Trong giới văn nghệ thành phố, nhà thơ Nguyễn Phan Thịnh và họa sĩ Rừng có mối giao tình gắn bó keo sơn từ thuở tuổi trẻ dong ruổi cho đến khi vào Sài Gòn lập nghiệp vẫn không rời. Truyện ngắn Mùa xuân vĩnh cửu của Kinh Dương Vương (bút hiệu của họa sĩ Rừng) đăng ở tạp chí Văn năm 1971, ghi lại những kỷ niệm đẹp của họ : “Buổi sáng cuối thu ở cao nguyên trời lành lạnh…Người bạn vừa từ mặt trận biên giới Miên Việt về phép, ghé lại ở chơi mấy hôm nay. Chúng tôi dậy sớm, cảnh vật hãy còn chìm trong màn sương mù trắng đục…Những cánh nước phù du. Và đó thật là một hình ảnh thơ đẹp. Tôi âu yếm nhìn bạn đang mơ màng. Anh nhìn qua bên kia bờ sông, khe khẽ ngâm, mắt dịu vợi dõi theo một hình bóng nào : Dakbla nước ngược chia dòng / Lòng em biết mấy ngả hòng anh theo…(Thơ Nguyễn Phan Thịnh). Đó là tâm sự của anh, theo lời anh kể.”
Nhà thơ Nguyễn Phan Thịnh, sinh năm 1943, tại Hà Nam, có những ngày tháng phiêu bạt, gian nan trong thời chiến tranh và cuộc sống ẩn nhẩn của nhà giáo Anh văn lúc đất nước thống nhất. Năm 26 tuổi nhà thơ cho trình làng tập thơ Hư ngôn, in typo ở Huế năm1969, lần lượt ra mắt Mơ một sớm mai hồng, in ronéo ở Phan Rang tháng 1/1975, Tình ca mưa NXB Thanh Niên năm 2002. Ngoài công việc dạy Anh Văn ở Đại học Mở, các Trung tâm Sinh ngữ ở Thành phố để kiếm sống, anh còn miệt mài dịch thơ, truyện, tiểu luận … đăng các báo, tạp chí như Thế Giới Mới, Kiến thức Ngày nay, Tri Thức,Văn Nghệ Tp. HCM…Khi viết báo anh thường dùng các bút hiệu khác là Thăng Trầm, Nguyễn Phan, Sơn Ca, Quyên Quyên.
Anh viết sớm nhưng đăng rải rác trên các báo, thất lạc lung tung, nhớ năm 2001, anh được thân hữu động viên ra mắt tác phẩm mới, bèn tìm đến tôi nhờ đưa đến NXB Thanh Niên xin giấy phép tập Tình ca mưa. Dáng cao gầy gò khắc khổ, ăn nói nhỏ nhẹ mực thước, anh chậm rải bảo : “Mỗi bạn góp một ít tiền đưa cho, nay phải cố tập hợp lại in một tập, Dũng cố gắng giúp mình…”. Thật ra là bạn vong niên văn nghệ, anh lớn hơn tôi hẳn một con giáp, nên tôi chỉ loáng thoáng biết qua cuộc sống gia đình, những ngày anh lang bạt, hẩm hiu khốn khó của anh ở miền Trung trong năm tháng chiến tranh. Nhiều lần có dịp gặp nhau trong buổi tiệc, góc quán cà phê vắng bàn chuyện văn chương, anh lặng lẽ ngồi nghe, uống chậm từng ngụm rượu, có cái cười vô ưu đến nao lòng. Gánh vác một gia đình có đến “ngũ long công chúa”, anh miệt mài dạy học, cày cả ngày lẫn đêm để mong tạo dựng một mái ấm đàng hoàng cho các con. Đến lúc cuộc sống tạm ổn, mấy đứa con lớn lập gia đình ra riêng, có công việc đàng hoàng, anh Nguyễn Phan Thịnh hớn hở báo tin vui, bảo rằng năm tới xin nghỉ dạy dồn sức vào việc viết lách, dịch thuật, hưởng chút nhàn nhã cuộc đời, hương vị văn chương ! Nào ngờ giai đoạn này anh lại vướng vào bệnh ung thư gan, loét bao tử nặng nằm bẹp dí ở bệnh viện Trưng Vương nửa tháng rồi chuyển sang bệnh viện Chợ Rẩy. Thời gian nầy tôi thường nhờ anh dịch thơ truyện, thơ của Dana, R.Frost…đăng báo Văn Nghệ Tp. HCM nên liên lạc trao đổi thường xuyên, cách 5 ngày trước khi anh mất, anh nhắn tin qua điện thoại : “Đau quá, nó hành suốt ngày. Xin lỗi không gửi tiếp bài cho bạn được”. Vội vã tôi nhắn lại : “Cố gắng sống, yêu đời đi. Còn nhiều việc phải làm lắm…”. Không ngờ sáng chủ nhật ngày 27.05 anh Ngô Nguyên Nghiễm gọi điện thoại báo tin : “Anh Nguyễn Phan Thịnh mất lúc 7 giờ 15’ ngày 27/05/2007. Lễ động quan an táng tại Bình Hưng Hòa lúc 7giờ 30’ ngày 30/05/2007, Dũng nhớ báo tin cho các anh chị em khác đến viếng, chia buồn cùng gia đình”.
Lận đận kiếm sống, chăm lo gia đình, anh Nguyễn Phan Thịnh không bao giờ nguôi ngoai trăn trở với văn chương. Hết sức ủng hộ họa sĩ Rừng “tái xuất giang hồ” sau bao năm cầm cọ với triển lãm “Bình Minh Mới”, gây tiếng vang khá tốt trong giới mỹ thuật Tp., lo kiếm phụ bản tranh cho tập thơ Tổ Ấm của Ngô Nguyên Nghiễm…Các tuổi tiệc thân hữu khi có các anh Lâm Chương, Phạm Nhã Dự ở Mỹ về thăm quê nhà, anh luôn có mặt vui vẻ đọc thơ, bàn luận sôi nổi, làm một chiếc cầu nối tình nghĩa giữa các thế hệ làm văn nghệ.
Lúc đến thắp nhang viếng anh lần cuối, chị Thịnh có đưa cho tôi xem bài thơ Tuyết Xưa, do một thân hữu lục đăng lại trên tờ Phố Văn, bảo rằng trước đây anh từng đi tu nghiệp ở Oklahoma, có làm bài thơ tình này :
Xưa lắm rồi, bên cầu gỗ ở Indian Park
Chúng ta rình xem đàn vịt trời
Bỡ ngỡ quang quác dưới mưa tuyết
Và trên lưng ngựa cười lãnh lót không thôi
….
Quê tôi nắng gắt và quê em tuyết rơi
Nhưng đã có lần em hát với tôi, xưa lắm rồi
(Tuyết Xưa)
Bây giờ nhà thơ Nguyễn Phan Thịnh đi xa, độc hành lặng lẽ, bỏ cả xứ sở nắng ấm chứa chan miền Nam, lẫn những cánh rừng phong lá đỏ xa xôi với những kỷ niệm tình yêu trong sáng, bao nhiêu dự tính dở dang trong đời. Đâu đó câu thơ anh nhắc nhớ : “Em mong sinh con ra đời / Như bài thơ anh ao ước viết xong /Sau những ngày đêm chúng mình cưu mang trăn trở / Có ngọn đèn của Prô-mê-tê soi cho chúng ta sống làm người” (Ngọn lửa Prô-mê-tê, 1982). Anh Nguyễn Phan Thịnh ở cõi vĩnh hằng nào khác, chắc hẳn anh vẫn làm thơ ? Tôi vẫn tin như thế !.