Tháng 5, 2007 vừa qua tôi được đọc bài “Màu tím hoa sim bản nào là đúng nhất ?” của nhà thơ Nguyễn Minh Hùng trên mạng vanchuongviet (mạng văn nghệ đồng bằng sông Cửu Long trước đây). Bài viết rất súc tích làm tôi chú ý đọc vì ba lý do chính. Một là bài nói về bài thơ “màu tím hoa sim” mà hầu như người Việt nào, ai cũng rung động và cảm xúc về cái bi kịch đau đớn của nhà thơ diễn tả tâm trạng của mình, một người lính chinh chiến trong kháng chiến chống Pháp, về một người vợ trẻ chết đuối ở một bờ sông gần nhà ở hậu phương trong thời chiến. Được xem là bài thơ tình hay nhất thế kỷ 20 mà cuối năm 2004 được công ty Vitek mua bản quyền với giá kỷ lục ở Việt Nam. Lý do thứ hai là tôi có đọc trước đây, bài của ông Trịnh Hưng đăng trên báo Khởi Hành, 167 số tháng 9, 1997 do một người bạn gởi cho tôi về bài thơ Màu tím hoa sim mà nhà thơ Hữu Loan chép tặng cho tác giả (Trịnh Hưng) khi tác giả đến thăm ông ở Thanh Hóa và sau cùng là tôi cũng có được một dịp rất may mắn là gặp được nhà thơ Hữu Loan vào đầu năm 1988 ở Saigon khi nhà thơ có dịp ghé nơi này (đây là dịp hiếm có, vì nhà thơ Hữu Loan hầu như không đi đâu xa ngoài chốn quê hương của ông ở Thanh Hóa trong những năm 80). Vì thế tôi đã đọc kỹ để xem có sự khác biệt ra sao của bản mà nhà thơ Hữu Loan đã viết lại trong bản quyền mà công ty Vitek đã mua (và anh Nguyễn Minh Hùng có đăng lại) với các bản trước kia mà nhà thơ Hữu Loan đã viết lại tặng cho nhiều người mỗi khi nhà thơ, trong những lần gặp gỡ, gặp ai quý mến tài và hiểu biết sự gian nan của ông trong đời.
Qua những bài so sánh thì tôi thấy các bản ông viết từ trước đến nay không khác gì nhiều, chỉ một vài chữ thêm bớt hay hơi khác (như “lớn lên” thay vì “nhớn lên”, “ví” thay vì “hát”). Với một bài mà ông đã có tình cảm và cuộc đời khắc sâu vào ký ức ông thì tôi tin là khó mà ông quên những lời thơ mà ông đã trút ra trong lúc đầu một trạng thái đau đớn yêu thương đầy tiếc nhớ, và sau này luôn luôn nằm trong lòng ông. Họa chăng không loại bỏ trường hợp là chúng ta đã viết chép sai và thay đổi để hợp với thể thơ, thể nhạc mình yêu thích. Và vì thế dẫn đi đến nhiều dị bản khác nhau, cũng như đã có nhiều nhạc sĩ phổ bài của ông một cách khác nhau mà thôi. So sánh với bản mà công ty Vitek đã mua và công bố trênmạng(http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=59258&ChannelID=10) thì trong bài đăng của anh Nguyễn Minh Hùng trên mạng vanchuong viet, có thiếu một dòng trong đoạn (dòng thiếu ghi trong ngoặc)
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
(Những đồi hoa sim)
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nhạc sĩ và nhà văn, thơ Vũ Đức Sao Biển, đầu năm 1997, đã có viết một bài tựa đề “Một đoạn biên tập trong “Màu tím hoa sim”, nói về một bản chép tay của nhà thơ Hữu Loan tặng cho một “nữ chiến sĩ cách mạng tháng” vào tháng 12, 1989 tại Đà Nẵng. Bài “Màu tím hoa sim” mà Vũ Đức Sao Biển ghi ra trong bài viết của ông giống như các bài mà Trịnh Hưng viết và bài tôi có, trừ 4 dòng cuối thì thiếu, không có.
Đầu năm 1988, lúc tôi về Saigon, trong dịp gặp giáo sư Lê Văn Hảo, qua một người bạn ở Úc, ông có cho tôi biết nhà thơ Hữu Loan đang có mặt ở Saigon ở nhà một người bạn và rủ tôi tới thăm. Trong thời gian ấy tôi còn phụ trách tờ báo Đất Nước của Hội người Việt Nam ở Úc. Hôm ấy chúng tôi gặp nhà thơ Hữu Loan cùng một số anh chị em nghệ sĩ đã có mặt trước đó. Tôi nhớ lúc ấy họa sĩ Đỗ Quang Em đang phát họa bằng bút chì chân dung của nhà thơ Hữu Loan. Gặp tác giả của những bài thơ nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Pháp như “Đèo Cả”, “Yên Mô “, Hoa Lúa” và dĩ nhiên bài “Màu tím hoa sim” là một vinh dự, mang đến tôi nhiều xúc động lẫn cảm phục về tài năng và cuộc đời đầy gian truân của nhà thơ mà tôi đã đọc và biết qua nhiều sách, báo. Hôm đó Hữu Loan đã viết trên mấy tờ giấy vẽ của hoạ sĩ Đỗ Quang Em bài thơ “Màu tím hoa sim” đề tặng kiều bào Úc và đưa cho tôi. Toàn bài thơ ấy và lời ghi chép của ông đã được đăng trong số báo Đất Nước tháng 4, 1988.
Ngoài vấn đề trên thì tôi đọc bài của anh Nguyễn Minh Hùng và thấy rất là tâm đắc về những phân tách tình cảnh và sự cảm nhận của người đọc với bài thơ. Trước năm 1975, trong thời kỳ đất nước còn chia đôi, ở miền Nam bài “Màu tím hoa sim” được đưa vào chương trình học bậc trung học lớp đệ nhị (lớp 11) trong chương về thơ lãng mạng, như Vũ Đức Sao Biển đã đề cập. Tôi cũng như nhiều thanh niên trong thời đấy đều có biết và tiếp cận với bài thơ này cũng như hoàn cảnh của nhà thơ Hữu Loan trong vấn đề Nhân Văn Giai Phẩm.
Màu tím hoa sim là một bài thơ đầy nhân bản. Toàn bài toát ra sự đau xót trong bi cảnh trớ trêu của cuộc đời mà nhà thơ phải gánh chịu, nhưng không oán hận. Chấp nhận trong âm thầm và để tất cả vào lời thơ. Người đọc đã cảm nhận được tất cả nổi đau buồn của nhà thơ, và thương xót thay cho số phận một người con gái, người vợ trẻ ngây thơ, hiền lành giản dị trong trắng nhưng rủi ro trong số mệnh khắc nghiệt như chính người thân mình đã mất đi vậy. Trong ngày vui nhất của cuộc đời người con gái, người con gái ấy không những không mặc áo cưới mà cũng không đòi may áo mới vì hoàn cảnh chung của thời chiến, mặc dầu cô thuộc gia đình địa chủ khá giả. Cái bình hoa ngày cưới, sau đó được đặt ngay cạnh mộ người vợ trẻ, mà Hữu Loan thấy khi ghé lại làng quê sau khi ông nghe tin vơ mới cưới mất lúc ở chiến khu, chiếc bình hoa ấy ngày nay vẫn còn ở trên bàn thờ nhà ông. Trong giây phút cuối cùng không được nghe nhau nói, kh ô ng được trông nhau một lần thì ông phải thương xót và đau khổ biết bao lúc ông về đứng trước mộ vợ và trông thấy bà mẹ vợ ngồi bên mộ đầy bóng tối khóc con mất còn quá trẻ.
Trong ba người anh của vợ ông, thì người anh cả, Lê Đỗ Khôi, mất trong trận đánh ác liệt gần đồi Him Lam ở chiến trường Điện Biên Phủ. Người anh trai thứ hai, Lê Đỗ Nguyên, cũng tham gia trong trận đánh Điện Biên Phủ và sau này chính là trung tướng Phạm Hồng Cư, Quân đội Nhân dân Việt Nam và người anh thứ ba Lê Đỗ An có tham gia kháng chiến và cách mạng nhưng không phải bộ đội tham dự trận đánh Điện Biên. Trên chiến trường Điện Biên, hai anh em ông Khôi và ông Nguyên nhận được tin em gái mình mất qua một người bạn của ông Nguyên trước khi hai anh em biết được tin em gái lấy chồng. Hai ông nén buồn tiếp tục tham gia chiến dịch và hẹn sẽ gặp nhau lại lúc chiến thắng và hoà bình. Nhưng ông Khôi không trở lại mà sau này ông Nguyên tìm kiếm mãi mới biết anh mình đã hy sinh.
Trước khi lấy cô Lê Đỗ thị Ninh, Hữu Loan có dạy kèm cô Ninh và được gia đình ông bà Lê Hữu Kỳ yêu mến như con ruột và coi như là con nuôi trong nhà. Vì thế ban đầu ông có tình cảm như em gái với cô Ninh, như trong bài thơ.
Bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan, làm cách đây gần 60 năm, đúng là bài thơ tình hay nhất Việt Nam trong thế kỷ 20 và cũng đã trở thành bài thơ bất hủ trong văn học Việt Nam mãi sau này.
Phụ lục
Bài màu tím hoa sim Hữu Loan chép tặng ông Trịnh Hưng (1997)
Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan
(khóc Lê Ðỗ Thị Ninh)
nàng có ba người anh đi bộ đội
những người em nàng
có em chưa biết nói
khi tóc nàng xanh xanh
tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi
may áo mới
tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong
là đi
từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại
nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết
người gái nhỏ hậu phương
tôi về
không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh
vây quanh
tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
em ơi
giây phút cuối
không được
nghe nhau nói
không được trông
thấy nhau
một lần
ngày xưa
nàng yêu hoa sim tím
áo nàng
màu tím hoa sim
ngày xưa
đèn khuya bóng nhỏ
nàng vá cho chồng
tấm áo
ngày xưa
Một chiều rừng mưa
ba người anh
từ chiến trường Ðông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em
lấy chồng
gío sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
khi gío sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài
trong chiều
không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang
biền biệt
có ai ví như từ chiều ca dao nào
xưa xa
"áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu..."
ai hát vô tình
hay ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
" áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh mất sớm..."
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm
ráng vàng ma
và sừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm chiều hoang
màu tím
tôi ví vọng về đâu ?
tôi với vọng về đâu ?
áo anh nát chỉ dù lâu
Bài màu tím hoa sim mà Hữu Loan chép tặng kiều báo Úc và tác giả (2/1988)
Màu tím hoa sim
(Khóc vợ Lê đỗ-thị-Ninh)
Nàng có 3 người anh
đi bô đội
những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng
xanh
xanh
*
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giầy đinh bết
bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh ch ồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
*
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ng ại
lấy chồng đời chiến chinh
mấy người đi trở lại
nhở khi mình không về
thì thương người
vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
*
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết người
gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
*
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi ! giây phút cuối
không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
*
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya
bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa ... !
*
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ nhớn lên
ngỡ ngàng
nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng
chân mộ chí
*
Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
dài
trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang biền biệt
*
Có ai hát như từ chiều
ca dao nào
xưa xa
“Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu”
*
Ai hát vô tình hay
ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà,
vợ anh mất sớm..
*
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm...
*
Ráng vàng ma và
rừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím
*
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu ...
Hữu Loan
1949
Bài Màu tím hoa sim Vũ Đức Sao Biển chép từ bản Hữu Loan tặng “cô Phương” năm 1989 ở Đà Nẵng
Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh.
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường Đông-Bắc
Biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi sim đài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa:
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu...)
Ai hát vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
Áo anh sút chỉ đuờng tà
Vợ anh mất sớm...
Màu tím hoa sim tím tình tang lệ rớm
Tím tình ai lệ ứa...
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh
Vào thăm thẳm chiều hoang màu tím...
Đà- Nẵng 12/89
Chép tặng cô Phuơng một tâm hồn, một vấn đề làm mất
ngủ những luơng tri.