Những bài Lục Bát thực sự thành công cuả Tố Hữu không nhiều . Việt Bắc vận dụng được lối giao duyên cuả ca dao , Kính Gửi Cụ Nguyễn Du đặc sắc ở nghệ thuật đối thoại với Nguyễn Du về những vấn đề Tố Như gửi gắm trong thơ. Mẹ Suốt phát triển thể Vè cuả ca dao , có phong vị lãng mạn và hơi thơ anh hùng ca . Luy Lâu là cảm thức lịch sử về hai bà Trưng , có hơi thơ anh hùng ca . Lục Bát Tố Hữu gần với Ca hơn là Thơ và có nét riêng . Nội dung rao truyền Cách Mạng , tình cảm Cách Mạng , tình công dân . Chất liệu là hiện thực cách mạng .Tính hiện đại , tính chính trị , tính quần chúng là phẩm chất chính cuả Lục Bát Tố Hữu ( cũng là cuả thơ Tố Hữu ) . Nói cho đúng , Tố Hữu chỉ dùng Lục Bát như một phương tiện chuyển đạt nội dung chính trị , dùng Lục Bát để nói với quần chúng công nông binh , nói tiếng nói công nông binh , bởi vì Lục bát hoà thanh dễ lọt tai , dễ nhớ , dễ thuộc .Ông không sáng tác những bài thơ Lục Bát nghệ thuật . Tuy vậy , những bài Lục Bát cuả Tố Hữu có những đóng góp nhất định vào sự phát triển cuả thơ Lục Bát thế kỷ XX.
…Trường sơn , xẻ dọc , rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường sơn , vượt núi , băng sông
Xe đi trăm ngả chiến công bốn muà
Trường sơn , đông nắng , tây mưa
Ai chưa đến đó , như chưa rõ mình..
( Nước Non Ngàn dặm – Tố Hữu )
Con sông Dâu chảy về đâu
Mà lơ thơ… đến Luy Lâu lại dừng
Cho ta nhớ thuở bà Trưng
Chiến thuyền giấu bến , cây rừng giấu binh
Luy Lâu ngạo nghễ cung đình
Tàn canh tiệc rượu…Giật mình sấm ran
Bốn bề nổi lưả Văn Quan
Ba quân gươm giáo ngập tràn thành đô
Chém đầu Tô Định , giặc Ngô
Xác phơi , chín chín đống mồ cỏ hôi
Hai nghìn năm cũ qua rồi
Sông Dâu nay đã cát bồi dòng xưa
Luy lâu còn đó … gió mưa
Vẫn nghe phần phật ngọn cờ Trưng Vương
( Tố Hữu-15.10.1986 – báo Văn Nghệ số 3-4 . 1987 )
Lục bát những năm trước và sau 1975 phát triển theo hai hướng : tiếp tục khai thác chất liệu ca dao , thể hiện những tình tự dân tộc theo hướng Nguyễn Bính , hoặc phản ánh đời sống , hướng về quần chúng , nói tiếng quần chúng , nói tình ý công dân , theo hướng cuả Tố Hữu
LỖI HẸN CÙNG CA DAO
Vườn nay người khác đã rào
Khóm mai thay chỗ khóm đào ngày xưa
Em ngồi giặt áo giưã trưa
Đâu rồi môi hát vu vơ một mình ?
Em ngồi giặt áo lặng thinh
Vò cho sạch những vết tình còn vương
Giũ cho vơi hết giọt buồn
Phơi cho khô hết nhớ thương xa vời…
Đàn Kiều được mấy khúc vui
Thơ Kiều có vận vào đời em chăng ?
Tình so chưa đủ ngũ âm
Áo chồng con đã nặng oằn dây phơi
Áo ca dao gió cuốn rồi
Câu ca dao, trả cho người khác qua …
Tóc mai rủ bóng hiên nhà
Chuyện xưa dù nhắc vẫn là chuyện xưa
Em ngồi giặt áo giưã trưa
Rát bàn tay vẫn vò chưa sạch lòng
( Thanh Nguyên )
LỜI RU ĐỒNG ĐỘI
Ngủ đi bạn , ngủ đi anh
Cánh tay mình ngả ra thành gối êm
Ngủ đi bạn , ngủ đi em
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
Hiếm hoi cái giấc yên lành
Hành quân xa, lại tiếp hành quân xa
Bao anh lính trẻ đã già
Chưa sang hết suối , chưa qua hết rừng
Ngủ hầm , ngũ võng , ngủ bưng
Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
Có người ngủ thế thành quen
Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình
Trong hầm biên giới Tây Ninh
Lặng yên mình ngắm lính mình ngủ yên
Bụi đường trắng tóc thanh niên
Má này thì lại áp lên tay này
Trái tim đập ở cổ tay
Tim ta ru giấc ngủ đầy cho ta
Cánh tay cặp khẩu A.K
Ngày là bệ súng , đêm là gối êm
Ngủ đi anh , ngủ đi em
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
( Nguyễn Duy . 8-6-1978 )
Lục bát cuả Hoàng Cầm ( Gọi Đôi , Giả Vờ .. ) tuy tình ý không nồng nàn như Nguyễn Bính song có được những tứ thơ lạ , cùng với nét tài hoa vốn có trong thơ cuả ông. Trần Mai Ninh là một khuôn mặt thơ mạnh mẽ , gân guốc và rất lạ. Thơ Lục Bát cuả ông cũng có được nét ấy ( Lời Nương Theo Lòng Nắng Gió , Chờ Lưả , Nhịp Muôn Đời (1) ) Có người ca ngợi Lục bát Đồng Đức Bốn . Thực ra Đồng Đức Bốn đi con đường Nguyễn Bính đã vạch ra ( bài Hoa Dong Riềng ,Nhà Quê ; Chờ Đợi Tháng Ba …). Nhưng Đồng Đức Bốn không có cái tài hoa cuả Nguyễn Bính , mà có cái sức cuả một anh lực điền , cố sức cày sâu cuốc bẫm , cũng nhặt được hạt rơi hạt rụng . Bài sau đây chưa thành thơ Lục Bát.
Cuối cùng nếu phải ra đi
Em xin gửi lại những gì cho anh
Anh dặn em bấy nhiêu lời
Khi mang xuống mộ cùng người tri âm
Anh tặng em quả chuông chùa
Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào…
( Đồng Đức Bốn - Kính gửi anh Điềm )
Ở miền Nam , Phạm Thiên Thư tiếp bước Nguyễn Du bằng Lục bát sang trọng , ngôn ngữ trong veo. Lục Bát cuả Phạm Thiên Thư đạt tới sự hoà điệu cuả tiếng Việt giản dị , tính tư tưởng cuả Thiền và chất trí tuệ cổ điển phương Đông .Hồn thơ Phạm Thiên Thư thật tinh khôi
…Đôi uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
( Phạm Thiên Thư – Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng )
Bùi Giáng làm mới Lục bát bằng chữ nghiã trùng trùng điệp điệp , bằng sự đan cài từ Hán Việt và thuần Việt , bằng tài hoa rất mực trong những lời cợt đuà như con trẻ , nói chuyện không đâu mà thành tư tưởng . Thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng. Kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều nhà thơ khác ở miền Nam đương thời
Chào em? có lẽ chẳng nên
Nói gì nữa cả? giữa đêm tối mò!
Chào em tính mệnh so đo?
Chào em tính thể tò mò tuyết vân?
Ấy xa xôi ? ấy gũi gần ?
Từ từ tự hỏi, tần ngần em sẽ thấy ra
Đi về trong cõi người ta
Người là người lạ ta là quá quen ?
Anh từ thể dục dưỡng điên
Thành thân thơ mộng thiên nhiên một giờ
( Bùi Giáng - Chào Em )
Du Tử Lê thử nghiệm cách tân Lục Bát, bằng cách dùng nhịp lẻ, nhịp chỏi, ngắt câu, xuống hàng , dùng dấu phẩy (, ) , dấu gạch nghiêng (slash). Du Tử Lê cũng có những bài Lục Bát thành công như Chân Dung , Cõi Tôi , song với lối cách tân ấy , Du Tử Lê đã băm nát nhịp thơ , làm bầm dập Thi thể , Lục Bát thành ngọng nghịu quá đỗi .
thắp thêm nến. Gọi vai về
dấu môi Bồ Tát, lá, lìa Austin
biển lần theo chân Quán Âm
ngón tay tràng hạt, nhang, đèn, phố, lu
tóc thơm ngực, múi khuya, mù
trái vun ấn tượng; nẫu lìa, biệt đen.
thắp thêm nến. Giới định, thiền
giải oan chuông, mõ; xóa kinh điển, người
gửi thêm đời, muộn, chút tôi
rớt trên lục tự; rũ ngoài tam quan.
thắp thêm nến. Nhiễu tâm phiền
gió, thâm, tím ngọn, cây tiền thân, mưa.
( Khúc Tháng Hai, Chín Sáu – Du Tử Lê )
Lục Bát hay là ở nhịp điệu tự nhiên như hơi thở , như lời nói. Nhạc cuả Lục Bát là nhạc cuả tiếng Việt đa thanh mượt mà , với rất nhiều từ láy, từ ghép . Nhạc cuả Lục Bát là nhạc cuả tâm hồn Việt , bình dị nhưng cao vời . Nhạc cuả Lục bát là nhạc cuả hình tượng , không phải nhạc cuả kỹ thuật dấu phẩy ( , ) . Xin thử lắng nghe câu thơ Kiều :
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
( Nguyễn Du )
Giai điệu vút lên , liền mạch , bay bổng , xa thẳm trời xanh muôn trùng , không thể là nhịp chỏi , nhịp lẻ . Nhạc thơ ấy không thể dùng dấu phẩy mà ngắt ra . Bởi nếu chặt khúc câu thơ , cánh hồng sẽ gẫy và con chim hồng tuyệt vời ấy sẽ rơi xuống đất , chết cùng với Lục bát . Cũng vậy con mắt đăm đăm là con mắt nhìn mãi về xa xăm , làm sao cắt khúc được sự dõi theo không cùng ấy cuả tâm thức ?
Có những cách làm mới Lục Bát bằng thơ ngắt dòng , thơ bậc thang . Nhưng Đó chỉ là mới cái
dáng vẻ câu thơ , không tạo ra được cái mới nghệ thuật cho Lục Bát
LỤC BÁT Ở ĐÈO NGANG
Dập dềnh bóng núi . Đèo Ngang
Mình ta
Với nỗi buồn vàng
Trong tay.
Đường xa
Chim mỏi cánh bay
Chở theo
Một khối tình đầy
Long đong
Qua vùng nước trắng mênh mông
Tàu trôi
Ta cũng bồng bềnh trôi theo
Bướm non tơ
Khóc trong chiều
Vẫy tay
Gửi một lời yêu
Lỡ làng
Thôi thì thôi
Nỗi buồn vàng
Thả ta xuống đỉnh trời hoang
Một mình..
( Phạm Thị Ngọc Liên -19-10-1990 )
VIẾT TRONG QUÁN CÀ PHÊ
Ly cà phê nưã
tỉnh
mê
Từng đôi sớm biết đi về có nhau
Còn em
lãng đãng đi đâu
Anh về
so sẫm
đuã màu
gỗ mun
Trơ vơ riêng chiếc bưã thường
Qua phin hồng hạnh
giọt buồn lọc mau
Ai nhường nưả giọt chung màu
Cho tôi tỉnh táo khuấy sầu
tan chăng
( Hoàng Cầm – 1992 )
Gần đây ,Trần Ngọc Tuấn viết Lục Bát Tứ Tuyệt với tư tưởng Thiền . Đó là một chọn lưạ không dễ dàng chút nào. Tứ Tuyệt có độ nén rất cao . Ca dao lại vút đi rất nhanh trong sự phát triển tứ thơ .Và không dể để chuyển hoá tư tưởng Thiền thành một tứ thơ vưà thanh thoát mượt mà Lục Bát vưà uyên bác trí tuệ Tứ Tuyệt . Qua Dốc Sương Mù cuả Trần Ngoc Tuấn là một thành công bước đầu
Gánh củi qua dốc sương mù
Mồ hôi giọt giọt , gió ù ù bay
Nghìn tia nắng dệt trang ngày
Bước chân hoan hỉ , đêm này lưả reo
( tập thơ Suối Reo – Nxb Hội Nhà Văn 2006 )
Những nhà thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến ( Tiếng Trăng , Cát Đợi ..), Nguyễn Thế Hoàng Linh ( Bến , Khẩu Vị , Chuyển Hoa, Tinh Mơ ..) có chạm đến Lục Bát , nhưng hồn thơ chưa định hình
TRẢI CHIẾU NGẮM TRĂNG
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
giờ này còn định ra sông tắm trời
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
( Nguyễn Thế Hoàng Linh 16.06.07 )
4.Ai đã đặt chân vào đền thiêng Lục bát ?
Người ngồi trong đền phải là nhà thơ mà Lục bát là sự chọn lưạ cho sự nghiệp cuả mình , phải có được nhiều bài Lục bát hay (2), phải có những đóng góp làm phát triển Lục Bát. Và nhất là phải viết được những trường ca Lục Bát có giá trị . Chính trường ca Lục Bát khẳng định tài năng cuả nhà thơ .Những nhà thơ chỉ tạt ngang hoặc chợt rẽ vào Lục Bát, vốn sống và vốn từ nghèo nàn , sẽ chết yểu trên đường tìm vần , sẽ chẳng đủ tình , đủ ý , đủ hơi sức sáng tạo trên con đường càng đi càng dẫn đến tuyệt lộ .
Nguyễn Du là người giữ đền , không phải là người xây đền , vì trước Nguyễn Du , Thiên Nam Ngữ Lục đã là một toà nhà đồ sộ ( 8.136 câu Lục Bát ) . Nguyễn Du làm cho Lục Bát trở thành đền thiêng cuả thi ca dân tộc .
Tiếp theo, Nguyễn Bính là người bước chân vào đền và ngồi chiếu trên , vì ông có riêng một góc trời Lục Bát không bị Nguyễn Du che lấp. Tất nhiên Lục Bát Nguyễn Bính không thể sánh được với Lục Bát Đoạn Trường Tân Thanh .
Tố Hữu ngồi ở một chiếu khác , Lục Bát Tố Hữu chuyên chở được đời sống hiện đại , đời sống dân tộc trong kháng chiến ( Việt Bắc , Nước Non Ngàn Dặm , Mẹ Suốt .. ) .Điều mà Nguyễn Du đã không làm được trong thời đại cuả ông. Lục bát Nguyễn Du không chuyên chở được những biến đổi bể dâu thời Lê-Trịnh-Gia Long , không ghi lại được những trang hào hùng cuả dân tộc khi Nguyễn Huệ phá tan quân Thanh1789.
Người ngồi ngang hàng với Nguyễn Du là Phạm Thiên Thư .Ông đã viết 20.000 câu Lục Bát . Đoạn Trường Vô Thanh cuả ông dài hơn truyện Kiều cuả Nguyễn Du 20 câu . Đưa Em Tìm động Hoa Vàng là một trong những Lục bát tình hiện đại tuyệt hay .Phạm Thiên Thư sáng tác bằng vô thức , cõi vô thức đã đạt tới bước đại ngộ cuả Thiền .
Bùi Giáng là người phá đền và xây mới bằng những câu Lục Bát nghịch ngợm tài hoa , như không thể nghịch ngợm tài hoa hơn (3).
Còn ai nưã đã bước vào đền , xin bạn đọc bổ khuyết cho…
Lục Bát là cõi trời mênh mông cuả thi ca dân tộc. Thế kỷ XXI ai sẽ là người bước vào ngôi đền thiêng ấy ? ai sẽ khai mở được những lối đi mới vào đền ? Tôi chưa thấy được bóng dáng nhà thơ trẻ nào hôm nay chuẩn bị cho hành trình bay vào cõi trời mênh mông ấy.
Tháng 8 / 2007
____________________________________________________________________________
Xin đọc thêm ;
(1) Trần Mai Ninh –Nxb Văn Học 1980. tr 73 -74
(2)Bùi Công Thuấn – ĐI TÌM THƠ HAY – www.vannghesongcuulong.org. ( tháng 5/2007 )
(3)Bùi Công Thuấn – BÙI GIÁNG , AI NGƯỜI CHIA XẺ