Từ nơi xa anh mail cho tôi, sau những dòng chữ ngắn gọn và rõ ràng thông báo về công việc như thường lệ, chợt dòng cuối một câu hỏi thảng thốt “Sài Gòn bây giờ thế nào hả em…?”.
Sài Gòn bây giờ thế nào ư?
Anh xa Sài Gòn đã rất lâu rồi, biết anh còn nhớ hay đã quên gì để có thể kể cho anh nghe nhỉ… Bỗng giật mình tự hỏi, ba mươi năm sống ở thành phố phương Nam đầy nắng gió này nhưng với tôi, Sài Gòn có những gì trong tâm tưởng?
Ấn tượng đầu tiên của tôi về Sài Gòn là từ một câu ca dao về vùng đất còn đầy vẻ hoang sơ lạ lẫm:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định – Đồng Nai thì về
cùng với tích chuyện xưa Thủ Hoằng dựng Nhà Bè ở ngã ba sông, để sẵn gạo củi giúp cho những người lỡ đường sông nước tạm dừng ghe xuồng nghỉ ngơi, chờ con nước lớn mà ngược vào vùng bán sơn địa Gia Định Đồng Nai hay theo nước ròng mà xuôi ra cửa biển Cần Giờ… Trong tôi, Đất Sài Gòn hiện lên nơi ngã ba sông Sài Gòn và sông Đồng Nai nhập vào nhau để cùng đổ ra biển Đông, và Người Sài Gòn hiện ra như những con người rộng rãi sẵn sàng làm việc nghĩa.
Nằm trong lưu vực Đồng Nai bao gồm cả lưu vực sông Bé, sông Sài Gòn với cửa sông/ cảng thị Cần Giờ từ gần hai ngàn năm trước, Sài Gòn – Bến Nghé xưa vốn là một thị tứ sông nước với sông Đồng Nai – Sài Gòn phía Đông, sông Bến Cát phía Bắc, đôi dòng Vàm Cỏ phía Tây và cửa Soài Rạp – Đồng Tranh – Cần Giờ phía Đông Nam. Vị trí địa lý tự nhiên đã “quy định” cho Đất và Người Sài Gòn tính cách phóng khoáng, cởi mở, dễ dàng tiếp xúc và giao lưu, tiếp nhận những cái mới, những người mới… Nếu không/ chưa kể đến thời tiền sử của vùng đất này từ khoảng 3000 ngàn năm trước thì Sài Gòn thường được biết đến như vùng đất mới 300 năm, với cái mốc mùa xuân Mậu Dần 1698 Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu vào đất Gia Định lập nền hành chánh. Việc thiết lập chính quyền nhằm chính thức hóa đời sống của hàng chục ngàn lưu dân đã bằng đường biển, đường sông hay băng rừng vượt núi đến đây khai phá từ nhiều năm trước. Bản thân sự “khai sinh” Sài Gòn – Gia Định đã là quá trình những con người từ nhiều nguồn gốc, nhiều vùng miền trong cả nước, có cả những nhóm người Hoa từ lục địa Hoa Nam vượt biển xuống đây, hội nhập với các tộc người đã tụ cư lâu đời ở vùng đất này. Trong dòng lưu dân khai phá Sài Gòn – Gia Định, phần đông là nông dân từ miền Bắc, miền Trung… Cuộc sống quá vất vả khó nhọc nên những người nông dân đã phải suốt đời “đầu tắt mặt tối”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” dường như cho ta hiểu thêm một tầng nghĩa khác – bên cạnh ý nghĩa “đồng bào” – của huyền thoại nguồn gốc Mẹ Au Cơ và bọc Trăm trứng: phải chăng đó là bóng dáng quen thuộc của bầy gà hiền lành, cần mẫn kiếm ăn trong sân nhà vườn nhà, nhường nhịn chia sẻ cho nhau từng hạt lúa con sâu, tuy đôi lúc cũng “đá nhau” nhưng lại sẵn sàng xù lông bảo vệ lẫn nhau khi có lũ quạ lũ diều xuất hiện… Cũng những người nông dân ấy khi vào đến vùng đất thiên nhiên còn hoang sơ lạ lùng, đất rộng người thưa lại cùng cảnh ngộ, việc làm ăn không còn quá vất vả như trên cánh đồng ô trũng bị che chắn bởi đê điều ở châu thổ sông Hồng hay dải ruộng hẹp sát núi liền biển ở miền Trung, mà đồng ruộng làng xóm đã mở rộng theo dòng chảy của sông ngòi, kênh rạch, theo đó có thể đến những miền đất mới… Vì vậy, sự sẻ chia bao bọc được nhân lên mà tính cách phóng khoáng, nghĩa hiệp cũng được nhân lên cùng với sự năng động, quyết đoán hơn:“Làm đại đi, ừ, làm đại nghen!” là một cách ứng xử rất Sài Gòn/ Nam bộ của người Việt phương Nam.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, cho đến bây giờ nếu làm một cuộc thống kê ở các thành phố lớn về Hội đồng hương của các Tỉnh (chưa kể đến huyện, xã) thì chắc chắn, Sài Gòn là nơi có số lượng nhiều nhất! Ở Sài Gòn ta có thể nghe thấy tiếng nói, thưởng thức món ăn của nhiều vùng miền khác nhau nhưng cách thức làm ăn của những người tứ xứ tại đây vẫn đậm nét Sài Gòn: nhanh nhạy “chịu chơi”(chứ không chơi chịu), tín nghĩa “một là một, hai là hai”. Sài Gòn biết chấp nhận những khác biệt, không kỳ thị không tự lấy mình “làm chuẩn” để mà so sánh hơn thua về bất cứ điều gì… Nhờ vậy mà sâu thẳm trong người Sài Gòn là truyền thống văn hóa cội nguồn được gạn lọc rồi lắng đọng theo thời gian, để trong hoàn cảnh ngặt nghèo đến đâu Sài Gòn cũng luôn tìm được cách để vượt qua, để người Sài Gòn vẫn luôn là người Việt Nam dù hàng trăm năm thực dân cũ mới. Luôn thích nghi với những điều mới lạ nhưng không đánh mất bản chất của mình, ấy là một phẩm chất mà người Sài Gòn hôm nay mang theo mình như một hành trang quan trọng trên con đường hội nhập.
Sài Gòn bây giờ thế nào? Anh ạ, Sài Gòn bây giờ vẫn thế. Thành phố những năm gần đây đã mở rộng, cảnh quan thay đổi từng ngày nhưng vị thế Địa – Văn hoá, Địa – Kinh tế của nó thì vẫn không thay đổi. Đôi khi tôi nghĩ vẩn vơ: giá như hình ảnh ngã ba sông tại Nhà Bè được lấy làm biểu tượng của thành phố thì hay biết mấy, vì đây chính là vị thế “trời cho người chọn” để làm nên bản sắc Sài Gòn, cũng là tiêu biểu cho bản sắc Nam bộ. Thành phố giờ đã hơn 7 triệu dân mà phần lớn là người tứ xứ, những người đã làm nên sức sống trẻ trung năng động của thành phố đồng thời cũng được nơi đây nuôi dưỡng, cưu mang. Qua nhiều năm khó nhọc mưu sinh, nhiều người đã thầm hiểu, nơi mình được sinh ra là nơi để gửi nhớ gửi thương mỗi dịp năm hết Tết đến, còn Sài Gòn là nơi mỗi ngày ta có thể sống hết mình trong suốt cuộc đời … Và nếu như ta đừng quá “thiên lệch” lòng yêu thương đối với nơi chôn nhau cắt rốn thì tình cảm của ta đối với Sài Gòn sẽ “công bằng” hơn: Mỗi khi nghĩ về Sài Gòn lòng ta ấm áp một tình cảm gắn bó vì đây là thành phố của mình, vì ta cũng đã là người Sài Gòn!
Rất mong một ngày nào đó anh về lại Sài Gòn, đi trên những con đường hoa điệp vàng hay dưới hàng cây cao vút thả từng cánh hoa xoay xoay trong gió chiều, ngắm nhìn con người Sài Gòn, lắng nghe nhịp sống Sài Gòn, chắc hẳn anh sẽ đồng cảm hơn với cảm nhận của tôi: Sài Gòn bây giờ vẫn thế, và Sài Gòn bao giờ cũng thế…