Báo điện tử Tổ Quốc vưà mở ra cuộc bình chọn 99 bài thơ Lục Bát hay cuả thế kỷ XX . Theo nhà thơ Nguyễn Duy , đây là bước tôn vinh các giá trị văn học nghệ thuật, mà việc tôn vinh giá trị thơ Lục Bát là bước đầu tiên . Đó là một việc làm đáng khuyến khích trong thời điểm trì trệ cuả thơ ca Việt hiện nay . Vì trong thế giới thi ca tiếng Việt , Lục Bát là một cõi trời mênh mông mà không hẳn nhà thơ nào cũng có thể vươn tới .Tôi viết những dòng này bằng cảm nhận chủ quan cuả một người đọc yêu quý thơ ca dân tộc mình …
1. Lời vui , mạo muội xin thưa …
Đối với người Việt Nam , làm những câu vần Lục Bát , dễ như thở không khí. Chẳng hạn :
“ Hôm nay mùng tám tháng ba / chị em phụ nữ đi ra đi vào ..” Trong những dịp vui cộng đồng , những dịp họp mặt , ta thường gặp “ nhà thơ dân gian “ ứng khẩu ngay một bài Lục Bát rồi đọc to lên , mọi người tán thưởng , vỗ tay rôm rốp. Có người còn vận Lục Bát vào những câu hò như “a li hò lờ “ sôi nổi , ấn tượng . Không khí cuộc vui trở nên hấp dẫn hơn cả đại hội nhạc Rock
Vậy mà khi đi tìm những bài Lục Bát hay , tôi phát hiện ra nhiều nhà thơ , kể cả những nhà thơ nổi tiếng , đã không thể để đời được bài Lục Bát hay nào trong sự nghiệp thơ cuả mình. Họ có thử bút , nhưng chỉ làm được những bài “ thường thường bậc trung “ , chẳng để lại ấn tượng gì , có khi còn thua ca dao bình dân
Bây giờ nếu Hội Nhà Văn tổ chức một cuộc kiểm tra năng lực thơ cuả hội viên bằng cách mở một cuộc thi Lục Bát , Hội ra đề , mỗi hội viên thơ làm một bài Lục Bát khoảng 100 câu , tôi dám chắc rất nhiều người phải trả lại thẻ hội viên ( ! ) Không tin , Hội cứ mở một cuộc tỷ thí , giưã thanh thiên bạch nhật , giưã sân đình làng Văn , có thần dân cả nước và quốc tế chứng kiến , chắc là cuộc tỷ thí ấy sẽ vang động khắp năm châu , và người đoạt giải , xứng đáng được khắc bia đặt trong Văn Miếu .
Xin lỗi các nhà thơ , kẻ viết bài này chỉ nói vui thôi , không dám hoài nghi gì về tài năng thơ và sự đóng góp văn chương cuả các vị đâu . Bởi vì chỉ cần làm được một bài thơ hay , không cứ gì Lục Bát , nhà thơ Việt nam đã có đóng góp cho sự nghiệp văn chương cuả dân tộc rồi . Chuà Hương cuả Nguyễn Nhược Pháp , Ông Đồ cuả Vũ Đình Liên , Cuộc Chia Ly Màu Đỏ cuả Nguyễn Mỹ là những thí dụ ..
2.Lục Bát thương kẻ tài hoa …
Đọc ca dao , đọc truyện Kiều ( Đoạn Trường Tân Thanh ) , đọc những bài ca vè , và thơ Lục bát cuả những bậc tài danh , ta nhận ra những khả năng đặc biệt cuả thể thơ này . Lục Bát có thể miêu tả mọi cảnh ngộ , mọi sinh hoạt , mọi diễn biến đời sống bằng những lời gần gũi tâm sự , những lời thiết tha cồn cào tâm can hay những tiếng sắt tiếng vàng binh đao Hán –Sở chiến trường . Lục Bát có thể nói những điều sâu kín trong tâm hồn bằng ngôn ngữ tinh tế , trang trọng cảm động , ngôn ngữ châu ngọc lấp lánh , ngôn ngữ làm thơm tho cả không gian .Lục Bát cũng có thể nói bông đuà mọi chuyện trên đời bằng những lời Nôm na , những lời quàng xiên , những lời thô tục , những lời bốc mùi không ngửi được
Sau khi thất thân với Mã Giám Sinh , Kiều bị Tú Bà xỉ mắng thậm tệ . Ngôn ngữ Lục Bát cuả Nguyễn Du đọc nghe nổi da gà .
“ Cớ sao chịu trót một bề
Gái tơ mà đã ngưá nghề sớm sao “
Nguyễn Du tóm tắt cả truyện Kiều chỉ trong một câu mở và một câu kết truyện Kiều với ý nghiã tư tưởng sâu xa
Trăm năm trong cõi người ta…
…Mua vui cũng được một và trống canh “
Bùi Giáng đuà nghịch với ngôn từ . Ông chắp những từ nối ( loại hư từ ) thường dùng trong văn chính luận để dựng nên một đoạn Lục Bát giàu ý nghiã tư tưởng
- Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
Và nhưng tuy dẫu là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy nhiên)
Ca dao có nhiều cách diễn tả chân chất nhưng thú vị bất ngờ
Một tâm trạng yêu :
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này
( ca dao )
Một nỗi buồn thương man mác
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
( ca dao )
Một tình cảnh vất vả , khó xử cuả người phụ nữ nông dân , lúc dậy sớm chuẩn bị cho một ngày lao động
Đang khi cơm lưả đang nồng
Lợn kêu , con khóc , chồng đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín , lợn im
Con thôi đòi bú , tòm tem thì tòm
( ca dao )
Và một cuộc rượt đuổi không sao với tới được giưã chàng và nàng trong tình yêu
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ
( ca dao )
Nhân gian từng truyền tụng những câu thơ hiện đại rất thú vị cuả Bút Tre như thế này ( Tôi không rõ có đúng nguyên văn , hay dân gian có chế biến đi chăng )
Anh đi chiến dịch Pờ - Lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
Hoặc
Chị em phụ nữ đánh cầu
Lông bay phần phật trên đầu các cu
Tác giả đã sử dụng kỹ thuật chơi chữ tài hoa trong việc tách âm và ngắt dòng chữ Pờ lây cu ( tỉnh Pleiku ) và môn thể thao vũ cầu ( cầu lông ) , cùng với kỹ thuật làm méo chữ . Chữ các cụ thành các cu , do vần gieo Lục Bát phải là vần bằng . Bút Tre lợi dụng ngay cái hiểm hóc cuả Lục Bát để tạo ra tiếng cười . Dù sự việc được miêu tả là những việc nghiêm trang .
Lục Bát thật dễ làm , nhưng làm được một bài Lục Bát hay thật không đơn giản . Đọc thơ Lục Bát , ta dễ gặp cảm giác này : câu chữ trau chuốt , vần gieo rất chỉnh , âm điệu du dương , nhưng bài thơ cứ trôi tuột đi , ta cố tìm lấy chút gì để nhớ , nhưng đành phụ lòng tác giả mà ngậm ngùi lắc đầu . Có khi ta thấy người viết vất vả quá sức trong từng con chữ , như đánh vật với bằng – trắc , với vần gieo ; bị dẫn vào chỗ sơn cùng thuỷ tận để tìm từ ; luẩn quẩn mãi không sao làm mới được vần điệu . Câu chữ trúc trắc , gò bó , gượng gạo đến khổ sở . Làm dăm bảy câu Lục bát còn dễ , làm đến vài chục câu đã khó, nhưng để viết được vài trăm câu hay vài ngàn câu Lục bát ( Truyện Kiều 3.254 câu ; Thiên Nam Ngữ Lục 8.136 câu ) thật khó mà tưởng tượng được sự vất vả cuả nhà thơ lớn như thế nào . Người phải vắt kiệt sức lực ,vỡ oà tim óc , dốc hết vốn liếng , cày cuốc rũ người trên cánh đồng chữ nghiã , lục mót từ ngữ , nghiêng ngưả vần gieo , biến tấu nhạc điệu , phối khí bút pháp , gia giảm khẩu vị , lại phải hoá thân bay lên cõi mênh mông cuả tình ý nhân gian và cõi vô cùng cuả tâm linh ngời ngời ánh sáng ( Nguyễn Du từng được coi là người có con mắt nhìn sáu cõi thế gian , tấm lòng thấu suốt nghìn đời ) . Chưa một thể thơ nào đòi hỏi quyết liệt tài năng , sức lực và tâm huyết nhà thơ đến thế . Không có tài không thể làm được Lục Bát hay .
Lục Bát là thể thơ cuả những nhà thơ tài hoa , những nhà thơ sống mãi với dân tộc .
Cái hay cuả Lục Bát là ở tình ý , lời , kiểu tư duy và ở chính sự tài hoa cuả cá tính sáng tạo . Đành rằng , ở thể loại nào , thơ cũng đòi những yếu tố âý , song ở Lục Bát thì tình ý phaỉ đi liền với nhau và sự tài hoa là yếu tố quyết định làm nên đặc sắc Lục Bát . Lục bát cuả Nguyễn Bính hội tụ được những yếu tố ấy . Ngày nay , Lỡ Bước Sang Ngang , Cô Hàng Xóm ..vẫn làm rung cảm mạnh mẽ tâm hồn người đọc . Thú thực, mỗi lần đọc Lỡ Bước Sang Ngang tôi không sao cầm lòng được .Tâm hồn mình cứ rưng rưng . Sự xúc động như tự thâm sâu cuả hồn quê , cuả hồn người , cuả bản thể Việt . Sự xúc động có chiều sâu nhân văn , chiều sâu văn hoá , và cả chiều sâu tâm thức Việt. Bài thơ Đan Áo Cho Chồng cuả T.T.Kh cũng có cái tình như thế nhưng không có được sự tài hoa .Bài Gửi T.T.Kh cuả Thâm Tâm chỉ có ý , rất ít tình và nghèo nàn sự tài hoa. Nói đến tình ý và tài hoa, thì Nguyễn Bính đã để lại những dấu ấn không thể nhoà trong thơ . Ông mở ra một con đường Lục bát Nguyễn Bính cho nhiều người đi sau
Lục Bát đương đại , ý có thể sâu , nhưng tình thì rất nhạt và thật hiếm có phong cách tài hoa. Những bài như : Tâm Sự Nàng Thuý Vân cuả Trương Nam Hương, Nỗi Niềm Thị Nở cuả Quang Huy và Lời Ru Con Cuả Người Yêu Cũ cuả Phạm Ngà , có những nét mới mẻ sáng tạo , tình ý khá hay , nhưng vẫn có chỗ ngượng nghịu thô vụng.
TÂM SỰ NÀNG THUÝ VÂN
Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ kià sao chị ngồi im
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chị làm chồng
Đời em thể thắt một vòng oan khiên
Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên
Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp mô số phận vuông tròn
Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu
Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường
Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lưà trái tim
Em thành vợ cuả chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi , em đợi kiếp nào để yêu ?
( Trương Nam Hương )
NỖI NIỀM THỊ NỞ
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi , nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh không nhà cưả bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn viá nao nao đêm ngày
Khen cho con tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ xao!
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá , trăng sao lại nhoà
Người ta … mặc kệ người ta
Chỉ em tất thật đàn bà với anh
Thôi rồi , đất lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm
( Quang Huy )
LỜI RU CON CUẢ NGƯỜI YÊU CŨ
Dừng chân bất chợt , lắng nghe
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi
Điệu ru quen thuộc bao đời
Mà xao xuyến , mà bồi hồi tiếng ru
Một thời thân thiết dạo xưa
Người con gái ấy bây giờ ru đây
Tròng trành tiếng gió tiếng mây
Nưả ru bé ngủ nưả lay gọi lòng
Con thuyền nói với dòng sông
Cánh cò nói với mênh mông nắng chiều
Thời gian nói với tình yêu
Buồn vui lại nói những điều buồn vui
Xin đừng ai nưã như tôi
Chuyện không đâu để buì ngùi tháng năm
Hẳn như cách trở xa xăm
Thì tôi ru khẽ ru thầm cùng em
Ngủ yên cho bé ngủ yên
Và người cha ấy vững bên chiến hào
Qua bao sông rộng núi cao
Tiếng ru dẫu ở nơi nào cũng thương
Chẳng làm con nhện tơ vương
Bao con đường vẫn một đường quanh nôi
Lời ru như lưả bừng soi
Bên nhau ấm những cuộc đời chia xa
Để lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
( Phạm Ngà )
Vô tình, tôi nhặt được ba bài Lục Bát cùng thể hiện những nỗi niềm , những tâm sự , những số phận phụ nữ . Trương Nam Hương làm người đọc giật mình ( chữ cuả Nguyễn Du ) , vì bấy lâu nay ta đã bỏ quên mất Thuý Vân . Nguyễn Du đã quá chú ý đến Kiều mà hy sinh Thuý Vân, chẳng lẽ người đọc lại vô tình với nàng ? Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân là người phúc hậu , nàng được hưởng trọn vẹn hạnh phúc , suốt đời vô tư . Người đọc cũng lầm tưởng như thế. Trái lại , Trương Nam Hương hé mở số phận bi đát cuả Thuý Vân và lên tiếng nói cho nàng . Tiếng kêu thương ấy dường như vang mãi trong vô vọng ! . Thị Nở cũng là một số phận như vậy. Một con người dở hơi . Dở hơi là vô tư ,là không biết nghĩ , không biết buồn và không có nhu cầu sống hạnh phúc? Nhưng Thị là một con người , hơn nưã là một phụ nữ , Thị có quyền sống và khát khao hạnh phúc như mọi người. Tiếc thay ,Thị đã bị vùi dập chẳng khác gì Chí Phèo. Quang Huy đã viết được những câu rất hay về Thị , tiếp sức với Nam Cao , trả lại cho Thị chút phận người. Ở bài Lời Ru Con Cuả Người yêu Cũ , Phạm Ngà vẽ nên những hình ảnh đẹp mơ hồ về người phụ nữ , về người chồng chiến đấu , về tương lai con trẻ và cái tình riêng cuả nhân vật trữ tình .Những tưởng ngòi bút Phạm Ngà sẽ đưa người đọc đi mãi vào thế giới lãng mạn cuả tâm hồn , ở đó , mọi giá trị cuộc sống bị vượt qua chỉ còn lại cuộc tình cuả “ cái tôi “ . Nhưng kết thúc bài thơ là một câu thật bất ngờ , tuyệt hay về tình ý , sáng lên tiếng nói lương tri . Đó là cái đẹp cần phải có . Câu thơ có sức làm bừng tỉnh người đọc, về cái tôi và cuộc sống xung quanh . Xung quanh ta có bao nhiêu người sống đẹp , ta không thể ích kỷ nhỏ nhoi…
Để lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
3. Lục Bát thế kỷ XX có gì mới ?
Đoạn Trường Tân Thanh ( truyện Kiều ) là đỉnh thi sơn , là ngôi đền thiêng Lục Bát Việt Nam đầu thế kỷ 19 . Thế giới ấy , ngôi đền ấy là nghệ thuật , là tâm thức và là tiếng nói Việt . Nguyễn Du với Lục Bát trở thành biểu tượng thành tựu nghệ thuật cuả dân tộc Việt , trở thành niềm tự hào cuả một dân tộc giàu lòng nhân ái , vượt lên mọi thăng trầm cuả lịch sử bằng vẻ đẹp nhân văn sáng trong như ngọc quý.
Thế kỷ XX là thế kỷ cuả bao nhiêu trào lưu phương Tây tràn vào Việt Nam mà nhiều
nhà thơ Việt Nam đánh mất mình trong đấy. Bùi Giáng khẳng định : “Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ “ ( Thi Ca Tư tưởng ) .
May thay , Lục Bát Việt Nam vẫn là một cõi trời mênh mông mà những nhà thơ tài hoa
Việt Nam tiếp tục toả sáng những sắc màu rực rỡ , mới mẻ , truyền thống và hiện đại .
Đầu thế kỷ XX phải kể đến Tản Đà . Ông có những bài Phong Dao thật đặc sắc . Những bài ấy dùng tình ý và ngôn ngữ ca dao để nói những cảm thức mới . Ngòi bút Tản Đà nhuần nhuyễn và tinh tế , lãng mạn và tài hoa đáng kinh ngạc . Tản Đà đã mở ra cách sử dụng chất liệu ca dao để làm thơ Lục Bát mà sau này nhiều nhà thơ kế tục.
Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi giải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong ?
Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xanh mòn mỏi , mà hồng phôi pha
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh
( Tuyển tập Tản Đà , nxb Văn Học 1986 )
Thề Non Nước là một thành công khác về Lục Bát cuả Tản Đà . Bài thơ vưà có khí vị cổ điển vưà mở ra chân trời lãng mạn cho thi ca giai đọan sau .
Thơ Lục Bát cuả những nhà thơ Lãng Mạn ( 19301945 ) mới mẻ ở “ cái tôi “ cuả nhà thơ Tiểu Tư Sản. Ngôn ngữ thơ trau chuốt , đạt đến sự tinh tế hiếm có trong nghệ thuật diễn tả những rung cảm lãng mạn cuả tâm hồn ( Ngậm Ngùi – Huy Cận ..) . Lục Bát Lãng Mạn có chất giọng riêng . Cho đến nay Lục Bát Lãng Mạn vẫn giữ nguyên cái hay mặc dù đã qua trên nưả thế kỷ . Ta có thể nhặt ra nhiều hạt châu ngọc như Ngậm Ngùi ( Huy Cận ) , Thơ Sầu Rụng ( Lưu Trọng Lư ) ; Luỹ Tre Xanh , Rằm Tháng Giêng ( Hồ Dzếnh ) , Huế Đa Tình ( Bích Khê ) , Bến Hàn Giang ( Hàn Mặc Tử ), Đan Áo Cho Chồng ( T.T.Kh ) , Gửi T.T.Kh ( Thâm Tâm ) ...Trong bầu trời Lục Bát Lãng Mạn, Nguyễn Bính là một nhà thơ rất mực tài hoa. Chân Quê , Lỡ Bước Sang Ngang , Tương Tư , Người Hàng Xóm … làm xúc động bao nhiêu tâm hồn người đọc .
Giai đọạn kháng chiến chống Pháp . Lục Bát phát triển theo một hướng khác . Văn hoá văn nghệ phục vụ công nông binh . Lục Bát gần với Vè kể chuyện , rất ít chất thơ . Chẳng hạn , Kể Chuyện Vũ Lăng ( Anh Thơ ) ; Tình Tháp Mười ( Bảo Định Giang ) .. .Thời này , đa số các nhà thơ làm thơ tự do , rồi chen vào câu Lục bát . Bài Ca Vỡ Đất , Bao Giờ Trở Lại ( Hoàng Trung Thông ) ; Bầm Ơi ; Sáng Tháng Năm ( Tố Hữu ) .
Lục Bát cuả Tố Hữu giai đoạn này ( tập thơ Việt Bắc ) và cả giai đoạn sau ( tập Gió Lộng ; Ra Trận ; Máu và Hoa , Nước Non Ngàn Dặm ) có nét chung này : Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ biểu cảm cuả ca dao , ông đưa vào thơ hình ảnh quần chúng , nói cái giọng quần chúng , nói cái tình kháng chiến , tình công dân . Cái tôi chuyển hoá thành cái ta , thơ ông hướng về quần chúng mà kêu gọi , động viên , chia xẻ . Trong thơ , Tố Hữu hay gọi “ ơi “ . Lối viết này rất nhiều nhà thơ đi sau ông bắt chước , thậm chí ảnh hưởng đến tư duy cuả cả giai đoạn thơ kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc .
Bầm ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi , lâm thâm mưa phùn
( Tố Hữu-Bầm Ơi )
Cháu ơi cháu lớn với bà
Bố mày đi đánh giặc xa chưa về
( Tố Hữu - Cá Nước )
Sáng hè đẹp lắm em ơi
Đầu non cỏ lục mặt trời vưà lên …
…Nỗi niềm chi rưá Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thưà Thiên
( Tố Hữu - Nước Non Ngàn Dặm )
Thành phố ơi ! cám ơn nhjiều
Cho tôi hiểu suốt hai chiều tâm tư
( Hoài Anh –Bài Thơ Tình Thành Phố )
Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
( Nguyễn Duy – Nhớ Bạn )
Anh là thực đấy anh ơi
Trong em sáng một mặt trời thương yêu
( Phan Thị Thanh Nhàn – Không Đề )
Xoá nhoà ảo tích , em ơi
Chỉ còn đọng lại mảnh trời lá xanh
( Bửu Khánh Hồ - Lá Nõn )