Thế nào là thơ hay ? tại sao thơ Việt Nam hiện nay có rất ít bài thơ hay ? Vấn đề này luôn ám ảnh tôi . Nhân đọc bài “ Thơ Hay Sao Không Ở Chữ Nghiã “ cuả Nguyễn Đình San ( Văn Nghệ số 23 , ngày 9/6/07 ) tôi thấy có nhiều điều thú vị và muốn được chia xẻ những cảm nghĩ của mình
Ông Nguyễn Đình San chê tất cả các ý kiến tranh cãi là “ rắc rối và sặc mùi lý luận “ , rồi đưa ra ý kiến cuả mình : “ Nhưng tôi lại cho rằng chẳng có gì đáng phải bàn cãi xung quanh vấn đề thế nào là thơ hay , bởi một bài thơ hay đơn giản chỉ là : đọc xong người ta thấy thú vị và nhớ “.Ông chỉ ra yếu tố quyết định thơ hay : ” Cho nên theo tôi rốt cuộc vẫn chỉ là chữ nghiã .” Ông khẳng định : ‘ Những người làm thơ giỏi , tạo nên cái hay chính là biết dùng nó đúng văn cảnh , phù hợp nhất mà không thể thay bằng từ khác “ .Ông kết luận : “ Khuynh hướng cuả nhiều bạn trẻ làm thơ hiện nay..nhiều khi khiến người đọc chẳng hiểu họ muốn nói gì ; thậm chí nếu có hỏi họ muốn diễn tả ý gì thì chính họ cũng lúng túng , không sao khiến người hỏi có thể hiểu .Nhưng đâu phải họ thiếu tình ; chẳng qua không biết dùng từ ngữ , chữ nghiã đúng chỗ , hợp ‘ văn cảnh ‘ mà thôi “. Nói gọn một câu , theo ông Nguyễn Đình San , chỉ cần dùng từ ngữ chữ nghiã cho đúng chỗ , hợp’văn cảnh’ là có thơ hay.
Tôi không tin vấn đề lại đơn giản như thế . Đúng là người viết văn làm thơ là những người phải đánh vật với con chữ, nhiều khi bất lực trước trang giấy trắng , ngòi bút nặng nề đến nỗi không sao cất lên thành lời . Nhưng cho rằng người làm thơ muốn có thơ hay chỉ cần “biết dùng từ ngữ , chữ nghiã đúng chỗ , hợp ‘ văn cảnh ‘ , thì hoá ra bảo rằng nhà thơ Việt Nam hiện nay không biết dùng từ ? . “ Biết dùng từ ngữ , chữ nghiã đúng chỗ , hợp ‘ văn cảnh ‘ là yêu cầu rèn luyện ngôn ngữ trong những bài tập dùng từ cuả học sinh Tiểu học .Đó mới chỉ là yêu cầu thấp nhất cuả việc học ngôn ngữ . Chẳng lẽ làm thơ chỉ cầu yêu cầu như thế ? Hơn nưã , khi thấy ông Nguyễn Đình San chê lý luận , tôi nghĩ chắc ông sẽ khám phá nhiều điều từ thực tiễn thơ Việt Nam , vì “ thực tiễn cao hơn lý luận “ . Nhưng cả bài viết , ông chỉ nhắc đến tên bài bài thơ Học Trò Trường Huyện cuả Nguyễn Bính , trích một câu cuả Nguyễn Đình Thi , một câu cuả Xuân Diệu và một vài câu thơ lẻ không ghi tên tác giả ( ông gọi là “ một nhà thơ nọ “ , một thi sĩ nọ ‘ ) , rồi từ đó ông khái quát lên nhận định có tính chân lý cuả mình , quả thực , cách “ lập thuyết “ như thế không thể thuyết phục được người đọc , vì nó không dưạ trên sự phân tích khoa học những nguồn dữ liệu có đủ độ tin cậy .
Xin đi sâu vào vài vấn đề.
1.Trước hết , thế nào là thơ hay ?
Ông Nguyễn Đình San có một đoạn “ lý luận “ rất hay ( ! ) : “Thơ hay như một cô gái hấp dẫn . Tiếp xúc qua chỉ một lần cũng khiến trái tim ta rung động. “ phải lòng “ rồi ta cứ vấn vương mãi hình ảnh ấy và luôn luôn ước muốn có được cô trong cuộc sống cuả mình. Không đạt được thì tơ tưởng , có khi phát ốm. Thơ hay cũng phải giống như vậy …Bài thơ ấy, cô gái ấy phải vưà quen vưà lạ .Quen dễ khiến ta có lòng tin, còn lạ lại hấp dẫn , lôi cuốn ta vì nó thoả mãn tính hiếu kỳ cố hữu cuả con người “.
Tôi phỏng đoán rằng chắc ông tâm đắc với đoạn “ lý luận “ này lắm, vì tôi hình dung ra tất cả sự sung sướng rạng rỡ trên khuôn mặt ông , tràn ra thành cái say sưa trên câu chữ.
Ai cũng biết mọi so sánh đều khập khiễng .So sánh cô gái hấp dẫn với thơ hay càng khập khiễng, vì sự hấp dẫn cuả cô gái với phái mày râu , trước hết là sự hấp dẫn có căn nguyên dục tình . Chẳng lẽ thơ hay cũng quyến rũ người đọc như thế ? Không lấy được cô gái hấp dẫn ta có thể tương tư, nhưng trên đời này , tôi chưa thấy ai không đọc được bài thơ hay, lại cứ tơ tưởng, có khi phát ốm !
Có thể nhận thấy cách đọc thơ cuả ông là cách đọc cảm tính , nhận thức bằng cảm giác , tiếp cận tác phẩm bằng trạng thái mơ hồ cuả “ trái tim ta rung động … “ phải lòng “ rồi ta cứ vấn vương “ . Cảm giác rằng hay thì đó là bài thơ hay , cảm giác rằng dở thì đó là thơ dở , sự đánh giá hay , dở không cần theo tiêu chí khoa học cuả cuả bất cứ “ lý luận “ gì . Ông nhấn mạnh : “ ..một bài thơ hay đơn giản chỉ là đọc xong người ta thấy thú vị và nhớ ..Đọc xong bài thơ , người ta trỗi dậy được một cảm giác nào đó..Bài thơ ấy , cô gái ấy phải vưà quen , vưà lạ . Quen với cái nghiã vưà tiếp cận ta đã cảm thấy có sự gắn bó . Còn lạ thì cũng dễ hiểu : đó là sự độc đáo , có nét riêng , không lẫn lộn với ai , không giống mọi cái khác phổ biền, tầm thường . Quen dể khiến ta có lòng tin , nhanh nảy sinh tình cảm thân thương , còn lạ lại hấp dẫn , lôi cuốn ta vì nó thoả mãn tính hiếu kỳ cố hữu cuả con người”
Người ta đã làm thí nghiệm này : Một tay nhúng vào chậu nước thật nóng , tay kia nhúng vào chậu nuớc thật lạnh , rồi nhúng cả hai tay vào chậu nước vưà , để xem cảm giác ra sao . kết quả là , tay nhúng vaò chậu nuớc nóng thì cảm thấy mát và tay nhúng vào chậu nước lạnh thì cảm thấy ấm. Cùng trên một thân thể , cùng nhúng vào một chậu nước , mà hai tay có hai cảm giác khác nhau .
Rõ ràng nhận thức bằng cảm giác , cảm tính không cho ta tiếp cận chân lý. Trong thực tế đời sống , tiếp cận bằng cảm giác , cảm tính luôn mang đến ngộ nhận . Cũng cần phân biệt cách tiếp cận bằng cảm giác với cách tiếp cận bằng trực giác. Nếu chỉ bằng cảm giác , cảm tính ta không thể nào xem được tranh lập thể cuả Picasso , càng không thể thưởng thức đựơc những tác phẩm Siêu thực , hoặc những bài thơ hiện đại ( xin đọc bài Elsa Ngồi Trước Gương cuả L. Aragon hoặc bài Những Cưả Chớp cũng cuả L.Aragon – Tạp chí Thơ số 7,8, tháng1&2/ 2004 sau đây : )
“ cưả chớp cưả chớp cưả chớp
cưả chớp cưả chớp cưả chớp
cưả chớp cưả chớp cưả chớpcưả chớp
cưả chớp cưả chớp cưả chớpcưả chớp
cưả chớp cưả chớp cưả chớp
cưả chớp “
Cũng vậy ,bằng cảm giác , ta không thể thưởng thức được những tác phẩm nhạc Giao Hưởng . Đó là loại nghệ thuật cuả trí tuệ . Người nghe phải có tri thức về nhạc , về hoà âm , phối khi , về cấu trúc tác phẩm , về các trường phái âm nhạc và phải hiểu biết cả tư tưởng cuả tác giả nưã ... Không có tri thức Thiền , không hiểu mỹ học Thiền , không có Trí huệ Bát Nhã , thì người đọc sẽ hoàn toàn mù trước một bài thơ Thiền , cảm giác không giúp ích gì .
Tính “ vưà quen vưà lạ “ cũng không là đặc điểm cuả thơ , mà là đặc điểm cuả nhân vật điển hình trong những truyện viết bằng bút pháp hiện thực. Thơ nói bằng phương thức trữ tình , không phải phương thức tự sự như truyện , vì thế phép điển hình hoá không phải là nguyên tắc làm thơ. Thơ là tiếng lòng , là sự vận động cuả tâm trạng cá nhân , là mạch chảy không ngừng cuả suy tưởng hiện sinh . Nhà thơ không bao giờ áp đặt tâm trạng , mạch suy tưởng , trạng thái hiện sinh cuả cá nhân vào những khuôn mẫu cuả điển hình hoá , để cho ra đời những bài thơ hay “vưà quen vưà lạ “ , để đánh vào tâm lý hiếu kỳ cuả người đọc .Người đọc tìm đến thơ vì cái hay cuả thơ , để được hưởng thụ cái đẹp cuả tâm hồn , cuả tình cảm , cuả trí tuệ, thông qua cái đẹp cuả ngôn từ. Cái đẹp là bản chất cuả nghệ thuật , cũng là cuả thơ ca. Nghệ thuật là sự sáng tạo ra cái đẹp. Những người đọc thơ vì “ hiếu kỳ “ hoặc để “ thoả mãn tính hiếu kỳ “ thì không bao giờ là tri kỷ cuả nhà thơ được.
Nói đến tính “ vưà lạ vưà quen” như là một tiêu chí cuả thơ hay , phải chăng Ông Nguyễn Đình San vận dụng quan điểm cuả các nhà Hình Thức Chủ Nghiã Nga đầu thế kỷ XX ? Theo Shklovski , trong đời sống hàng ngày , ngôn ngữ đã được dùng đi dùng lại quá nhiều lần , đến nỗi nó trở nên quen thuộc , sờn mòn hết ý nghiả , nó trở nên trơ, không còn gây được hiệu quả gì với người nghe , vì thế cần phải lạ hóa thứ ngôn ngữ quen thuộc bằng từ mới, cách dùng từ độc đáo, hình ảnh lạ...Đúng là viết văn làm thơ , trước hết là sự sáng tạo ngôn ngữ . Hoàng Cầm , Quang Dũng , Trần Dần , Thanh Tâm Tuyền , Bùi Giáng làm mới thơ sau 1945 trước hết bằng sự sáng tạo ngôn ngữ .Trước 1945 Xuân Diệu độc đáo trước hết ở khả năng “ lạ hoá “ ngôn ngữ , mà ngày nay đọc lại ta vẫn còn thấy mới . Xin đọc :
“ Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền …
( Thơ Duyên – Xuân Diệu )
Những từ “ hoà thơ , cây me ríu rít , nhánh duyên , đổ trời xanh ngọc “ được dùng theo kỹ thuật “lạ hoá “ ngôn ngữ , tạo ra trường nghiã khác với ngôn ngữ đương đại , đem đến cho người đọc sự thú vị trong việc khám phá ngôn từ.
Nhưng lạ hoá ngôn ngữ như trong bài Buồn Xưa cuả Nguyễn Xuân Sanh lại là cách làm cho người đọc tuyệt không thể hiểu bài thơ nói gì . Nguyễn Xuân Sanh tạo sự “ lạ hoá “ bằng cách đem những từ ngữ trong các trường nghiã khác nhau đặt bên nhau , xé nát cấu trúc hình tượng , rồi lắp ghép vào những chiều không gian khác nhau , để phá vỡ cách nhận thức bằng tư duy logic cuả người đọc , khiến bài thơ trở thành một rừng chữ nghiã , không sao thâm nhập được.Chữ nghiã sờ sờ trước mắt ta, nhưng lại “ nằm ngoài tầm kiểm soát “cuả trí não ta , nằm ngoài cấu trúc và cách mã hoá cuả ngôn ngữ đời thường .Xin thử đọc :
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngắt chở dấu xiêm y
Rưọu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Đẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy điã muà đi nhịp hải hà
Nhài đàn gót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ dựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi muà xưa ngực giưã thu
Duyên vàng do lộng trái du ngươi
Ngọc quế buồn nào gợi tóc xưa
Hồn xa chĩu sách nhánh say sưa
Hiến dâng
Hiến dâng quả bông hường
Hoàng tử nghiêng buồn vây tóc mưa
Đường tàn xây trái buổi du dương
Thời gian ơi tưới hận chìm tường
Nguồn buồn lạnh lẽo thoát cung hơi
Ngọt ngào nhờ chảy tự trăm phương
( Buồn Xưa -Nguyễn Xuân Sanh )
Có lẽ bài thơ này là bài thơ hay theo đúng tiêu chí cuả ông Nguyễn Đình San vì nó lạ : “ đó là sự độc đáo , có nét riêng , không lẫn lộn với ai , không giống mọi cái khác phổ biến , tầm thường “.Để đọc bài thơ này , không thể dung cảm giác mà đánh giá bài thơ hay dở. Tôi nghĩ rằng ngay cả những tác giả trẻ đang học đòi kỹ thuật thơ Hậu Hiện Đại cũng không hiểu và làm nổi một bài thơ “ hay “như thế .
2.Thơ hay ở cái tình cái tâm hay ở chữ nghiã ?
Ông Nguyễn Đình San bác bỏ quan điểm cho rằng ” thơ hay cốt ở cái tình , cái tâm “ , ông khẳng định “ …theo tôi rốt cuộc vẫn là chữ nghiã. Chỉ có điều cái chữ nghiã ấy có hiệu quả thông tin ra sao mà thôi ..”
Ai cũng biết điều này : cái đẹp cuả một người hay cuả một tác phẩm là cái đẹp có sự sống . Khi tách khỏi cơ thể , từng bộ phận sẽ mất đi sự sống , cái đẹp cũng chết theo . Người ta kể chuyện , nhờ Kinh Kha sang Tần để giết Tần Thuỷ Hoàng (221-206 trCn ), thái tử Yên Đan đã hết sức trọng đãi Kinh Kha . Một lần , cung nữ dâng rượu cho Kinh kha có bàn tay rất đẹp , Kinh Kha khen bàn tay ấy . Thấy vậy ,thái tử Yên Đan cho chặt bàn tay người cung nữ tặng cho Kinh Kha . Than ôi ! còn đâu bàn tay đẹp.
Cũng vậy , cái hay cái đẹp nghệ thuật cũng tồn tại trong tổng thể tác phẩm, trong mọi yếu tố cuả tác phẩm văn chương , từ ngôn ngữ , đến cấu trúc , nhân vật , bút pháp , phong cách , nội dung , tư tưởng … Thơ hay không chỉ ở “ hiệu quả thông tin “ cuả chữ nghiã. Ngôn ngữ thông tin không phải là ngôn ngữ cuả tác phẩm văn chương , đó là ngôn ngữ báo chí . Ngôn ngữ thông tin có tính đơn nghiã , tính chính xác , tính thời sự , tính phổ cập ... Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật .Ngôn ngữ văn chương có tính biểu cảm , tính đa nghiã , tính hình tượng , tính phong cách , tính thẩm mỹ và cả tính hàm hồ . ..
Xin nêu thí dụ về tính hàm hồ cuả ngôn ngữ văn chương: Câu thơ “ Sông dài trời rộng bến cô liêu “ ( Tràng Giang –Huy Cận ) đã được một học sinh thi Đại Học giảng nghiã như sau : “ bến cô liêu “ là bến sông , nơi ấy có cô gái tên Liêu tự tử chết , vì thế người ta đặt tên bến sông ấy là “ bến cô liêu “ . Một thí dụ khác : Câu thơ Kiều nói về Từ Hải “ Râu hùm hàm én mày ngài / vai năm tấc rộng thân mười thước cao “ có giáo viên giảng rằng : Từ Hải có râu Hùm , tua tuả như râu mèo .Từ Hải cao lênh khênh vì bề ngang vai chỉ có 5 tấc mà lại cao mười thước . Câu thơ nói về Mã Giám Sinh “ mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao “ cũng một thời gây tranh cãi trên báo … Lấy chuẩn mực nào để bảo rằng những cách giãi thích ấy là sai ? Các nhà Hậu Cấu Trúc Luận (Post-Structuralism) như Michel Foucault, Jacques Lacan, Roland Barthes, Jacques Derrida , cho rằng , văn bản là một cái gì luôn luôn dở dang, luôn luôn được hình thành, tồn tại trong quá trình ‘sản xuất’ liên tục và vì thế tiến trình tìm giải nghĩa văn bản là một tiến trình bất định và hầu như vô giới hạn…
Nếu coi hiệu quả thông tin cuả ngôn ngữ là tiêu chí xét thơ hay , dở thì bài thơ con cóc ( thơ dân gian ) sẽ là bài tuyệt hay , vì đó là ngôn ngữ thông tin chính xác , thoả mãn tính hiều kỳ cuả người đọc chưa biết con cóc là con gì , sinh hoạt ra sao!
Con cóc trong hang
con cóc nhảy ra
con cóc nhảy ra
con cóc ngồi đó
con cóc ngồi đó
con cóc nhảy đi
Và như thế bài thơ Con Cóc cuả vua Lê Thánh Tôn sẽ là thơ dở , vì ngôn ngữ không tạo ra hiệu quả thông tin
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn hang thăm thẳm một mình ngồi
Chép miệng dăm ba con kiến gió
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời
Rõ ràng Lê Thánh Tôn đã tạo ra một thế giới nghệ thuật , thế giới cuả cái đẹp , trong đó tâm hồn , tư tưởng , khí phách như mở rộng ra mãi trong không gian , thời gian . Ngôn ngữ biến hoá một cách tài năng , tạo ra nguồn năng luợng vô tận cho những cảm xúc thẩm mỹ nơi người đọc …
Câu thơ sau đây cuả Bùi Giáng , không biết có đem đến cho người đọc thông tin gì không , nhưng khi đọc lên dường như trí não ta không thể gỡ ra được .
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Câu thơ tuyệt nhiên chẳng có chữ nghiã nào xa lạ , nếu không nói đó là ngôn ngữ đời thường , ngôn ngữ được cố ý làm cho trở nên “ tầm thường “ . Nhưng cái hay cuả những câu thơ Bùi Giáng không ở chữ nghiã mà ở sự tài hoa cuả tác giả .
Cũng vậy , cái hay cuả thơ Nguyễn Bính , Hoàng Cầm , Quang Dũng trước hết là ở sự tài hoa cuả hồn thơ , không chỉ ở chữ nghiã . Ở góc nhìn này , những bài thơ lục bát cuả Đồng Đức Bốn không sao sánh được với thơ lục bát cuả Nguyễn Bính , cuả Phạm Thiên Thư ( xin đọc Cô Hàng Xóm –cuả Nguyễn Bính; Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cuả Phạm Thiên Thư và Chờ Đợi Tháng Ba cuả Đồng Đức Bốn )…Các nhà thơ trẻ hiện nay không ai có được sự tài hoa thần linh cuả Hoàng Cầm ( Về Kinh Bắc ) , tài hoa trác tuyệt cuả Phạm Thiên Thư hay tài hoa diệu kỳ cuả “ người điên “ Bùi Giáng . Một tác giả trẻ được công nghệ lăng xê tôn vinh là thiên tài vượt cả Nguyễn Du là Nguyễn Thế Hoàng Linh , nếu so với thế hệ đàn anh cũng chỉ là cậu học trò Tiểu học còn đang tập “dùng từ ngữ , chữ nghiã đúng chỗ , hợp ‘ văn cảnh ‘ mà thôi “…
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
( Tặng Mã Giám Sinh - Bùi Giáng )
mây làm thành dáng người bay
linh hồn tao ghép vào mày nhé mây
để bay một phát sang tây
rồi bay trở lại rơi đầy đất đai
( Hân Hoan – Nguyễn Thế Hoàng Linh )
Nếu chỉ căn cứ vào chữ nghiã , làm sao người đọc thưởng thức được lối thơ “ ý tại ngôn ngoại “ hoặc thơ “ vô ngôn “ ?
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
( Giang Tuyết -Liễu Tông Nguyên 773-819 )
Nghìn non mất bóng chim bay
Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không
Kià ai câu tuyết bên song
Áo tơi nón lá , một ông thuyền chài
( Tuyết Trên Sông - Tản Đà dịch )
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong dính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
( Không Lộ Thiền Sư–Thiền Uyển Tập Anh )
Dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời
( Kiều Thu Hoạch dịch )