Những năm ba mươi của thế kỉ 20, nhiều nhà Văn, nhà Thơ nổi tiếng của văn đàn Việt Nam hăng hái tham gia Phong trào Thơ Mới. Thế Lữ là một trong số những Thi sĩ xuất sắc đó.
Ông tên thực - Nguyễn Thứ Lễ. Thế Lữ là đọc lái, đảo của hai từ Thứ Lễ mà thành.
Trong tác phẩm: Nhà Báo Lê Ta - truyện Trinh thám của ông và bút danh Lê Ta ở một số sáng tác khác – cũng ghép bời hai chư Lê + Ta. Chữ Hán - Ta nghĩa là Ngã (bản Ngã). Lê Ngã... Lễ! Có thể xem ông là một trong số mấy nhà văn đi tiên phong trên văn đàn Việt Nam ở thể loại truyện Trinh thám, hồi những năm ba mươi thế kỷ 20. Nhà Báo Lê Ta vẫn còn đọng lại trong tâm trí lớp độc giả yêu truyện trinh thám của những cây bút thuần Việt, hồi hơn nửa thế kỉ trước...
Thế Lữ còn nổi tiếng ở lĩnh vực kịch nghệ.
Ngay từ những năm đầu thập niên 30 của thế kỉ 20, Ông là một trong vài người - du nhập nghệ thuật Kịch nói - loại hình nghệ thuật sinh động, gần gũi với cuộc sống đời thường, thịnh hành ở châu Âu - đem thể nghiệm, phổ biến vào Việt Nam, khi sân khấu biểu diễn của ta lúc đó chỉ thịnh hành : Chèo (Ngoài Bắc). Tuồng cổ (Miền Trung). Cải lương (Trong Nam).
Ngoài những hoạt động Văn - Thơ, ông còn nỗ lực tổ chức quản lí nghệ thuật biểu diễn. Ban kịch Thế Lữ - do ông sáng lập, lãnh đạo - hoạt động trên kịch trường Việt Nam từ những năm ba mươi của thế kỉ trước - đã thu hút nhiều nghệ sĩ danh tiếng tham gia. Kịch nói đi vào đời sống văn hóa được dư luận ở các đô thị hoan nghênh, tiếp nối phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đoàn kịch Thế Lữ với các vở diễn được ông viết, chuyển thể, dàn dựng - là hiện vật quý giá của ‘’Bảo tàng’’ Kịch nói Việt Nam đương đại.
Còn điều đáng nói nữa: Ông là một trong Thất Tinh (1) – 7 ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt nam (sau đó kết nạp thêm Xuân Diệu trở thành Bát Tú). Ông cùng ba anh em nhà họ Nguyễn Tường : Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh). Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo). Nguyễn Tường Lân (Thach Lam) với Khái Hưng, Tú Mỡ, Trần Tiêu - dựng lên tổ chức Văn bút nối tiếng, uy tín - của nền văn học Việt Nam ở thập kỉ ba mươi, thế kỉ 20 : Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ : 1932 – 1939).
Cho đến đầu năm 1930, thi đàn Việt Nam chỉ thịnh hành thơ Đường, thơ Lục Bát, và các thể thơ có quy tắc... Khi Thơ Mới xuất hiện, những người bảo thủ phản đối kịch liệt. Thế Lữ cùng các bạn trong nhóm Thơ Mới - kiên quyết bảo vệ, phát triển. Ông ít viết phê bình, tranh luận về Thơ mới, nhưng ‘’tả xung hữu đột’’, chứng minh sự đúng đắn Thơ Mới của mình và của các bạn bằng những sáng tác cụ thể. Qua đó, tấn công, phê phán phái ‘’thủ cựu’’ đang khư khư giữ lấy thể thơ cũ gò bó, sáo mòn. Cuối cùng Thơ Mới được đông đảo người làm thơ, yêu thơ đương thời tán thưởng. Có thể nói không ngoa : Nhờ Thế Lữ (và các bạn ông trong nhóm Thơ Mới), nền Thi Ca Việt Nam chuyển mình, ngay từ lúc phôi thai, theo thời gian phát triển mạnh … Đến hôm nay thơ Việt Nam – cả Thơ Mới và thơ Có quy tắc - cùng nhau đổi mới, phát triển đạt được thành tựu rực rỡ - như tòa lâu đài huy hoàng, tráng lệ! Giới Văn, Nghệ Sỹ đương thời ghi công, ‘’phong’’ cho Thế Lữ danh hiệu: ''Nguyên Soái Tao Đàn''.
Tác phẩm nổi tiếng của ông rất nhiều, với nhiều thể loại khác nhau. Nhà Phê bình Hoài Thanh đã dành 6 trang (không kể phần tuyển thơ) để biểu dương Thê Lữ trong Thi Nhân Việt Nam (TNVN). Có thể nói ông là một trong 3 người (Huy Cận, Xuân Diệu) được Hoài Thanh ưu ái, tốn nhiều mực, viết nhiều trang nhất trong cuốn biên khảo gía trị này. Nhà phê bình có uy tín không hề dè dặt, mà mạnh dạn dành cho Thi sĩ Thế Lữ lời nhận xét: ‘’Thế Lữ đã làm gíao sư dậy khoa tình ái cho cả một thời đại’’(2). Người đọc Việt Nam đặc biệt yêu thích bài Nhớ Rừng, xem như bài thơ kinh điển - của giòng thơ Mới (…). Nhớ Rừng là bản anh hùng ca ca ngợi những chiến sĩ cách mạng đang bị kẻ thù giam cầm trong tù ngục
Nhớ Rừng được đăng tải trên hệ thống truyền thông của TLVĐ (báo Ngày nay, báo Phong hóa, Nhà xuất bản Đời nay…), lập tức được dư luận người đọc đón nhận nồng nhiệt. Đến nỗi, ai đã đọc qua một lần đều bị thi phẩm thu hút say mê. Đọc tiếp, người ta ghi nhơ ngay nội dung, tâm đắc với thơ như một tuyên ngôn của tác gỉa… rồi thuộc lòng nhiều câu, thậm chí cả bài (dài 48 câu). Bài thơ được viết ở thể Thơ tự do – câu tám chữ. Thơ - Mới toàn diện : Từ cấu trúc, ý tưởng, phong cách đến ngôn từ xử dụng so với những bài thơ cổ, cũ trước đó. Nổi bật nhất là nhạc điệu, chất trữ tình bay bổng, chất ‘’anh hùng ca’’ của thi phẩm - khi tác gỉa viết về chủ đề này...
Nhớ Rừng là ''Lời con Hổ trong vườn Bách thú'' - như đề tựa.
Bài thơ chia làm 5 đoạn. Nghĩa đen là lời con Hổ nhớ về cuộc đời mình trong qúa khứ, suy nghĩ trước hiện tại… Nhưng người đọc liên tưởng ra nghĩa bóng : Tâm sự của con Người - với những trăn trở về tương lai…
Hổ là con vật vĩ đại của núi rừng lúc chưa bị bắt.
Khi bị nhốt trong cũi sắt ở vườn bách thú - Chúa Sơn Lâm chỉ còn là ‘’Gia súc’’. Tác gỉa khóac cho Hổ chất nhân văn, hồi tưởng về qúa khứ… liên hệ với hiện tại… Khiến người đọc đương thời - trông ‘’Hổ’’ nghĩ đến ‘’Ta’’... Hổ - nghĩ về qúa khứ: Sao ta lại đến nông nỗi này ? Những con người mà trước đây không lâu, chỉ nghe thấy tiếng ta đã phải ngả mũ, tránh xa. Giờ đây, khi ta trong cũi sắt, ‘’chúng’’ ngạo mạn, ngơ ngơ ngáo ngáo, giương mắt bé nhìn… Cái kết cục : Không còn Rừng xanh, Sơn lâm – đã đưa ta đến nông nỗi này ư ? Từ chỗ mọi vật, thiên nhiên hùng vĩ phải kính nể, giờ chỉ còn làm đồ chơi cho ‘’Người’’. Tệ hại nhất : ‘’Chúng’’ lại xếp ta cùng hàng với lũ Gấu… dở hơi chỉ suốt ngày đi đi, lại lại xung quanh song sắt nhìn, ngó, chán - lại há mồm hậc… hậc rồi quay ra vật nhau...
Lại nữa: Ngay sát nách ta, chuồng bên - Cặp Báo luôn tỏ ra lười nhác, tư lự, ngáp… ‘’ruồi’’. Dường như chúng đang tiếc nuối về những ngày rộng cẳng chạy nhẩy, leo trèo, đuổi bọn Hươu, Hoẳng, Cheo cheo…
Hiện tại đau buồn không thể xóa nhòa được kí ức hào hùng của ta. Nó chỉ gợi lại cho ta tình thương, nỗi nhớ khi còn được tung hoành nơi rừng xanh : Nơi ta từng vùng vẫy ngày xưa, nơi ta sẽ không trở lại được bao giờ. Ta nằm đây như đang nghe thấy tiếng rì rào róch rách của suối trong, của gió nhe. Tiếng ầm ì, âm vang của núi ngàn, tiếng gào thét của rừng cây trong bão tố…
Thế rồi mưa hết, bão tan, ta hát ca hòa cùng vạn vật. Ta lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, giũ lông, nhìn bóng tối bằng đôi mắt sáng quắc, đỏ rực khiến vạn vật run sợ, im hơi, lặng tiếng.... Ta nhớ đến những đêm trăng vằng vặc. Bên bờ suối, nhìn vầng trăng in xuống giữa giòng - như mâm vàng rực rỡ. Ta ngồi ngắm say mê, thò tay ‘’vốc trăng’’, bắt cá… Từng ‘’ dọc ngang nào biết trên đầu có ai’’. Bây giờ, trong cũi sắt nhỏ bé, bức bối, chỉ còn làm cảnh, để cho… ‘’người’’ - giễu oai linh rừng thẳm’! Ta chợt nhận ra… đau buồn, kêu thống thiết:Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu !
Chúa Sơn Lâm bị ‘’bứng’’ khỏi rừng xanh, nhốt trong chiếc cũi sắt ở vườn Bách thú trở thành ‘’Hổ - gia súc’’, sắp bị các tay ‘’Thợ giết mổ’’ chuyên nghiệp, lành nghề : Lột da, lọc thịt, róc xương cho vào… Nồi nấu, ninh mấy ngày đêm… tạo ra món ‘’Tửu phẩm’’ qúy gía: Cao Hổ Cốt. Thân, xương thịt Ta - chỉ dành cho những kẻ lắm tiền nhiều của, hiến, biếu cho những loại có cổ, có cánh. Chưa hết: ‘’Chúng’’ còn giành giật, tranh nhau tấm Da của Ta. Thậm chí đánh nhau để có được mảnh thi thể Chúa Sơn Lâm, hòng sau đó dùng hù doạ kẻ yếu bóng vía trong thiên hạ : ‘’Hổ chết để Da’’ – mà !
Ngao ngán, thất vọng, luyến tiếc - trước lúc vĩnh biệt cuộc đời, Hổ cất tiếng gầm thê thảm, bi ai:''Hỡi Rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi !''(3)
Bài thơ ra đời, tồn tại - đã hơn hai phần ba thế kỉ.
Lớp lớp người đọc qua mấy thế hệ vẫn yêu thích Nhớ rừng - đồng cảm cùng tác giả. Với công trạng, với những tác phẩm để đời:’Nguyên soái tao đàn’’ Thế Lữ, qủa thật - Danh bất hư truyền...
NHỚ RỪNG
(Lời con hổ trong vườn bách thú)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ bị nhọc nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây gìà
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi hát khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong hang tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca - giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm riêng phần vùng bí mật
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu!
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng...
Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng
Len dưới lách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u
Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ
Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ !
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi.
Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi! (3)
Thế Lữ (Mấy vần thơ)
01.08.2007
(1). Thất Tinh - Bẩy ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương, gồm: 3 anh em : Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân) và Thế Lữ, Tú Mỡ cùng hai anh em Khái Hưng, Trần Tiêu (em Khái Hưng).
Bát Tú – Tám nhà văn ưu tú (8 vì sao sáng) : Ngoài 7 người trên - Thêm Xuân Diệu.
(2) . Thi Nhân Việt Nam – trang 68 – nxb Văn học tái bản năm 2003
(3)- Câu này lấy trong Bản in của Tuyển tập Văn - Thơ Việt Nam 1930 – 1945, xuất bản vào đầu những năm 60 của thế kỉ 20. Còn bản in trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh xuất bản năm 1942 - câu này nhu sau: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !