VÀI HÀNG VỀ NH. TAY NGÀN
Thuở học Trung học đối với gã học sinh là tôi thường say mê văn chương, tìm đọc Văn, Vấn Đề, Nghệ Thuật… là thứ “khó nhai”, khiến bạn bè cùng lứa ngạc nhiên vô cùng. Không biết sao tôi thường chú ý đến các nhà thơ Nguyễn Quang Hiện, Tần Vy, Phạm Công Thiện, Nguyễn Phan Thịnh, Trần Thị Nhã Ca…và đặc biệt là Nh. Tay Ngàn. Gần đây đọc bài “Nh. Tay Ngàn, lập lòe trí nhớ” của Thi Vũ, trên Website Gio-O, buồn làm sao khi biết tin nhà thơ mất vào ngày đầu tháng giêng năm 1978 tại Paris vào lúc 35 tuổi. Lại thêm một lần giật mình, trong lần trò chuyện với một người viết văn định cư ở Mỹ ghé về Sài Gòn ăn Tết năm 2007, tôi lại nghe thông tin trái ngược là Nh. Tay Ngàn hiện đang còn sống ẩn cư bên ấy, tránh mọi giao tiếp, không muốn liên lạc với giới văn nghệ nữa. Với tấm lòng yêu quí thơ Nh. Tay Ngàn, tôi bèn lục lại một số bài thơ của anh từng đăng tải trên các báo, mong chia sẻ mối tâm cảm cùng bạn đọc yêu thơ.
TRẦN HỮU DŨNG
….Trong Văn số 28 ra ngày 15/02/1965 “Giới thiệu những cây bút có triển vọng đi xa” có viết về Nh. Tay Ngàn như sau : “Nh. Tay Ngàn là nhà thơ có bài được chọn đăng nhiều nhất trong số các bạn trẻ tìm đến Văn. Tên thật là Nguyễn Văn Nhĩ, sanh năm 1943, nguyên quán Vĩnh Bình . Hiện đang theo học ngành Canh nông tại Pháp”.
….Trong bài viết “Nh. Tay Ngàn, lập lòe trí nhớ” của Thi Vũ đăng trong Website Gio-O có viết như sau :
“….. Cùng thời gian lao xao lá ngô đồng ấy, thư Nh. Tay Ngàn gửi tới mừng vui tin tạp chí ra đời. Nhĩ tự giới thiệu sang Pháp du học ngành họa đồ kỹ nghệ, mong được gặp hai chúng tôi và hứa sẽ làm bất cứ gì nặng nhọc trong tòa soạn để đóng góp. Chúng tôi quen nhau từ đó.
Nh. Tay Ngàn, tên thật Nguyễn Văn Nhĩ, sinh năm 1943, mất đầu tháng giêng 1978 tại Paris vào năm 35 tuổi. Chiến tranh là tên tử thần theo đuổi Nhĩ từ tấm bé. Nó đưa đẩy thi mệnh Nhĩ vào ngõ cụt. Cụt nhưng không kẹt trên bước đi khai phá của người thơ.
Hồi còn thiếu niên, cha Nhĩ theo kháng chiến bị Tây bắn vỡ sọ trên đồng. Nhĩ chứng kiến. Nhĩ đưa hai bụm tay bé nhỏ hốt khối não bầy nhầy bỏ vào sọ cha.
Phải chăng bụm tay ấy, khối não ấy đã đặt để vào đầu Nhĩ thành dấu hỏi lớn không lời đáp xuyên suốt cuộc tử sinh ?
Nhĩ ít nói, ít tâm sự. Đôi mắt nai đăm đăm. Tôi cũng là người ít nói, gặp nhau chúng tôi hỏi thăm qua loa về cuộc sống rồi ngồi trầm ngâm. Nhĩ dõi theo một cõi ngoài chẳng ai vào được. Một thứ săn đuổi nội tâm và độc thoại. Trực giác tôi cảm nhận, điều ấy làm an ủi Nhĩ. Theo niềm tin cậy này Nhĩ càng trầm ngâm yên lặng như cùng tôi song thoại nơi thinh không. Lâu lâu Nhĩ hỏi một vài câu về chuyện viết lách, văn học, các tác giả...
Có thời Nhĩ theo người bạn gái người Tây Ban Nha sang sống ở Madrid cho đến khi biết mình mắc bệnh lao mới trở về Paris chữa chạy. Rồi Nhĩ quay cuồng theo bệnh tâm thần, người ta đã nhốt Nhĩ vào nhà thương điên Villejuif, vùng phụ cận Paris, với cách đốt điện trên đầu điên cuồng hơn cơn điên. Đây là thời gian địa ngục, mà dấu vết còn lưu trong văn thơ Nhĩ. Ít ai biết.
Nhĩ làm thơ, viết văn và vẽ tranh. Có một lần triển lãm cá nhân tại phòng tranh Louis Soulanges trên đường Montparnasse.
Mối tình đầu của Nhĩ là Liên trong Nỗi Liên đen tối vô cùng, mà Nhĩ trở về Saigon thăm lại năm 1973. May mắn cho Nhĩ là Liên vẫn yêu Nhĩ thiết tha, muốn sang Paris sống cùng Nhĩ. Nhưng cuộc sống không tiền bạc, không nghề nghiệp, Nhĩ đành thúc thủ. Nếu không có vài ba người bạn học cùng lứa thương yêu giúp đỡ Nhĩ, có lẽ Nhĩ đã chết sớm hơn.
Tôi ít thấy ai say sưa viết như Nhĩ. Âm thầm. Cặm cụi. Không nói. Không ba hoa. Những chuyến viễn trình, những cuộc tình vặt, những đêm đốt thuốc bên quầy bar với rượu rhum từng ngụm cay nhè... chỉ để dàn ra từng dòng chữ chân chỉ trang này sang trang khác. Có hôm tôi nhìn thấy trên 20 tập bloc, dễ cũng trên bốn nghìn trang, chữ nhỏ đều đặn. Từ chữ đầu đến chữ cuối không một lần mất kiên nhẫn, như một vũ trụ kiến kéo nhau đi thành hàng dọc. Khi thơ khi văn. Trong văn học Việt Nam có hai người không viết văn, viết thơ thành bài, mà dàn trải tới vô tận dòng thơ văn không có dấu chấm. Đó là Bùi Giáng và Nh. Tay Ngàn. Văn và ý tưởng, thơ và ý tưởng trộn nhau như chớp với đá kết ngọc. Hết õng ẻo với quá khứ, không thời trang thế cuộc, không nép mình vào ca dao hay bốc khói trên chợ trời văn học. Đọc Nhĩ phải có mắt xanh với tấm lòng rớm máu thì mới cùng Nhĩ song thoại trong "thế giới vốn nhỏ và hạt bụi muốn đau", khi nhà văn Việt Nam "thấy ngu trước nhà văn quốc tế".
Nhĩ không thích văn thơ Saigon thời ấy, Nhĩ nói : "Có thể vốn sống trong thời loạn ly của họ bị nghẹt nên sanh ra nhiều tánh ganh tị trách móc hoặc ghen ghét nhỏ nhoi, bởi đó mức văn hóa trì trệ rồi rút lì vào ảo tưởng bất nhất kia" (thư viết ngày 17.12.76). Nhĩ không ưa văn thơ tiền chiến và Tự lực Văn đoàn, vì cho rằng : "Giá trị họ ở trong tầng lớp sinh viên học sinh còn trẻ, thiếu sáng tác chứ không thể là giá trị vĩnh cữu cho chúng ta nữa, đành rằng mọi tư thế phê bình luôn toa rập với số đông. Ngay cả tôi hồi nhỏ cũng chẳng bao giờ ưa "tự lực văn đoàn", tới nay chuyện xưa rồi, nhắc lại để tự mình thấy điềm nào đó không hay ho nữa" (thư viết ngày 17.12.76).
Thoạt đầu Nhĩ thích nhóm Sáng Tạo, có lẽ vì chiều hướng đập phá cổ lệ văn chương. Nhưng không hiểu vì sao sau chuyến đi Saigon về, Nhĩ bất bình với Mai Thảo và một thiên tài khác mà Nhĩ ôm ấp trước kia.
…….Đầu tháng Giêng 1978, các bạn của Nhĩ gọi dây nói cho biết Nhĩ chết rồi. Một hôm, bà gác dan (concierge) thấy mấy ngày qua Nhĩ không ghé lấy thư. Bà lên đập cửa phòng. Không nghe hồi đáp, bà lo lắng mở cửa xem thì Nhĩ đã nằm chết trên giường nhiều ngày. Lâu quá tôi quên, nhưng có thể là ở địa chỉ 16, rue Jean Ferrandi – Paris quận 6.
Các bạn hùn nhau làm đám. Thi hài đốt ở nghĩa địa Père-Lachaise, Paris quận 20. Dự tính sau này sẽ gửi tro về Việt Nam. Dường như Nhĩ có một người anh sống ở Saigon. Nghĩa địa Père-Lachaise còn lưu giữ những mộ chí của Gerard de Nerval, Chopin, Balzac, Alfred de Musset, Proust, Apollinaire, Pissaro, Oscar Wilde...”
Thơ Nh . Tay Ngàn
MÙA THU THÀNH PHỐ
Một sớm thức giấc anh chợt nhớ ra mình đang ở trong một thành phố xa lạ
Anh chợt nhớ ra sau cơn mộng kinh hoàng em đã ngàn trùng mây nước kêu gào vô vọng nhớ thương
Đáng lẽ giờ này em đang nũng nịu trong vòng tay anh, mớ tóc đen mềm mướt, đôi mắt ngái ngủ dịu dàng và bên ngoài nắng ấm dọi qua song
Căn phòng vang tiếng em cười vui bữa ăn sáng mà anh nghe thấy cùng một lúc với giọng chim sẻ ca hát trên những mái ngói
Rồi anh đưa em qua những cửa nhà thân thuộc, một cái dốc một chiếc cầu con sông chợ nhóm, vườn thú có những lùm cây xanh tươi hoa đỏ và anh rẽ tay mặt
Trên đường về nhà qua những con đường bóng mát anh thường huýt sáo
Đâu ngờ đến ngã rẽ cuối cùng bây giờ anh ở đây với bầu trời xám thấp, các cửa kính đóng chặt – đóng chặt ngàn đời, những ống khói đen sầm
Anh lo sợ cho em trong những buổi chuông về bước nhỏ đánh thức mọi vật reo hò kỷ niệm
Anh lo sợ trong những chiều sụp tối gian phòng vắng lạnh bóng đêm lặng lẽ vây lấy em
Anh lo sợ ở cuối đêm anh trở về hình bóng chập chờn không sưởi đủ chuỗi ngày em đốt bằng ký ức
Em ơi, đâu còn ai cận kề bên em những giữa đêm mưa dưng không òa khóc
Làm thế nào có thể quên em những khi hoàng hôn sậm mặt
Trong vườn Luxembourg anh ngó anh ngồi im một mình
Những hàng cây đượm vàng lá úa
Mỗi trận gió đem rơi từng chiếc u sầu
Những pho tượng hoen rỉ kia yêu nhau ngàn năm
Cặp tình nhân trong một góc hôn dài đắm đuối
Đâu như đôi ta phải vội vã xa lìa
Để những giọt nước mắt em anh chưa kịp lau
Chưa kịp nếm đắng cay trên môi em đầu lưỡi
Làn tóc rối tung không đợi anh kịp vuốt
Để tháng ngày em xõa mộng thương đau
Em ơi em, làm cách nào em giam giữ hoài con chim giữa lòng ngực
Anh bay ra thương tích đầy hồn
Em ơi em, những nắng mưa bên kia miền nhiệt đới
Với âu lo chuông đổ gió về
Em lụn tàn đêm gối chiếc bơ vơ
Ôi mộng mị nuôi cuộc đời sao đủ
Còn tương lai kia anh mang bỏ giữa rừng
Em lạc lõng giữa hùm beo rắn rít
Với thân gầy em chỉ khóc van xin.
*
Làm thế nào có thể quên em được khi đèn đường bật lên vàng võ
Trong những nẻo quanh co phố lầu tẻ ngắt
Anh tìm một vì sao như lệ mắt em
Anh chỉ thấy một khung trời mưng mủ
Và hai tay lạnh giá đã dầy.
ẢNH TƯỢNG CUỐI THU
Khi anh mệt mỏi leo lên ngọn đồi ở miền Orsay
nghe những chuyến xe lửa hú,
anh dẫm lên lớp lá khô như giấc mộng tàn;
nhớ lại khi xưa em là đồng bằng mỗi ngày anh núi rừng ao ước,
muốn gặp nhau anh cất lời gọi vọng,
em trao tình hoa dại đọng sương;
giờ anh đã mờ xây xa vắng,
ngóng về em tiếng gào còm cõi,
chạm xác xơ mặt cỏ nám u buồn.
Khi những chiều anh đáp xe về thành phố và
qua vườn Luxembourg,
nhìn pho tượng trần truồng gục đầu ngó đất;
lá rụng dày thương nhớ trở vàng thêm.
ĐÊM XỨ LẠNH
Nàng nhỏ xuống trí nhớ những giọt lệ xanh
Mộng mị hoang vu tôi mọc dày nấm mốc
Nàng thở trong tim những ngày tháng ấm
Tôi ôm nàng tay vắng hư không
Cay đắng hiện lên như luồng gió lạnh
Tôi cuồng quay như trái bóng dưới chân.
Trong dĩ vãng móng tay nàng nhọn
Đêm trở mình tôi ve vuốt vết thương
Và mắt nàng nửa đêm tinh tú
Triền miên rơi xa xót nhớ nhung.
ĐƠN KHÚC CỦA LIỄU
Ba giờ trưa một khúc nhạc sầu
Un jour sans toi
Những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió
Điếu thuốc đốt lên hình bóng
Và chợt tắt bơ vơ
Kỷ niệm xuống đêm
Ở chót vót của tuyệt vọng
Anh im lìm ngắm hai tay không
Un jour sans toi
Người thủy thủ già từ bỏ biển khơi
Chiếc tàu đã chìm
Căn phòng nhuộm đầy bóng tối
Mền gối bắt đầu rã mục
Liễu ơi Liễu
Un jour sans toi
Tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống
Gạch ngói hoang tàn hồn anh
Cùng tiếc thương mọc lan trên đó
Un jour sans toi
Một ngày người thủy thủ già
Vô vọng chuyến ra khơi
Liễu ơi Liễu
(Văn Số 28, ngày 15/02/1965)
NH. TAY NGÀN