Tiền thoại:
- Này, nhà sư hổ mang. Cái bào thai kia là của ông đấy!
- Thế à!
Tám tháng sau…
- Bớ gã phàm tăng, con của ông đây, giữ mà nuôi nó đi.
- Thế à!
Ba năm sau…
- Thưa đại sư, xin thầy từ bi hỷ xả, tôi đã đổ oan cho thầy.
- Thế à!
Cuộc chiến đấu với thị phi đã kéo dài 2 nghìn 500 năm. Nếu thay tiếng “Thế à!” bằng lời phẫn nộ, đay nghiến, mắng nhiếc, lý sự, trả đũa… thì đạo Phật đã trở về với cát bụi bên bờ sông Hằng Hà như những Kim Tự Tháp của Ai Cập bị chôn vùi trong sa mạc hay như những lâu đài La Mã chỉ còn trơ lại dăm mảnh của đấu trường…
*
Tâm lý thường tình cho rằng, những chuyện khen chê – thị phi… nhập nhằng – chỉ xẩy ra trong những mảnh đời sống vụn vặt hàng ngày mà thôi. Còn những lĩnh vực “đại sự” như tôn giáo, chính trị, văn hóa… thì phải cần đến những sự vụ đao to búa lớn hơn là những chuyện thị phi như thế. Thực tế thì đốm lửa và đám cháy rừng lắm lúc vẫn có những quan hệ hữu cơ ngoài tầm dự liệu. Tuy nhiên; đốm lửa, đám cháy và cánh rừng sẽ không bao giờ là ba thực thể, ba đối tượng ngang nhau cả. Đạo pháp và chuyện thị phi cũng thế. Đạo Phật, người tu theo đạo Phật và chuyện khen chê xưa nay không thể có sự lẫn lộn.
Từ thuở đức Phật Thích Ca thành đạo, chuyển pháp luân cho đến ngày hôm nay đã trải qua hơn 25 thế kỷ, bên cạnh những lời ngợi ca vang vọng lâu đời nhất thì vẫn có những lời chê bai đầy biên kiến nhất. Cho nên, chuyện thị phi trong sinh hoạt Phật giáo hay bất cứ một tôn giáo nào không bao giờ thiếu vắng như hai mặt sáng tối, nóng lạnh tất nhiên của đời sống.
Sau năm 1975, Phật giáo Việt Nam cũng theo dòng người di tản lan ra nước ngoài. Đời sống tâm linh, tôn giáo mang dấu ấn văn hóa và xã hội của con người tin theo. Phật giáo Việt ở nước ngoài, từ gốc rể cũng mang bản sắc của người Việt tha hương. Tuy nhiên, tác động của hoàn cảnh cụ thể từng nơi đã trở thành những “trợ duyên” cho sinh hoạt thờ phụng, chiêm bái và tu học. Mội trường kinh tế, xã hội và nếp sống thực dụng tại các nước phương Tây trở thành một sự thử thách mới cho Phật giáo Việt Nam truyền thống. Tinh thần Đại Thừa phát huy mạnh mẽ do tác dụng khách quan lẫn chủ quan của môi trường kinh tế thực dụng và truyền thông đại chúng quá phong phú và đa dạng tại các xứ nầy. Sự thử thách mới cụ thể, thường xuyên, trực tiếp và mạnh mẽ nhất đối với khuynh hướng tu hành thanh tịnh và tinh tấn là vật chất (tự viện, tiền bạc, xe cộ, vật dụng) và sắc dục (vẻ đẹp hào nhoáng khêu gợi bên ngoài, cung cách tự do cởi mở, có sẵn phương tiện vật chất, lòng ham muốn tính dục…)
Sự thử thách mới đã tự chứng tỏ quyền năng của nó trong suốt 30 năm qua trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Cũng có tu sĩ Phật giáo đã rủ áo hoàn tục. Cũng đã có hiện tượng tăng ni không giữ được bồ đề tâm kiên cố và dính mắc vào những hệ lụy đời thường. Tuy nhiên, đây cũng là ngọn lửa thử vàng đối với các bậc cao tăng thạc đức, những bậc tu hành vẫn giữ được tấm gương ngời sáng của bậc chân tu, tiếp tục hành đạo và hóa đạo cho đời.
Hệ quả tất nhiên của một xã hội vàng thau lẫn lộn như thế là phản ứng của đời thường. Mức độ và nguyên nhân tuy khác nhau nhưng có thể tìm thấy được rằng: (1) Do động cơ chính trị; (2) do động cơ “thánh chiến” giữa các tôn giáo chống báng nhau; (3) do sự bất mãn, ganh tỵ, mưu đồ trục lợi; (4) do thiện chí nhưng “lực bất tòng tâm” vì sự hiểu biết hạn hẹp và quan điểm chủ quan, phiến diện; (5) do thành tâm thiện ý muốn xây dựng đạo cho đời.
Bao năm qua, người theo đạo Phật cũng như đồng hương đứng ngoài, càng ngày, càng cảm thấy không còn nhiệt tình quan tâm và hứng thú để theo dõi những ý kiến khen chê, những lời bình luận về sinh hoạt chùa chiền tự viện và về những tu sĩ Phật giáo “có vấn đề.” Lý do đơn giản là vì lý luận nghiêm túc thì ít mà hý luận vu vơ thì nhiều; biên kiến ngày càng khơi rộng thì chánh kiến càng ngày càng hiếm hoi. Con người càng đi nhiều, biết rộng; càng trở nên tỉnh táo hơn, độc lập hơn trong thái độ lựa chọn một hướng đi, một nếp sinh hoạt riêng cho đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mình. Do đó, mọi sự vọng động nhằm lôi kéo người Phật tử thời nay nghiêng lệch, đảo điên bằng phương kế tin đồn, sách báo xuyên tạc, băng đĩa dèm pha… đang trở thành những trò chơi phù phiếm, lỗi thời của quá khứ.
Phải chăng đấy là lý do mấy tập sách mang tên “Giặc Thầy Chùa” của ông Đặng Văn Nhâm – ngỡ như là sẽ làm chấn động giới chùa chiền – lại không tạo được một phản ứng nào ngoạn mục về phía “giặc” lẫn phía người đọc nghiêm túc trong suốt mấy năm qua.
Khi “dường như đã lãng quên” thì tin tức Giặc Thầy Chùa lại bỗng đâu lù lù hiện đến. Qua thông tin trên mạng lưới vi tính đề ngày 31 tháng 7 năm 2007, hàng chữ đậm in đầu trang đập vào mắt người đọc như sau: Án Lệnh Chung Quyết của Tòa án Tư pháp Sơ thẩm khu vực tài phán thứ 165, hạt Harris, Texas về vụ án 2006-71920 xử vào ngày 16-2-2007. Nguyên cáo là cô Lương Thùy Trúc và Giáo Hội Long Hoa Phật Nhị Hội nộp hồ sơ thông qua tổ hợp luật sư Hoang & Associates kiện ông Đặng Văn Nhâm về tội mạ lỵ. Ông Đặng Văn Nhâm không đến hầu tòa nên bị xử khiếm diện. Phiên tòa kết thúc với phán quyết là: “Tòa án đã tìm ra và phán quyết rằng bị cáo Đặng Văn Nhâm đã bịa chuyện mạ lỵ với ác ý” (Founded, adjudged and ordered that Defendant Nham Van Dang made the libelous statements with malicious intent.) Theo phán quyết nầy, tòa án ra lệnh cho ông Đặng Văn Nhâm phải đền bù thiệt hại về vật chất 25.000 đô la; bồi thường danh dự 100 đô la; trả 500.000 đô la thiệt hại về đức hạnh. “Tập sách Giặc Thầy Chùa III cấm phát hành vĩnh viễn. Bất cứ ai tiếp tục phổ biến tập sách nầy phải chịu trách nhiệm về sự sai trái mà toà án đã phán quyết.” (The book Giac Thay Chua III, Bandit Monks III, is to be permanently enjoined from distribution. Any distribution of this book is a continuation of such libel and the party distributing this book is also responsible for such libel.)
Những người không theo dõi “khổ nạn” chữ nghĩa nầy từ đầu sẽ thắc mắc đại khái như: Ôi! Không biết có gì trục trặc đây? Cái nước tự nhận là tự do ngôn luận tận lông mày, chân tóc như Huê Kỳ mà lại đi xử ép nhà văn An Nam ta nặng nề như vậy sao?! Thật ra, tự bản chất của vụ án, đây không phải là một phán quyết của tòa án về tự do ngôn luận mà chỉ là một cách giải quyết của luật pháp về trò “lộn xộn” chữ nghĩa của thánh… bất hiền mà thôi. Người ném chữ nghĩa vi vút là nhà văn Đặng Văn Nhâm – Hội viên hội Nhà Văn Chiến Đấu Tây (Association des Écrivains Combattant Francais); cựu chủ tịch Hội Văn Bút Nước Nam Hải Ngoại – từ nước Đan Mạch xa xăm lặn lội sang Huê Kỳ hành hiệp và khổ chủ bị ném trúng phoóc là cô Lương Thùy Trúc.
Nhà văn Đặng Văn Nhâm đã cho ra đời 4 cuốn sách được in ấn và bày bán rộng rãi tại Mỹ. Ba cuốn nhan đề là “Giặc Thầy Chùa 1, 2, 3” và cuốn “Đời Tôi” y như thể là “My Life” của cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton (!) Nội dung của 3 cuốn Giặc Thầy Chùa viết về các tu sĩ Phật giáo tại nước ngoài mà trọng điểm là tại Mỹ. Liên tục trong 3 cuốn nầy, ông Đặng Văn Nhâm đã lôi các nhà sư có tên tuổi để hài tội, luận tội và kết tội họ về các phương diện (1) quan hệ tình dục, (2) thâm lạm tiền bạc, (3) lợi dụng quyền thế.
Mở đầu cho cuốn Giặc Thầy Chùa I, ông Đặng Văn Nhâm đã noi gương và trích dẫn chuyện Chiếc Áo Đại Triều (The Emperor’s New Suit) của đại văn hào Đan Mạch, Hans Andersen và nhấn mạnh về cái phương pháp luận “xích tử chi tâm” mà ông sẽ ứng dụng trong sách ông viết. Nói một cách nôm na là ông Đặng Văn Nhâm chủ trương “tấm lòng con đỏ”, thấy chi nói nấy chứ không gạn đục khơi trong, vo tròn bóp méo gì cả. Nói về quan điểm nầy, ông Hồ Hoàng Đức viết trên báo Phù Sa số 126 – tháng 6/2006, đã nhận định một cách đầy tính hoạt kê về chiến lược “con đỏ” của ông Đặng như sau: “Nhà văn là người làm văn hóa, người đem vẻ đẹp của ngôn từ và tư tưởng vào tác phẩm mà phục vụ cho đời. Nay Đặng Văn Nhâm dùng lối ‘xích tử chi tâm’ như con nít sơ sanh vớ phải cục cứt gà cũng tưởng nhằm là vú mẹ đun ngay vào miệng, không gạn lọc, chọn lựa, sắp đặt, trang trí cho hay cho đẹp thì còn gì là văn vẻ, văn chương…”
Tôi không muốn lạm bàn về chuyện văn chương như ông Hồ Hoàng Đức, nhưng cũng đành phải để cho cái “tôi” đáng ghét của mình xuất đầu lộ diện chút đỉnh vì nhà văn Đặng Văn Nhâm đã sử dụng trên cả nghìn trang viết làm phương tiện truyền thông về một lĩnh vực có liên quan đến phạm vi chuyên môn của tôi. Trong lúc đó, ông Đặng chưa chứng tỏ và chứng minh được một phương pháp thu thập dữ kiện nào đáng tin cậy, có tính thuyết phục trước khi áp đặt những kết luận “điếng người” về những nội vụ thuộc về một lĩnh vực nhân sinh cực kỳ nghiêm trọng. Đấy là lĩnh vực điều tra các vụ án xâm phạm tình dục.
Trước hết, tôi xin tóm tắt về những hiểu biết khiêm tốn của mình về lĩnh vực vừa nêu. Từ ngày 1 tháng 8 năm 1988, tôi làm việc cho cơ quan CPS (Children’s Protective Services: Cơ quan bảo vệ thiếu niên) của Sacramento thuộc tiểu bang California. Đây là cơ quan làm việc trực tiếp với nạn nhân và thủ phạm để điều tra và bảo vệ trẻ em từ lúc còn ở dạng bào thai đến 18 tuổi. Trong các hình thức ngược đãi trẻ em thì sự lạm dụng tình dục (sexual abuse) là nghiêm trọng nhất. Sự lạm dụng tình dục có 3 mức độ: Làm tình (intercourse), đụng chạm xác thịt (molestation) và lợi dụng tình dục (exploitation). Ngoài ra, có hàng chục hình thức, khái niệm và diễn giải liên quan đến sự quan hệ tình dục.
Để thụ lý một hồ sơ về sự xâm phạm tình dục, khởi đầu, tôi phải đi từ việc nghiên cứu nội dung của báo cáo (hay tố cáo), xác định mức độ đáng tin cậy của dữ kiện nội vụ, thu thập tất cả hồ sơ về tiền án của nạn nhân và thủ phạm. Bước tiếp theo là trực tiếp phỏng vấn nạn nhân và tất cả những ai có liên hệ hay biết về nội vụ. Sau đó đối chứng lời khai của nạn nhân, thủ phạm, những người chứng và đưa vào bộ phận chuyên môn kiểm nghiệm y khoa (DNA, thương tích thế xác, tình trạng tinh thần…) và một trong những yêu cầu đặt nặng hàng đầu là phải hoàn toàn nghiêm khắc giữ bí mật (strict confideltiality) nội vụ và tuyệt đối tránh ảnh hưởng chủ quan, cảm tính cá nhân vào quá trình làm việc.
Suốt 18 năm làm việc liên tục trong lĩnh vực điều tra, bảo vệ trẻ em tại Mỹ, tôi quá đỗi kinh ngạc khi đọc những bài viết tường trình về các trường hợp “xâm phạm tình dục” giữa các tu sĩ và đối tượng tình dục do ông Đặng Văn Nhâm kể lại trong các trận đánh “Giặc Thầy Chùa” của ông. Kinh ngạc không phải vì những kết luận “oanh liệt” như những chiến thắng mà ông Đặng đã đắc chí đưa vào trong sách; nhưng là vì tác giả tự chứng tỏ cái “nghề mọn riêng tay” của mình quá đơn giản và ngô nghê khi “mang thai Thị Mầu níu đầu Thị Kính” bằng những thông tin mà ngành điều tra chuyên môn của Mỹ gọi một cách đầy hoài nghi và mĩa mai là “streetwise hearsay” (thông tin nghe ngóng lém lỉnh kiểu hè phố) không đáng tin cậy. Lượng thông tin thuần trực giác và cảm tính trong Giặc Thầy Chùa cùng với một văn phong thô nhám, dung tục tự nó đã làm mất vẻ trí tuệ và sức thuyết phục cần thiết khi tác giả đang cần xây dựng một luận điểm cơ bản cho nội hàm tác phẩm của mình.
Cũng là một người theo đạo Phật và cầm bút tiêu khiển, trong cảnh vàng thau lẫn lộn như đã có dịp trình bày ở phần trên, tôi sẽ rất tôn trọng và khâm phục khi ông Đặng Văn Nhâm có can đảm nói lên được những điều sai trái của một số người lợi dụng, núp bóng nhà tu. Và cũng như nhiều Phật tử thầm lặng khác, chúng tôi không ngây thơ để tin kính vô điều kiện vào chiếc áo nhà tu; cũng như chẳng vội vàng mất thì giờ quan tâm đến những hiện tượng ồn ào, cáo buộc bung xung, tùy hứng nhất thời. Nếu nói đúng, chúng ta sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng và cải thiện đạo Phật và sẽ được hưởng phước quả tốt đẹp của tinh thần Duy Ma Cật. Nếu cố tình nói sai để mưu cầu tiếng tăm dễ dãi thì sẽ nhận hậu quả ngược lại. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh và ý hướng nào thì cũng mong ông Đặng Văn Nhâm vui lòng lưu ý đến “luật chơi.” Nghĩa là người cầm bút cần sử dụng phương pháp và phương tiện thích hợp. Khi phê phán và quy kết một điều gì, nhất là những điều liên quan đến uy tín, danh dự của kẻ khác nếu chưa đủ bằng chứng khách quan, chứng lý khoa học thì phải tự lượng sức mình để khỏi suy diễn chủ quan, có khả năng làm trò cười cho đại chúng.
Giữa ánh sáng truyền thông công cộng nhanh như chớp mắt của thế kỷ 21, chúng ta nên tỉnh táo nhìn rõ và nhìn đúng vấn đề lẫn đối tượng làm căn bản cho “sự nghiệp sáng tạo văn chương” của mình để tránh tình trạng lẫn lộn giữa bóng và hình, giữa dữ kiện và tin đồn, giữa hiện tượng và thực chất. Kết luận hay suy diễn vội vàng có thể tạo ra sự nở rộ, hấp dẫn thoáng qua nhưng tác hại lại lâu dài, vì một trăm cuốn sách viết sai sẽ trăm lần tệ hơn một câu viết đúng.
Nhân đây, cũng xin được thưa với nhà văn Đặng Văn Nhâm rằng, tôi tự hào và hãnh diện khi có một nhà văn xứ mình đã từng lãnh đạo giới Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và nay lại được đứng vào đội ngũ Nhà Văn Chiến Đấu Pháp như ông. Tuy khác nhau về đất ở nhưng tôi tin rằng nhà văn là người trân trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình và dân tộc bạn. Và ít nhiều thì những tác phẩm văn chương của hội viên như Giặc Thầy Chùa cũng phản ánh khuynh hướng “chiến đấu” trên mặt trận văn học nghệ thuật của Hội. Mong rằng, nhà văn Đặng Văn Nhâm sẽ góp phần truyền đạt và uốn nắn cho các bạn đồng môn trong Hội Nhà Văn Chiến Đấu Pháp tinh thần khiêm cung và lễ độ; tránh những sự áp đặt tư tưởng thô thiển và lối hành văn dung tục khi họ viết về con người và bối cảnh Việt Nam, nhất là viết về các nhà tu.
Không rõ luật lệ ở nước Đan Mạch nơi nhà văn Đặng Văn Nhâm trú ngụ như thế nào, nhưng riêng luật pháp tại Hoa Kỳ thì hầu như tất cả các trường hợp “đánh đấm” trong Giặc Thầy Chùa đều có khả năng đi đến kết luận tương tự như trường hợp của cô Trương Thùy Trúc.
Nhưng sự im lặng từ trước đến nay của các tu sĩ Phật giáo bị “lên list” trong Giặc Thầy Chùa là sự im lặng của thiền sư “Thế à!” Thế mà hay!
Trong dòng chảy từ thời xa xưa của quá khứ, lịch sử nhân văn đời đời vẫn nhận ra dáng vẻ bất chính, ồn ào, vọng động của Thị Mầu là ma vương quỷ sứ. Nhưng sự im lặng “Thế à!” của Thị Kính vẫn muôn đời là tiếng hải triều âm vang vọng của Bồ tát Kính Tâm.
Natomas, Mùa Vu Lan 2007