Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.176
123.149.351
 
“Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long ” (*) – MỘT THOÁNG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHƯƠNG NGỮ
Thai Sắc

Đây đúng là một tuyển tập truyện ngắn của đồng bằng sông Cửu Long, do các nhà văn người chính gốc hay đang sống ở miệt này viết ra – văn phong, mà trong đó tiêu biểu là phương ngữ cứ ngời ngợi nét riêng, không lẫn vào đâu !

 

18 nhà văn góp mặt trong tuyển tập này, hầu hết là nhà văn lớp sau, còn trẻ, sáng tác trong “bầu khí quyển ngôn ngữ” đang từng ngày được phổ thông hoá, cập nhật hoá với tốc độ không chậm. Vậy mà chất riêng của một vùng đất qua hệ thống phương ngữ vẫn đậm đặc trong một tập hợp cốt truyện rất hiện đại. Gần như trong hầu hết 400 trang sách, ở đâu người đọc cũng có thể bắt gặp phương ngữ của vùng cực Nam của Tổ quốc, thể hiện phong phú trên các khía cạnh : từ ngữ gọi tên sự vật, hiện tượng; từ ngữ xưng hô; từ ngữ chỉ tính chất, hành động; cách diễn đạt, v.v...

 

Xin trích dẫn một số dẫn chứng tiêu biểu, qua đó, nêu lên vài nhận xét, đánh giá bước đầu về hiệu quả nghệ thuật của cách sử dụng phương ngữ trong tuyển tập truyện ngắn này.

1. Một số dẫn chứng tiêu biểu :

1. 1. Từ ngữ gọi tên sự vật, hiện tượng :

1.1.1. Liên quan đến sông nước :

- xuồng tam bản; ghe tam bản; kinh rạch (Đường về - Lê Đình Bích)

- xuồng cui; be xuồng; con kinh nhỏ (Giữa dòng nước lũ – Anh Đào)

- tàu đò; mùa nước nổi; nước nổi lêu bêu (Sông Hậu xuôi về - Nguyễn Lập Em)

- vọc nước (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- bùng binh xáng; con rạch nhỏ; vàm (Kỉ niệm thoáng qua – Khai Phong)

- lũ chụp đồng (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm)

- bàu cá; con lung; vỏ đò (Miên man quê chị - Nguyễn Thanh)

- xuồng ba lá; vệt kinh; con lạch (Một người bị bỏ quên – Hào Vũ)...

1.1.2. Liên quan đến sản vật, cây trái :

- xị đế; ba xị đế (Đường về - Lê Đình Bích)

- lùm điên điển; bông điên điển; bông súng; bồn bồn; lít gạo (Giữa dòng nước lũ – Anh Đào)

- ổi xá lị; chùm bông giấy (Ông già đến từ Busan – Vũ Hồng)

- nhưn bánh xèo (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- khoai mì (Khóc hương cau – Phan Trung Nghĩa)

- cục hoét; cây đủng đỉnh; trái dừa điếc (Chim lá rụng – Thai Sắc)

- đống chà; cá linh (Tro bụi trên sông – Ngô Khắc Tài)

- bánh bò (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm)

- cây cầu khỉ (Miên man quê chị - Nguyễn Thanh)

- bánh tằm; keo tương ớt (Thập giá gỗ - Lê Đình Trường)

- bụi dừa nươc; cây mắm; rừng mắm (Một người bị bỏ quên – Hào Vũ)...

1.1.3. Liên quan đến các sự vật, hiện tượng khác :

- bồ bịch; người thăm nuôi; xe đò (Xe tăng và ruồi – Đoàn Văn Đạt)

- bạc cắc; bồ nhí; thân chủ; kiếng nhốp; chiec xe lôi đạp (Thuốc đắng – Anh Động)

- gió chướng; dây luộc (Không có cái truyện ngắn nào cả - Phạm Trung Khâu)

- chiếc xe đạp trụi không ve không thắng; vết thẹo; con bịnh; lính kiểng (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- đèn hột vịt (Kỉ niệm thoáng qua – Khai Phong)

- đờn; đờn bầu (Chim lá rụng – Thai Sắc)

- ông nhà đèn (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm)

- hộp quẹt (Thập giá gỗ - Lê Đình Trường)

- áo bà ba đen (Một người bị bỏ quên – Hào Vũ)...

1. 2. Từ ngữ xưng hô :

- ổng; thằng nhỏ (Giữa dòng nước lũ – Anh Đào)

- bả; thằng chả (Thuốc đắng – Anh Động)

- tía má; cưng; thẳng (Sông Hậu xuôi về - Nguyễn Lập Em)

- con nhỏ (Tiếng hót trong lồng - Trịnh Bửu Hoài)

- bả; ảnh; mậy (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- chả (Một người bị bỏ quên – Hào Vũ)...

 

1.3. Từ ngữ chỉ tính chất, hành động :

- linh binh; máng (đầy giẻ rách); vẹt (đám đông); gom (tiền hàng); giở (mùng chui ra); mập ú;  xài (Giữa dòng nước lũ – Anh Đào)

- hôi thúi; rã ruột; ăn đại; ráng ăn; cắn giựt thịt; nhào vô; đực rựa; hì hợm; quá giang (xe đò) (Xe tăng và ruồi – Đoàn Văn Đạt)

- để miết; rặt; nhức mình thấy mồ; thỏn mỏn; ớn xương sống; (tay) chỏi (ra) (Thuốc đắng – Anh Động)

- buồn hiu; ưng; tròm trèm; xụ xuống; dần dừ; chù ụ; quạu quọ; cự nự; chấp nê (Sông Hậu xuôi về - Nguyễn Lập Em)

- lột (áo mưa); cự; rành (quá rồi chớ); (đánh) nống (qua); bự con; xía vô; bóng dợn; sồn sồn, trổ mã (con gái); nhào vô; bình bồng; (chạy) lòn tòn (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- lần lựa; o ép; vàng rượm; (nhảy) loi choi (Không có cái truyện ngắn nào cả - Phạm Trung Khâu)

- quày quả; dụm đầu (Kỉ niệm thoáng qua – Khai Phong)

- bự; lụm cụm; lãng nhách; nói lén; tỉnh queo (Tro bụi trên sông – Ngô Khắc Tài)

- cặm quán; rổn rảng; yếu xìu; minh mông; riết róng (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm)

- sớm bửng; xăng xốm; rủ ren; bẻ chĩa; bự ế bà bung; nằn nằn; rộng rinh; nhúc nhắc; phập phều; thụt ló; đỏ lợ; xả láng (Miên man quê chị - Nguyễn Thanh)

- van vỉ; tri hô (Thập giá gỗ - Lê Đình Trường)

- toòng teng; chưng hửng; khuya lơ khuya lắc (Một người bị bỏ quên – Hào Vũ)

- cười sặc; giòn rụm; xí gạt; chút xíu (Nhạc rừng – Lương Hiệu Vui)...

 

1.4. Cách diễn đạt :

- ngó mông ra đồng nước quạnh hiu (Giữa dòng nước lũ – Anh Đào)

- nhắm mắt ăn đại; nói chuyện phải quấy (Xe tăng và ruồi – Đoàn Văn Đạt)

- trị bá chứng; quái chiêu thấy mồ; đo chân xuống nhà sau; ngũ ba cái nệm nhức mình thấy mồ (Thuốc đắng – Anh Động)

- và riết chén cơm; má (mẹ) tôi xụ xuống (Sông Hậu xuôi về - Nguyễn Lập Em)

- vẽ chi cho cực vậy (Ông già đến từ Busan – Vũ Hồng)

- ngồi tuốt ngoài này; ổng quậy một trận quá cỡ; ghẹo ba mày chơi; rành quá rồi chớ gì; bề gì cũng có bà con với nhau; nghỉ chơi với súng ống (Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy)

- riết rồi không còn một giọt sữa (Khóc hương cau – Phan Trung Nghĩa)

- tướng tá hằm hè; bộ ông nói lén con hả (Tro bụi trên sông – Ngô Khắc Tài)

- coi mòi dữ dằn lắm; ngu tới tối trời luôn; sống mình ên thui thủi; giả đò ngó lơ (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm)...

v.v...

 

2. Một vài nhận xét, đánh giá về hiệu quả nghệ thuật :

 

2.1. Phương ngữ góp phần tạo nên diện mạo riêng của văn xuôi cũng như truyện ngắn đương đại vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Điều này không mới, vì nếu đã đọc Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức...độc giả chắc chắn nhận ngay ra nó. Và đó cũng chính là một trong những sức hút mạnh mẽ đối với người đọc về một miền văn chương đậm phương ngữ - lạ, độc đáo và đầy khơi gợi.

Vấn đề ở chỗ, như đã nêu trên, hầu hết các tác giả trong tuyển tập này đều là những nhà văn thuộc lớp sau, những nhà văn đương đại, viết văn trong sự ào ạt phát triển của công nghệ thông tin với sự cọ xát, va đập, hấp thụ ngôn ngữ giao tiếp phổ thông và hiện đại rất mạnh mẽ, vậy mà những trang viết của họ vẫn đậm đặc phương ngữ, tạo nên diện mạo độc đáo của văn chương vùng đất cực Nam trong thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước.

 

Mà đây không hoàn toàn là do dụng công nghệ thuật, nghĩa là các nhà văn không cố tình, gượng ép “cài đặt” phương ngữ vào tác phẩm của mình để nó có chất đồng bằng sông Cửu Long, kể cả các nhà văn “ngụ cư” như : Lê Đình Bích, Thai Sắc, Hồ Tĩnh Tâm, Hào Vũ. Đọc tác phẩm, ta thấy, các dạng phương ngữ xuất hiện đều hết sức tự nhiên như chính cuộc sống, con người nơi đây hồn nhiên hiển hiện trên trang giấy vậy. Không kể các truyện ngắn mà cốt truyện gắn chặt với người nông dân và ruộng vườn - đương nhiên, phương ngữ được dùng với mật độ dày đặc, các truyện ngắn viết về đề tài khác như về giới nghệ sĩ, về người nước ngoài, về tôn giáo...(Tiếng hót trong lồng - Trịnh Bửu Hoài; Ông già đến từ Busan – Vũ Hồng; Thập giá gỗ - Lê Đình Trường...), phương ngữ cũng xuất hiện với liều lượng phù hợp, hài hoà và vẫn biểu lộ rõ diện mạo văn chương vùng này.

 

Các truyện ngắn có số lượng phương ngữ nhiều phải kể đến : Giữa dòng nước lũ – Anh Đào; Thuốc đắng – Anh Động; Sông Hậu xuôi về - Nguyễn Lập Em; Vết thương thứ mười ba – Trang Thế Hy; Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm; Miên man quê chị - Nguyễn Thanh...Có tác phẩm dày đặc phương ngữ như Vết thương thứ mười ba của Trang Thế Hy. Gần như câu văn nào của tác phẩm này cũng hiển thị phương ngữ ở những dạng khác nhau. Thử đọc một đoạn của ông : “Tội nghiệp cái ông đại tá này quá chừng, người dưng mà thương má y như cậu vậy. Ổng hiền khô. Ba nạt ổng, ổng cười trừ. Má nói vui : “Con coi có ngược ngạo chưa ? Một ông trung tá thương binh về hưu nạt nộ một ông đại tá tại ngũ y như tư lịnh nạt lính vậy”.

 

Như vậy, có thể nói, phương ngữ là một nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần làm nên diện mạo văn chương nói chung, văn xuôi và truyện ngắn nói riêng tại đồng bằng sông Cửu Long, ít nhất là trên phương diện hình thức và ngữ dụng học. Cái diện mạo ấy nếu được gọi tên, có thể sẽ là : “ngôn ngữ văn xuôi đồng bằng sông Cưu Long đương đại đậm chất phương ngữ”.

 

2.2. Phương ngữ góp phần thể hiện sinh động cảnh sắc và tính cách con người độc đáo của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Như liệt kê ở trên, những ví dụ tiêu biểu về các dạng khác nhau của phương ngữ đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện trong các truyện ngắn đã phần nào giới thiệu với độc giả toàn bộ cảnh sắc và tính cách con người vùng đất mới này - cảnh sắc và tính cách con người mang nét độc đáo so với các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam.

 

Đó là một miền sông nước mênh mông, chằng chịt kênh rạch mà các phương ngữ (danh từ, động từ, tính từ...) dùng để biểu hiện nó là vô cùng phong phú, đa dạng (xem mục 1.1.1 và mục 1.3). Có thể nói, chưa một vùng miền nào trên đất nước ta có đuợc một tập hợp phương ngữ gọi tên, miêu tả cảnh sắc sông nước và những gì liên quan đến sông nước lại dồi dào, giàu có như ở đồng bằng sông Cửu Long. Và điều đó đã được 18 nhà văn nơi đây thể hiện thật rõ nét và sinh động trên tác phẩm của mình. Chỉ để gọi tên các loại phương tiện giao thông thủy cũng đã có : xuồng tam bản, ghe tam bản, xuồng cui, tàu đò, vỏ đò, xuồng ba lá...Chỉ để gọi tên và miêu tả sự mênh mông của đồng bằng sông nước cũng đã có : mùa nước nổi, nuớc nổi lêu bêu, lũ chụp đồng, bùng binh xáng,  linh binh, minh mông...

 

Cảnh sắc riêng của đồng bằng sông Cửu Long còn hiện lên qua phương ngữ chỉ các sản vật, sự vật, hiện tượng khác (xem mục 1.1.2 và mục 1.1.3 ). Không còn từ ngữ nào đắc địa hơn các phương ngữ này khi viết về đồng bằng sông Cửu Long với những : ba xị đế, ổi xá lị, nhưn bánh xèo, cục hoét, trái dừa điếc, đống chà, bánh tằm, bánh bò, gió chướng, đèn hột vịt, áo bà ba đen, cây cầu khỉ, hộp quẹt...

 

Hệ thống từ ngữ xưng hô và cách diễn đạt trong hành văn của 18 truyện ngắn này đã góp phần bộc lộ khá rõ nét tính cách độc đáo của con người đồng bằng sông Cửu Long (xem mục 1.2 và mục 1.4). Nói một cách công bằng hơn, chính tính cách con người và phong cách ngôn ngữ trong giao tiếp của một vùng đất đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn phong của các nhà văn. Chỉ có ở đồng bằng sông Cửu Long (và một số nơi khác ở Nam bộ) mới có một hệ thống từ ngữ xưng hô đặc biệt; một mặt là hiện thân của phẩm chất trung thực, ngay thẳng, bộc trực và có chút ngang tàng của con người vùng đất mới, mặt khác, xét trên phương diện ngữ dụng học, là những từ ngữ mang đậm tính chất giản lược, khái quát và đầy gợi cảm, gợi tả : ổng, bả, ảnh, chả, mậy, thẳng, cưng...

 

Chỉ đọc một vài kiểu diễn đạt của nhà văn Trang Thế Hy trong truyện ngắn Vết thương thứ mười ba, thấy tính cách độc đáo với những phẩm chất nêu trên của con người nơi đây là khá rõ : ổng quậy một trận quá cỡ; ghẹo ba mày chơi; rành quá rồi chớ gì; bề gì cũng bà con với nhau; nghỉ chơi với súng ống...

Hay như trong truyện ngắn Có một mùa mưa của Hồ Tĩnh Tâm – một nhà văn quê Quảng Trị nhưng chọn đồng bằng sông Cửu Long làm quê hương nữa của mình : coi mòi dữ dằn lắm; ngu tới tối trời luôn; sống mình ên thui thủi; giả đò ngó lơ...

 

2.3. Phương ngữ    một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp riêng của 18 truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long.

Đã có thời, người ta coi văn của Hồ Biểu Chánh là thứ văn “cục mịch”, “quê một cục”, vì theo họ, đã là văn chương thì ngôn ngữ trong đó phải là thứ ngôn ngữ bác học, phổ thông. Gần đây, quan niệm này cũng đã được xem xét lại và tiểu thuyết của nhà văn miệt vuờn này được đón đọc, nghiên cứu một cách nghiêm túc và công bằng hơn, nhất là đối với những người quan tâm đến phương ngữ Nam bộ nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tất cả là nhờ không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật được dấy lên và quan niệm về sáng tác cũng như lí luận tiếp nhận văn chương đã có những bước phát triển mang tính đột phá. Người ta quan tâm đúng mức hơn đến “chất riêng” của tác phẩm trên bình diện ngữ dụng học, trong đó có phương ngữ.

 

Phương ngữ không chỉ xuất hiện trong giao tiếp ngôn ngữ hàng ngày mà còn tồn tại như một yếu tố nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương, nhất là kiểu văn bản tự sư. Phương ngữ không còn là “đặc sản” của một vùng miền nào mà dần dần trở thành “tài sản” chung của cộng đồng người sử dụng tiếng Việt.

 

Chính vì điều đó mà phương ngữ, trong sự xuất hiện với liều lượng hài hoà ở mỗi tác phẩm văn chương cụ thể đã góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật nhất định cho tác phẩm đó.

Hiểu như vậy, có thể khẳng định, tuyển tập 18 truyện ngắn chọn lọc của các nhà văn đồng bằng sông Cửu Long là những tác phẩm mang vẻ đẹp riêng, mà một trong những yếu tố quan trọng tạo ra vẻ đẹp đó chính là phương ngữ.

 

4.2007

(*) Nhà Xuất bản Mũi Cà Mau – Ban Liên lạc Hội Nhà văn Việt Nam tại ĐBSCL -2003

Thai Sắc
Số lần đọc: 4418
Ngày đăng: 18.07.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Máu Đỏ Da Vàng - Nguyễn Văn Hoa
Bốn Đoá Vô Ưu Ngày Cuối Hạ - Nguyễn Nguyên An
Tung hê phiền muộn thả đất trời. Đọc NHỮNG BƯỚC CHÂN CỦA BÃO- Bùi Đức Vinh ,NXB LAO ĐỘNG- 2006 ) - Lê Vũ
Những lỗi không đáng có ở bài viết về đêm hòa nhạc - Lê Đức Huy
TẢN ĐÀ : Thề non nước - Lời Thề Sắt Son! - Lê Xuân Quang
Trương Văn 7 , Người hát rong thơ mình - Nguyễn Đức Thiện
Phương Hà : Người làm thơ ở pháp đình - Nguyễn Văn Thịnh
Hơi Thở Cuộc Sống Trong Thơ Văn Lâm Bằng - Nguyễn Nguyên An
Những ý tưởng lịch sử khi đọc “Totem Sói” - Hà văn Thùy
Cổng Làng của thi sĩ Bàng Bá Lân : Tuyệt Phẩm Về Làng Quê Việt Nam! - Lê Xuân Quang
Cùng một tác giả
Chim lá rụng (truyện ngắn)
Bà ngoại (truyện ngắn)
Xí bệt , xí xổm (truyện ngắn)
Em (thơ)