Những ngày đầu tháng tám, chị Dạ trao vội tôi tập thơ “Hồn đầy hoa cúc dại”. Khi đọc đến bài thơ “Ngày hôm qua – ngày hôm nay” của tác giả, trong tâm thức tôi chợt hiện lên câu nói không biết của nhà văn nào: “Ngày mai chỉ là ngày hôm nay” và người xưa có câu: “Trời đất có nói gì đâu” hình như là của Khổng Tử. Thực ra, mọi sự… là do con người. Một chút xao động của tâm hồn trước cái đẹp, một thoáng tiếc nuối quá khứ và một nỗi sợ hãi thường trực trước dòng chảy thời gian vô hình.
Thời gian một đời người không lập lại
một ngày đi qua
một ngày ta dần mất ta
từng chút, từng chút một…
Cái nhìn hữu hạn của đời người luôn bị ám ảnh bởi thế giới siêu hình mà thời gian như là một chứng nhân. Để rồi nhịp đập đều đều nhàm chán của loại thời gian đong đếm bỗng trở thành công cụ tự sát:
Nhịp điệu đều đều
chiếc đồng hồ tíc tắc
ta tự sát bằng thời gian
không màu, không vị, không đớn đau!
Trong cuộc phù sinh dù biết rồi sẽ trở về với cát bụi, nhưng cũng không ít người đã trơ lì trước nỗi đau của đồng loại, trước cái đẹp của tạo hoá. Bởi vậy tác giả đã tự nhắc nhở chính mình trong “Nguyện cầu”, cũng là lời cảnh báo đến mọi người giữa một thế giới đầy rẫy xung khắc:
Đâu phải sống cho riêng mình
Mà còn sống cho người khác
Vì cái đẹp
Vì thơ
Ta sống
Tâm hồn ơi
Đừng hoá thạch
Xin đừng
Và có thể “Bi kịch của riêng tôi” cũng là bi kịch của con người khi thơ trở thành cứu cánh:
Cái đầu tôi tự dưng đặc quánh như bóng đêm
Những tứ thơ bị nhốt trong đó
Những tứ thơ
Như những con chim
Trong lồng
Nức nở
Những con chim
Vẫy vùng
Đập cửa
Trong đời sống, sự phản kháng rất cần thiết đối với một nghệ sĩ với bất kỳ hình thái nào vì đó là sứ mệnh của văn nghệ để thể hiện nỗi khát khao tự do:
Trái tim tự do
Ngôn ngữ thơ ràng buộc
Ôi làm sao
Mở cánh cửa thi ca!?
Bi kịch nào của đời người cũng đau xót, nhưng có lẽ bi kịch lớn nhất của con người là tham gia vào tội ác giết chính đồng loại của mình mà không hề hay biết, để rồi người tham dự đã giết chết cả nhân tính chính mình. Đọc “Bức tường đen” của tác giả tôi nhớ đến chàng chiến binh 19 tuổi của năm 1967 tên là Mike, mặc dù không có tên trên bức tường đen, nhưng tâm hồn anh ta đã trở nên xa lạ với bản thân mình bởi những vết rách tơi tả mà tội ác chiến tranh đã gây ra và để lại bao nhiêu nỗi đau cho các bà mẹ, người thân... và trong bài “Bức tường đen” đã nói lên một phần nỗi đau đó:
Người mẹ Mỹ đưa bàn tay run rẫy
Tìm tên con giữa hàng vạn tên người
Bức tường đen - những linh hồn chết
…
đã biến thành vết thương
Trong ngực bà - người mẹ Mỹ!
và
Tuổi trẻ đầu xanh đã chết
Cái ác, sự ngộ nhận, niềm thơ ngây đã chết
Ở đây còn có sự đồng cảm giữa một nhà thơ nữ người Việt Nam và bà mẹ Mỹ:
Tôi đưa tay
Sờ lên những cái tên
Sao nghe lòng nhói buốc
Và trong thế giới đầy bi kịch, tác giả đã tự thôi miên chính mình trong “Ừ thôi, tưởng tượng”:
Tưởng tượng một người
tấm lòng cao cả
…
Tưởng tượng một người
Tốt như là đất
Nhận bao cay đắng
Vẫn cho ngọt ngào
…
Tưởng tượng một người
Bao dung - bản lĩnh
Trong cuộc sống đầy những sự giả dối, đến độ biểu tượng của cái đẹp cũng bị giả hóa, nhà thơ đã tâm sự trong “Hoa thật hoa giả”:
Hoa thật tàn thiên cổ
Hoa giả còn nguyên màu
Lừa mắt người có thể
Lừa hồn người dễ đâu…!
Và trong Hồn đầy hoa cúc dại gồm 42 bài thơ, đa phần tác giả dành cho hoa. Ngôn ngữ trong tập thơ là ngôn ngữ của hoa; âm hưởng bình dị, tự nhiên như gió. Tiết nhịp khoan thai, dìu dặt. Một số bài có nhạc điệu rất rõ, như trong “Hồng nhung và hoa cúc”:
Hồng nhung nghiêng đầu bên cúc
Dịu dàng như mẹ bên con
Hồng nhung nghe hồn trẻ dại
Tin mùa xuân mãi vẫn còn
Hay trong bài “Buổi sáng trong vườn” :
Có buổi sáng hồn như bông tỉ muội
Ta lạ lùng tìm lại ta xưa
Và trong bài thơ “Bán”:
Thảo nguyên bán nghìn vó ngựa
Ai mua – xin hãy đến tìm
và
Con bán cho mẹ nụ cười
Còn quý gấp ngàn vàng ngọc
Ta có thể xem thơ là hương, là tinh hoa của mỗi thi sĩ và trong thế giới biểu tượng thì ngôn ngữ không thể nào diễn tả trọn vẹn cảm xúc của thi nhân, như tác giả đã nhận định:
Trái tim tự do
Ngôn ngữ thơ ràng buộc
Ôi làm sao
Mở cánh cửa thi ca!?
để rồi:
Vì hương ta mãi lòng vòng
Làm sao cầm được có – không mà về…
Về đâu? Cầm cái gì?
Xin thưa, về cõi người ta và không cầm gì cả.
Huế, 9/2007