Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.248
123.160.745
 
Một số nhận định về Phật Giáo Hoà Hảo – Một Đạo giáo xuất phát từ vùng châu thổ sông cửu long . tiếp theo và hết
Nguyễn Bạch Trúc

PHẬT GIÁO HÒA HẢO VÀ CHỦ TRƯƠNG CHẤN HƯNG XÃ HỘI

 

Phạm Cao Dương

Nguyên Giáo sư Sử học Đại học Sư phạm và Văn khoa Saigon.

 

Lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Phật giáo nói riêng trong những năm cuối của thời kỳ Pháp thuộc, đúng hơn là trong hai thập niên ba mươi và bốn mươi, đã được đánh dấu bởi hai biến cố vô cùng quan trọng. Đó là sự phát sinh của phong trào chấn hưng Phật giáo truyền thống, và sự hình thành của Phật Giáo Hòa Hảo. Cũng là Phật giáo, nhưng hai phong trào này đã có những hoàn cảnh xuất hiện khác nhau, những chủ trương khác nhau, những đường hướng khác nhau, những điều kiện phát triển khác nhau, do đó, đã mang lại những thành quả khác nhau. Có điều cả hai đều đã góp những phần vô cùng tích cực vào sự hình thành của một nền Phật giáo Việt Nam thuần tuý sau khi tôn giáo này đã du nhập vào nước ta từ hơn mười thế kỷ.

Bắt nguồn từ phong trào chấn hưng Phật giáo bên Trung Quốc, đồng thời cũng là một phản ứng của các tăng sĩ và cư sĩ Việt Nam trước tình trạng thoái hóa của Phật giáo ở nước ta, từ nhiều thế kỷ trước, trước những lấn át của Nho giáo, đặc biệt là trong thế kỷ mười chín, dưới thời nhà Nguyễn cũng như dưới thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ mà theo Thượng tọa Mật Thể, “từ trên vua cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật là cúng cấp, cầu đảo chứ không biết gì khác nữa “, trong khi đó thì tăng đồ “lần lần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè, đàn trước thanh sắc “, “đã có vợ con một cách công nhiên, không còn áy náy “, riêng ở Nam kỳ thì ông thầy, bà vãi lại còn hỗn độn hơn nữa, và “cái cảnh chùa trong nước đã thành những gia đình riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa “(*). Tuy nhiên vì chỉ nhằm chấn hưng Phật giáo thuần tuý, các nhà chủ trương phong trào này đã đặt trọng tâm của mọi cố gắng vào việc tìm hiểu, phiên dịch sang quốc ngữ để phổ biến các kinh điển đạo Phật từ chữ Phạn hay chữ Hán cho các tăng sĩ và cư sĩ. Công việc này tất nhiên đòi hỏi rất nhiều thời gian và sự đóng góp của nhiều người, chưa kể, cũng theo Thượng tọa Mật Thể, “dân tình tồi bại, điêu tàn của ngày qua vẫn còn lưu hành lại rõ rệt và có thế lực “. Chính vì vậy hơn mười năm, tức khoảng 1942, khi Thượng toạ hoàn thành tác phẩm của Ngài “chưa hội nào làm được việc gì có vẻ đỉnh cách cho nền Phật giáo cả “và chấn hưng mới chỉ là “hình thức và danh hiệu “, lời Thượng toạ. Người ta phải đợi đến nhiều chục năm nữa, sang các thập niên sáu mươi và bảy mươi, một nền quốc học Phật giáo mới thực sự khởi sắc và phát triển. Người Phật tử Việt Nam xuyên qua các bản dịch các kinh sách từ chữ Hán hay chữ Phạn sang tiếng Việt, và những sự giảng giải cặn kẽ của các Hòa thượng, Thượng toạ, Đại đức tinh thâm cả ba thứ tiếng, đã có thể trực tiếp đi xa hơn vào nền triết học sâu thẳm và bao la của nhà Phật, với tâm hồn và những tình cảm của con người Việt Nam thuần tuý. Những công lao và những thành quả này, lịch sử văn hoá Việt Nam trong tương lai chắc chắn sẽ phải ghi nhận.

Phật Giáo Hòa Hảo trái lại, tuy một mặt cũng chú trọng tới sự suy đồi của Phật giáo ở trong nước, điển hình là ở các chùa chiền hay trong hàng ngũ các tăng đồ mà người ta có thể thấy được rất nhiều trong các Sấm giảng của Đức Thầy. Chẳng hạn như :

Trong sáu tỉnh nhiều điều tà mị,

Tu hành mà vị kỷ quá chừng.

                   (Kệ Dân của Người Khùng, câu 164-165)

hoặc :

Ghét những kẻ tu hành bốc xước,

Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài.

Bước và chùa thấy Phật lạy dài,

Lui khỏi cửa ra  tay cấu xé. 

                   (Giác Mê Tâm Kệ, câu 299- 302)

hoặc :

Thấy dương gian lường gạt Thánh thần,

Mà chua xót cho đời Ngươn hạ.

(Giác Mê Tâm Kệ, câu 309-310)

hoặc :

Thấy chúng tăng làm chuyện quái kỳ,

Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ.

 (Giác Mê Tâm Kệ, câu 317-318)

Lý do là vì :

Rừng kinh kệ ít người hay chữ,

Quá mắc mỏ bởi chưng Phạn ngữ.

Nên người đời khó kiếm cho ra,

Mõ chuông bày, đọc tụng ó la,

Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý.

 (Giác Mê Tâm Kệ, câu 13-16)

Nhưng Đức Thầy đã không chỉ chú trọng tới sự suy đồi của Phật giáo mà thôi, Ngài còn chú trọng nhiều hơn tới tình trạng suy đồi của toàn thể xã hội Việt Nam về nhiều phương diện, trong đó có sự suy đồi của cuộc sống đạo đức theo quan niệm bình thường và theo quan niệm của Khổng giáo. Ưu tư về sự suy đồi của đạo đức xã hội này đã được Đức Thầy nói tới rất nhiều trong Sấm giảng. Suy đồi trong quần chúng cũng như suy đồi trong hàng ngũ giới trí thức mới, trong giới trẻ cũng như giới già. Một sự suy đồi đến độ cùng cực khiến cho Đức Thầy phải than rằng :

Chẳng có người nào tu niệm hiền lương.

(Sấm giảng Khuyên người đời tu niệm,câu 768)

Vì bá tánh thì “nghinh tân yểm cựu “

Phụ mẹ cha khinh rẻ Phật Trời,

Chẳng có kể công sanh, dưỡng dục.

 (Kệ Dân của Người Khùng, câu 83-84)

 

Văn minh sửa mặt sửa mày,

Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.

Dọn xem hình vóc lả lơi,

Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.

Trong tâm nhớ những điều tà,

Lời ăn tiếng nói thật là quá lanh.

 (Kệ Dân của Người Khùng, câu 580-785)

Trong khi giới trí thức cũ cũng như mới cũng chẳng có gì hơn. Vì trí thức cũ thì :

Thấy đời ta cũng héo von,

Học Nho mà chẳng làm tròn nghĩa nhơn.

Khoe mình chẳng có ai hơn,

Nhờ làm thuốc Bắc đỡ cơn túng nghèo.

Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,

Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha.

Hốt thời cắc bảy, cắc ba,

Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn.

 (Kệ Dân của Người Khùng, câu 305-312)

Còn trí thức mới thì :

Mấy anh thầy thuốc Lang Sa,

Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
(Kệ Dân của Người Khùng, câu 314-315)

Tất cả đã bắt nguồn từ sự suy thoái chung của một xã hội lệ thuộc ngoại bang, nguyên do chính yếu mà Đức Thầy đã nhấn mạnh bằng một quyết định liên hệ đến bản thân mình, quyết định để tóc dài. Quyết định này đã được Ngài giải thích rất rõ, kèm theo với quan niệm tu đạo của Ngài:

 “Sở dĩ Thầy để tóc dài là muốn giữ kỷ niệm với cái phong tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn minh cặn bã của phương Tây. Thấy vậy nhiều người trong bổn đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tuỳ theo phong trào tiến hóa của nước nhà, Thầy cho phép bổn đạo tự do cải cách hầu hòa hợp với lương dân cùng tôn giáo khác.

Vì nhận định một cách rộng rãi như vậy, Đức Thầy và Phật Giáo Hòa Hảo đã không giới hạn các cố gắng của mình trong phạm vi Phật giáo thuần túy mà đã hướng tất cả vào một phong trào to lớn hơn, quan trọng hơn và phức tạp hơn. Đó là phong trào phục hưng toàn quốc xã hội Việt Nam, ít ra là miền châu thổ sông Cửu Long, về mọi phương diện tôn giáo, văn hóa và xã hội, đặt trên căn bản phục hưng con người Việt Nam truyền thống. Những chất liệu mà Đức Thầy và Phật Giáo Hòa Hảo đã lấy ra để xây dựng nền lý thuyết cho đạo mình hoàn toàn tại chỗ, hoàn toàn Việt Nam, Việt Nam một cách đơn sơ, thuần hậu, không cầu kỳ, không trí thức đến độ kiểu cách, không quá sâu sắc đến độ bí ẩn. Tất cả đều rút tỉa từ cuộc sống bình dị của người nông dân miền Nam, từ những căn bản Khổng giáo hay Phật giáo đã được dân tộc hóa và được trộn lẫn vào nhau trong một tinh thần cởi mở tự nhiên để đón nhận mọi tinh túy từ bốn phương không chút mặc cảm. Về phương diện này người ta có thể nói rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một kết tinh trọn vẹn nhất của văn hóa dân tộc và là một trong những biểu dương trọn vẹn nhất của truyền thống vì trong Phật Giáo Hòa Hảo người ta có thể tìm thấy được những màu sắc Khổng giáo trong đời sống đạo đức hàng ngày, những tín ngưỡng Phật giáo và thờ cúng tổ tiên trong sinh hoạt tôn giáo, và tình tự quê hương dân tộc trong cuộc sống tình cảm. Trong những lời dạy của Đức Thầy, người ta thấy Đức Thầy đã nhắc tới các Thánh hiền, tới Khổng Mạnh một cách vô cùng tự nhiên coi như tài sản quý báu chung của dân tộc :
                                             
Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,

Sách Thánh hiền dạy đạo làm người.
                                      
 (Kệ Dân của Người Khùng, câu 62-63)

hoặc :

Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,

Gái tiết trinh mới gái Nam trào,

Lời Thánh hiền để lại biết bao,

Sao trai gái chẳng coi mà sửa.
                                       
(Kệ Dân của Người Khùng, câu 21-25)

Ở chòm xóm đừng cho nhơ bợn,

Ráng giữ gìn phong hóa nước nhà,

Câu tam tòng bạn gái nước ta,

Chữ hiếu nghĩa trẻ trai cho vẹn.
                                       (Kệ Dân của Người Khùng, câu 200-203)

Chính vì những đặc tính kể trên, Phật Giáo Hòa Hảo đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội miền Nam vào lúc chế độ thuộc địa của người Pháp tan rã và đất nước chuyển mình. Chúng giải thích tại sao chỉ trong một thời gian ngắn tôn giáo này đã vượt được những thờ ơ, lạnh nhạt, kể cả chế riễu mà Huỳnh Giáo Chủ đã gặp phải trong mấy ngày đầu truyền đạo của Ngài, để tiến đến chỗ trở thành một tôn giáo quan trọng ở Việt Nam.

…………………………….

   (*) Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Saigon, Minh Đức tái bản, 1960, tr. 223-224 .              

                                                    

                                                                       

ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ LÀ MỘT TRIẾT GIA VIỆT NAM   (*)

 

Phạm Công Thiện

Nguyên Giáo sư triết học Đại học Vạn Hạnh Saigon

 

Có lẽ không ai mà không biết Đức Huỳnh Phú Sổ là Đức Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng ít ai biết rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là một triết gia Việt Nam. Chẳng những thế, không phải chỉ triết gia Việt Nam như bất cứ một triết gia nào xứng đáng được gọi là “triết gia “mà Đức Huỳnh Giáo Chủ lại đúng là một minh triết, một thánh triết, trong mọi ý nghĩa cao siêu nhất của danh từ. Khi tình cờ đọc một bộ từ điển bách khoa có thẩm quyền nhất thế giới, bộ Encyclopaedia Britannica, dở qua cuốn 6, trang 181, tôi thấy tên tuổi và cuộc đời sự nghiệp của Đức Huỳnh Giáo Chủ chiếm trên nửa cột chữ in nhỏ trên trang giấy tự điển, mấy hàng chữ đầu đã đập mạnh vào mắt tôi : “Huynh Phu So is a Vietnamese philosopher … “Hiển nhiên mấy hàng chữ tiếp tục cũng xác định thêm rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là nhà cải cách Phật giáo và nhà sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng chính điều xác định đầu tiên của Encyclopaedia Britannica đã làm tôi chú ý đặc biệt : “Huỳnh Phú Sổ là triết gia Việt Nam  …”Mặc dù tôi có thói xấu giống như Aldous Huxley là hay thích đọc tự điển như đọc tiểu thuyết (Aldous Huxley rất say mê đọc bộ Encyclopaedia Britannica), nhưng không phải bất cứ cái gì tự điển đã định nghĩa thì tôi tin ngay lập tức ; bản tính cố hữu của tôi là ngờ vực tất cả định nghĩa của tất cả tự điển và từ điển. Tuy nhiên, lúc thấy Encyclopaedia Britannica gọi Đức Huỳnh Phú Sổ là “triết gia Việt Nam “thì tôi bỗng ngừng lại và bắt đầu suy nghĩ. Bao nhiêu âm hưởng bất ngờ xoáy tròn xung quanh một danh từ quen thuộc.

Từ lâu, tôi đã có thói quen nghĩ rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là một thiên tài tôn giáo dân tộc, là một đại Bồ Tát trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, là tất cả những gì đáng tôn kính trong vị thế của một Giáo chủ  một tôn giáo gồm nhiều triệu tín đồ ở Việt Nam. Nhưng tôi chưa nghĩ đến khía cạnh “triết gia “của Huỳnh Giáo Chủ. Hiển nhiên tất cả mọi Giáo chủ tôn giáo đều là triết gia ở một bình diện nào đó, và tất cả mọi triết gia ở trên tất cả bình diện đều không thể là Giáo chủ được, nếu người ta hiểu được tính thể chân chính của triết lý như là triết lý. Một triết gia  có thể là một triết gia về tôn giáo với một nền tảng triết lý về tôn giáo, nhưng một nhà tôn giáo học không hẳn bị bắt buộc phải là một triết gia, và nhất là một nhà tu hành tôn giáo và nhất là một Giáo chủ tôn giáo lại không nhất thiết phải cần đến một triết lý nào cả, nhất là thứ triết lý kinh viện nhà trường. Tuy nhiên nếu triết lý được hiểu là triết lý trong tất cả mọi ý nghĩa toàn diện của triết lý thì không có ai có thể chạy thoát ra ngoài cái vòng tròn khủng khiếp của triết lý, dù triết lý được hiểu theo nguyên nghĩa Philosophia hay được hiểu theo nguyên nghĩa Minh triết Đạo lý của Đông phương. Nếu được hiểu theo nghĩa nguyên vẹn toàn diện thì Đức Huỳnh Giáo Chủ đúng là một triết gia Việt Nam vĩ đại mà chỉ có người nào nắm trọn tất cả triết lý Tây phương và đạo lý Đông phương thì mới có khả năng nhìn thấy được tất cả ý nghĩa ẩn hiện của bốn chữ triết lý Việt Nam.

Một thanh niên Việt Nam mới 20 tuổi mà đã cưu mang tất cả sức nặng bí ẩn của đạo lý Đông phương, đã thể hiện tất cả khả tính có thể có được của tư tưởng Việt Nam, đã thể hiện trọn vẹn tất cả tinh tuý của Mật tông, Thiền tông và Tịnh độ tông, đã thành tựu oanh liệt truyền thống Thiền Lý Trần và Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam, đã nối kết lại tinh thần Phật giáo nguyên thuỷ với đại nguyện và đại hành của lý tưởng Bồ Tát trong Đại thừa, đã đốt cháy lại ngọn lửa thiêng trao truyền từ lục tổ Huệ Năng , đã gây dựng lại với hai bàn tay trắng tất cả những gì cao siêu nhất của dân tộc và của nhân loại trong sự nghiệp tư tưởng và hành động của mình, đã nuôi dưỡng đời sống tâm linh và hùng khí dân tộc cho bao nhiêu triệu người Việt Nam. Một người như thế, chẳng những là một triết gia Việt Nam thôi, mà chính là minh triết, thánh triết cho cả nhân loại.

(*)  Lược trích trong “Phật Giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử dân tộc “, Nguyễn Long Thành Nam, Đuốc Từ Bi xuất bản 1991.

 

NGUYỄN BẠCH TRÚC

Sưu tầm và tổng hợp

Nguyễn Bạch Trúc
Số lần đọc: 4091
Ngày đăng: 09.01.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tên làng xã Khánh Hoà hồi đầu thế kỷ XIX qua sưu tập địa bạ triều Nguyễn - Nguyễn Man Nhiên
Địa danh gốc Chăm ở Khánh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Nói thêm về đàn Nam Giao - phần 1 - Trương Thái Du
Nói thêm về đàn Nam Giao - phần 2 - Trương Thái Du
Cam Ranh xưa và nay - Nguyễn Man Nhiên
Phan Thanh Giản - Vị tiến sĩ đầu tiên đất Nam Kì (Phần 1) - Hùynh Công Tín
Phan Than Giản - Vị tiến sĩ đầu tiên đất Nam Ki (Phần 2) - Hùynh Công Tín
Một cách nhìn lịch sử hời hợt và méo mó - Hà văn Thùy
Đi tìm di tích Dinh xưa - Nguyễn Man Nhiên
Làng Lại Đà xưa và nay -8 - Nguyễn Phú Sơn