- hát bội Bình Định - Mai Thìn
Hò giã gạo Bình Định – sản phẩm độc đáo của nhà nông - Mai Thìn
Tình yêu quê hương đất nước của người Vĩnh Long qua ca dao - Tăng Tấn Lộc
Rối nước - Khánh Phương
Mượn kiếp đào nương... - Khánh Phương
“Yêu nhau chẳng lấy được nhau...” - Khánh Phương
Tuồng , còn hơn một nghệ thuật - Khánh Phương
Cùng một tác giả
Rồng Việt (dân gian)