Lẽ ra phải “giải mã” một bộ phim bằng cách phân tích cấu trúc về mặt nghệ thuật theo đúng ngôn ngữ loại hình của nó, những người phê bình phim lại chọn nhiều phương thức “ông chẳng bà chuộc” chẳng có gì là “ăn nhập” với điện ảnh. Những phương thức này phần nhiều khiến mọi nỗ lực của người phê bình phim thành ra là sự “dụng công” vô ích.
1. Hay gặp nhất, thông thường là cách phê bình phim theo các giác độ mang tính văn học là chính. Đặc biệt là ở các bộ phim được chuyển thể từ truyện ngắn hay tiểu thuyết, hoặc dựa theo các motif dân gian; những người phê bình phim dùng “sự hiểu biết” của mình về các tác phẩm văn học gốc, rồi “áp” vào các xuất phẩm điện ảnh. Sự khuôn định này vô tình gây nhiễu loạn đến sai lệch, tạo nên cách nghĩ tiêu cực và ảnh hưởng trầm trọng đến việc thưởng thức một bộ phim, nơi công chúng.
Còn nhớ, với phim Mê Thảo – Thời vang bóng (chuyển thể từ tác phẩm Chùa Đàn của cố nhà văn Nguyễn Tuân) sản xuất năm 2003, nữ đạo diễn Việt Linh đã phải hứng chịu rất nhiều “búa rìu dư luận” từ những người phê bình phim trong nước, khi phim vừa ra mắt. Dù không thể phủ nhận tình cảm của người đọc dành cho tác phẩm hay nhà văn mình hâm mộ, nhưng khi phải so giữa sách với phim – vốn là một định dạng hoàn toàn khác, sự so sánh này đã lộ rõ những khập khiễng.
Khi phim Người tình (tựa tiếng Anh: The Lover – với một đề cử Oscar, cùng 2 chiến thắng và 6 đề cử ở các giải khác) được thực hiện tại Việt Nam vào năm 1992, đạo diễn người Pháp Jean – Jacques Annaud cũng gặp phải tình cảnh phản đối tương tự, nhưng từ chính tác giả của tác phẩm gốc (L’Amant – giải Goncourt 1984) là nữ nhà văn Marguerrite Duras. Bà cho rằng phim đã thực hiện không tuân thủ theo nguyên tác. Tuy nhiên, người làm phim đã bảo vệ được quan điểm riêng của mình, từ chính ngôn ngữ của loại hình nghệ thuật mà nó chuyên chở.
Hay như một trận “cuồng phong” từ rất nhiều bài viết phê bình phim, trên khắp các mặt báo cả nước, chống đối mạnh mẽ về sự hoán chuyển motif dân gian trong phim Hồn Trương Ba, da hàng thịt (đạo diễn Nguyễn Quang Dũng) sản xuất năm 2006. Đã chuyển tải được ý đồ cần thiết trong phim của mình, đạo diễn trẻ này đã “tung hê” mọi thứ bằng cách xáo trộn kết cấu quen thuộc của motif dân gian, nhào nặn thành hình ảnh khác trên phim.
Nhập nhằng với chuyện phân biệt thể loại khi mãi “bám đuổi” vỏ bọc câu chuyện cũ, những ngườiphê bình phim đã bỏ qua sự cách tân về mặt hình thức và thủ pháp trong phim (những lời thoại nháy về các “chiêu thức” trong quảng cáo, cách tạo hình vũ -điệu – mổ – thịt qua trường đoạn ở lò mổ của nhân vật chính...) - điều vốn dĩ cũng là một đặc trưng ngôn ngữ trong tác phẩm điện ảnh.
2. Cách phê bình phim chịu ảnh hưởng từ tư duy hiện thực phê phán khá đơn tuyến của một thời, cũng là một trong những cách vô tình”hủy diệt” phim nhanh nhất! Như trong buổi giao lưu giữa người làm phim Mùa Len Trâu và khán giả mới đây, tại khán phòng Idecaf (chương trình “Phim Việt Nam được hỗ trợ bởi Quỹ Fonds Sud”), nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo đã có ý kiến phản ứng gay gắt với đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Ông cho rằng nhân vật nam chính (Kìm) đã lạm dụng tiếng chửi thề khi xuất hiện trên phim, rồi cả việc nhân vật này đái vào ngôi miếu hoang thờ Thủy Thần để phản kháng vận mệnh... là những điều không thể nào chấp nhận được. Và càng không đúng với bối cảnh xã hội thời đó (khoảng những năm trước Đệ nhị Thế chiến), về cách hành xử của người Việt xưa.
Đạo diễn phim đã hồi đáp ngay, rằng khi mình viết kịch bản và khi tiến hành làm phim đều đã có tham khảo qua nhiều ý kiến của những người già cùng thời kỳ đó rồi. Và cũng được biết là có những điều đó hiện hữu trong thực tế thời bấy giờ. Nhưng thực tế cho dù những điều ấy có hay là không, cũng đâu đã là quan trọng gì! Bởi một lẽ đơn giản, người làm phim sử dụng những chi tiết đó chỉ nhằm mục đích nhấn mạnh tính cách nhân vật hiện diện trong bối cảnh, đặc biệt là trong những hoàn cảnh “sống còn” như thế! Và đây cũng chỉ là một cuốn phim truyện với một câu chuyện nhiều tính hư cấu không hơn không kém.
Hay với nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Sơn, trong một bài phê bình đầy công phu của mình khi viết về bộ phim Áo lụa Hà Đông (Áo lụa Hà Đông, lại mặc cảm thiếu “quê hương”!), cũng đã có chiều hướng quá “sát phạt” bằng việc bắt bẻ các chi tiết thuộc về bối cảnh lịch sử của phim. Có thể, phim còn nhiều lỗi sai sót về thời gian lẫn không gian của câu chuyện phim nhưng như đã nói, đây cũng chỉ là một bộ phim hư cấu, lại càng không phải là một bộ phim tiểu sử về một nhân vật có thật hay nổi tiếng trong lịch sử. Vậy nên những chi tiết mà người phê bình phim này vạch ra theo cách “chỉ mặt đặt tên” để phân định đúng sai, nói cho cùng cũng chỉ là cái nhìn duy ý chí.
3. Còn với cách phê bình phim nặng về cảm tính, rất dễ dẫn đến tình trạng lan man và “sớm nắng chiều mưa”. Dễ thấy nhất là với trường hợp của những phim Việt Nam chiếu Tết, những người phê bình đã áp đặt những nhận định chủ quan và các tiêu chí “tận đẩu tận đâu” vào dòng phim giải trí này. Thế là thị trường phim Việt vốn chỉ như đứa bé đang còn trong giai đoạn chập chững tập đi, đãp hải “nháo nhào” loạn cả lên với nhiều ý kiến khen chê rối tung, khiến công chúng cũng hoang mang đến không biết đường nào mà lần!
Rồi phim Dòng máu anh hùng (đạo diễn Charlie Trực Nguyễn) dù được những người làm phim xác định thể loại khá rõ ràng, lại được đầu tư rất chuẩn về mặt kỹ thuật, hãng Weinsteins của Mỹ thương lượng mua lại để phát hành tại Mỹ và Anh quốc vẫn nhận phải những lời phê bình phiến diện và đầy ác ý: phim “giống phim này phim nọ”, phim “thiếu tính này tính nọ!”
Phim Sài Gòn nhật thực (đạo diễn Othello Khanh) khi vừa công chiếu đã bị công kích dữ dội, bị gán cho nhiều “tội danh”!
Cũng vậy, phim Sài Gòn nhật thực (đạo diễn Othello Khanh) khi vừa công chiếu đã bị công kích dữ dội, bị gán cho nhiều “tội danh”! Theo nhà biên kịch Đoàn Tuấn: “Nhìn chung những lời chê này đều có điểm giống nhau là các tác giả (nhà báo) đều lấy mình hoặc những hiểu biết của mình làm chuẩn để rồi “cân, đong, đo, đếm” tại sao những vấn đề hay cách giải quyết của các nhà làm phim lại không giống mình! Từ đó quy kết cho tác giả bộ phim bao nhiêu là thứ tội...”...
Một bộ phim có thể hay/dở thuộc về chủ quan của người làm phim. “Đương nhiên, các đạo diễn làm phim phải có trách nhiệm với tác phẩm và khán giả của mình. Tác phẩm của họ có đứng được hay không do khán giả quyết định. Nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách không kỹ lưỡng và thiếu thận trọng sẽ gây nhiều tổn hại khó lường...”.
Và vì thế nguy hiểm nhất, cũng không thể không báo động về cách phê bình phim mang nặng tính quy chụp và suy diễn. Nó gây ra nguy cơ về việc không những “giết chết” phim mà còn cả người làm phim! Bài viết 2 kỳ của Tiến sĩ Trần Trọng Đăng Đàn (lại nói về phim Áo lụa Hà Đông) trên báo Công an TPHCM đã khiến công chúng sửng sốt về sự quá khích đến cực đoan.
Ngoài việc xem phim chưa kỹ, dẫn chứng sai lầm thì bài viết còn tự bộc lộ cho người đọc thấy sự hời hợt và vô cùng ấu trĩ về cách hiểu ngôn ngữ điện ảnh của người viết. Tuy thế, cách lên án bộ phim và người làm phim với những “tội danh trên trời” cũng gây nên một “hiệu quả” sút giảm doanh thu phòng vé trong thời điểm phim này đang công chiếu! Hơn thế nữa, bài phê bình này còn tạo ra một “hiệu ứng” chán nản, hoang mang cho những đạo diễn Việt kiều.
Vậy cho nên, điều quan trọng hàng đầu vẫn phải là một cái nhìn mở từ những người phê bình phim – bằng chính hệ thống lý luận từ học thuật điện ảnh của mình. Chỉ có như vậy, nhà phê bình mới trở thành nhịp cầu nối hữu hiệu giữa bộ phim và khán giả; cũng như là người bạn đồng hành thực sự với người làm phim.
Phim Mê Thảo – Thời vang bóng (chuyển thể từ tác phẩm Chùa Đàn của cố nhà văn Nguyễn Tuân)
Tintuc online theo thế giới nghệ sĩ