Tôi lên chuyến xe Xuyên Suốt Tốc Hành về trước. Tôi lên chuyến xe Xuyên Suốt Tốc Hành lao băng băng giữa đất cát. Xuyên Suốt: Direct, Tốc Hành: Express, nhưng xe ngừng đón khách suốt dọc đường liên tục không ngớt. Tôi không còn khả năng hiểu tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ mang tất cả nếp sinh hoạt xã hội mà tôi chưa hề tham dự. Nhà sư ngồi cạnh tôi già lắm, sư cụ mang nếp nhăn của những câu kinh kệ suốt đời lần một chuỗi hạt.
- Trả tiền đi!
Gã lơ đánh vào hông xe thùng thùng. Gã lơ trẻ măng chưa biết đến cái chết. Tôi đã trả vé ở bến. Sư cụ đón xe dọc đường lấy trong tay nải mấy tờ giấy cong queo.
- Cậu thông cảm, tôi tu hành chỉ có từng này.
- Một xuất hai chục nghìn, trả liền đi.
Gã lơ quát. Xe băng băng lao giữa vùng đất cát cằn cỗi, những doanh trại quân đội nhân dân trôi lướt, những đụn đất rơm rạ chất đống, nắng chói chan, nắng thả lửa trên mặt đường bùng cháy như rải xăng. Tôi cảm giác lửa Napalm vẫn hãy còn cháy ở đây trên khúc đường này.
- Cậu thông cảm, tôi tu ở chùa chỉ có ngần này.
- Một xuất hai chục nghìn, có thì đi, không có thì xuống.
Gã lơ đập ghế. Nhà sư lúng túng. Sư cụ chỉ có 13 ngàn, thiếu 7 ngàn. Tôi muốn trả, trong túi tôi có 2 triệu bạc Việt Nam và một ngàn dollars đem theo. Tôi muốn lấy tiền, nhưng tôi sợ, chung quanh toàn những người xa lạ. Túi trái tiền Việt bọc trong gói nylon, túi phải tiền đô quấn hai lần giấy bỏ trong bao thư. Tôi cúi gầm mặt trên túi xách Adidas ôm trong lòng.
- Ðịt mẹ, từ sáng giờ gặp toàn thứ gì đâu.
Gã lơ đập vào hông xe thùng thùng. Xe thắng gấp, tay nải nhà sư bị ném tung ra đất. Xe rồ máy, tôi còn quay lại trông thấy sư cụ đứng lom khom giữa trưa nắng trên bãi đất cằn khô, không một bóng râm, lui cui nhặt nhạnh ba chiếc dép, mấy chiếc khăn, một bi đông nước.
Tôi quên đi rất nhanh hình ảnh đó, chỉ nhớ lại nhiều tháng sau, nhiều năm sau mỗi khi ai đó đi Hạ Long nhắc đến bãi Cháy. Không phải hình ảnh của tấm áo cà sa gầy gò rũ đứng giữa trưa ngập nắng, nhưng hình ảnh của một thằng hèn ngồi chết cứng trong lòng xe đò chạy xuyên suốt tốc hành về một bến đỗ nào đó của cách sống hôm nay, bây giờ. Trong xe có tiếng cười khan: Cứ ba cây số bị đuổi xuống, đón mươi lần là về đến Hải Dương.
*
Tôi mang gương mặt đứa trẻ trong hình 15 năm sau trở về. 15 năm sau thức giấc giữa Hà Nội lẽ ra tôi phải sinh ra, lớn lên và kiếm sống. Chuyến ra Bắc như liều thuốc đắng. Phải 31 tuổi ra tới Bắc, đứng trước Chùa Một Cột tôi mới biết tôi là người Nam. Bắc từ huyết thống, trong máu huyết, nhưng không ai chấp nhận. Buổi chiều tôi đứng trước Quốc Tử Giám lạ lẫm, xe Giấc Mơ chạy ầm ĩ, trong truyện Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu tôi đã tả nơi đây, nơi tôi chưa hề viếng buổi chiều con đường Hàng Cháo im ắng lặng lẽ như tờ. Buổi sáng tôi đứng trước ngôi nhà của Ông ở Phú Thọ, bây giờ đã trở thành ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phú. Tôi không nhận ra gì hết, mặc dù đã xem bao nhiêu lần những bức ảnh đen trắng chụp gia đình dòng họ trong sân ngôi nhà này. Tôi cố mường tượng năm U mười bốn tuổi bước chân qua ngạch cửa, U phải lo lắng lắm, vết chân U dường còn in ở phiến gạch Tàu trũng, U đâu biết 60 năm sau U sẽ lãnh 70 đồng Giải Phóng về quê, không thân bằng quyến thuộc, bán ve chai rồi chết dắm dúi ở một xó nào trên đất Quảng. Ðứa trẻ U ẳm bồng trên tay đã trở về, đứa trẻ U gãi lưng mỗi tối đã về đây, đứng trước ngôi nhà U đã vào ở suốt thời con gái, đàn bà rồi già lão. Buổi trưa tôi đi khắp phố Hàng Ðào, cố tìm ngôi nhà của Bà. Hiệu bán vải hẹp choé bề ngang, sâu thông thống, một tầng xiêu vẹo, treo mắc lụa tơ tầm, đồi mồi lưu niệm, quần áo.
- Hello, hello, welcome!
- Không, cháu người Việt. Cháu muốn vào tham quan nhà.
- Nó có đổi đô không? Cô gái ngồi quầy trong gióng hỏi.
- Không, nó muốn xem nhà.
Bà chủ hiệu vải phe phẩy quạt, nói vọng. Tôi nhìn bà kỳ lạ, tôi nhìn cô gái trẻ đã quên bẵng tôi đang đứng ở cửa. Mấy con rùa thần làm giả đồi mồi nhìn tôi nghếch mắt. Mấy điếu bát cổ đời Lý đề giá 100 đô, dăm bức chèo Phố Phái, tượng Phật bằng mã não ghi giá không rõ.
- Mẹ cháu sinh ở đây, cháu muốn vào tham quan vài phút rồi đi ngay.
- Giá tham quan du lịch nhà cổ quận Hoàn Kiếm 50 nghìn, tôi lấy cậu 30 nghìn thôi.
Bà chủ hiệu vải trả lời. Tôi nhìn bà kỹ càng. Tôi nhìn bà như thể tôi muốn trông thấy Bà ngồi đây, nếu không di cư vào Nam, Bà sẽ ngồi đây với quạt nan, Bà sẽ bảo tôi đưa tiền để vào thăm ngôi nhà nơi chính Bà đã sinh ra, lớn lên rồi bỏ đi như tôi đã sinh ra trong ngôi nhà Bà ở Sàigòn, lớn lên và bỏ đi. Tôi ngắm bà chủ hiệu vải kỹ càng để khắc ghi trong đầu hình ảnh một bà Bắc. Tôi ngắm bà chủ hiệu vải kỹ càng để đối chiếu với Bà, đã sinh thành ra tôi. Bà không phải là Bà. Bà, một người khác.
Tôi mở cửa. K đưa tay cào không khí. Anh ngồi ở giữa, trên chiếc xe lăn không ai đẩy. Tôi hỏi K ăn chưa? Anh nhướng mắt, con số 403 trên cửa phòng phản chiếu. Tôi trông thấy lại trong mắt anh hình ảnh đất Bắc phai mờ hoang phế. K thở khò khè đứt quãng. Tháng trước anh còn làm bài thơ Ký Thác đăng báo, tháng này anh mở trừng trừng mắt nhìn tôi, vô hồn. Tôi ngồi giữa căn phòng giá buốt, không phải K ngồi ở giữa phòng mà chính tôi ngồi chỗ K nhìn ra cảnh trời ảm đạm trông thấy thần chết.
- Kêu Vũ nó vào thăm anh.
K nhướng mắt. Lâu lâu từng chập anh trở nên tỉnh táo, như vụt thức giấc khỏi chiêm bao, phát âm rõ rệt từng chữ. Tôi biết anh sắp hoá quỷ. Tôi biết anh đang hoá quỷ.
- Em là Vũ.
Tôi bóc mấy nem cuốn, chả cốm, các món Bắc.
- Kêu Vũ nó vào thăm anh. K tiếp tục nhướng mắt.
- Nhưng em là Vũ.
Tôi đáp. Chiều tối nào K cũng hỏi câu đó. Chiều tối nào tôi cũng trả lời từng ấy chữ. Trong thâm tâm tôi khổ sở vì sao K không biết sống sót, vì sao anh không chiến đấu? Vì sao trí não anh ung thối? Anh đã học thật giỏi ở trường Lasan. Tôi nghĩ đến đám táng sắp đến, đến ma chay phải đứng ra làm chủ tang, trong đời tôi chưa biết cái chết. Tôi nghĩ đến các tra vấn của Bà, giòng họ, những câu hỏi hóc búa đạo đức dấy lên một mình tôi hứng chịu. Tại sao K hoá quỷ? muôn đời tôi thắc mắc. Tại sao anh không giống tôi thẳng tắp một con đường thuần Việt. Con đường mê đắm những cô gái, yêu đam mê những người đàn bà, say mê, hết mình và không hối tiếc. K chọn con đường khác.
- Vậy Vũ là Vũ đóng giả Vũ?
K bỏ cuốn nem, ngơ ngác. Tôi nhìn trí nhớ K mục rữa.
- Lát nữa mẹ ngủ dậy, nói mẹ hâm cho anh.
- Mẹ còn ở Việt Nam.
Tôi đưa nước cho K uống. Anh nhìn tôi kinh ngạc. Làm như K khám phá lần đầu sự chia cách đứt đoạn đột ngột không ai có thể hiểu.
Buổi chiều Âu Châu mau rụng tối. Nắng rơi không tiếng động khuất sau mấy dẫy nhà bệnh viện. Tôi lau mặt mũi cho K, cả chiếc bóng quỷ của anh cũng biến mất trên tấm kính đen đặc. Tấm kính chỉ còn phản chiếu lờ mờ duy nhất chiếc bóng của một đứa bé vướng ánh điện loay hoay tháo gỡ những sợi điện muốn chạy trốn.
Giống trong giấc mơ, khi tôi đỡ K lên giường, hai chân anh nặng trĩu, luồng nước đen thẳm cứ kéo chìm đi, K chới với nắm níu không khí, thân xác rũ riệt lê trên đất, tôi muốn gọi cấp cứu nhưng nhớ đến gương mặt lạnh lẽo của đám y công chung chạ mỗi ngày với thần chết, bệnh nhân chỉ là những thây ma nằm phòng riêng hay phòng chung. K ngã chúi xuống đệm nhưng anh mở mắt, trăn trối.
- Anh mất rồi chôn trong Bắc Việt nghĩa trang.
Tôi nắm tay K khi ấy. Không, anh nắm tay tôi, ghì chắc. Như lần cuối trong áo quan anh còn đưa tay nắm lấy tay tôi khi sư bà vẽ bùa bảo tôi dúi vào trong tay anh đi đò xuống âm phủ. Rõ ràng anh chụp lấy tay tôi lúc đó. Ghì lấy. Tôi hoảng sợ rụt bắn, nắp áo quan còn mở. Gương mặt K đen sạm, tóc rụng hết, K đang hoá thạch, cả bộ veste turquoise anh mặc giáng sinh cuối cùng cũng hoá đá. Tất cả lạnh cứng, đông lạnh, y khúc thịt tôi lôi từ trong tủ đá những chiều làm về muộn bỏ vào micro-onde. K nằm yên không rên rỉ, đã thôi vươn cánh tay co giật, đã thôi giắt tôi đi lầm lũi trong Bắc Việt nghĩa trang, tôi muốn nói nghĩa trang không còn nữa, tôi đã chứng kiến tất cả biến mất, không còn gì nữa, đất nước là một đất nước khác, không nghĩa địa, chỉ những lò thiêu và nghĩa trang liệt sĩ. Không còn chỗ nào cho tôi với anh, không còn chỗ nào cho người Bắc di cư đang biến mất. K nằm im, nhắm mắt, không nghe gì nữa, tôi đeo kính cho anh, nhưng rồi tháo ra, bỏ trong hòm. Tôi cố mường tượng đến hoá thân của Kafka, buổi sáng cũng biến dạng quái dị nhưng không chết. Tôi cố nghĩ chỉ là một chương tiểu thuyết, không ai có thể chết trong tiểu thuyết, từ tấm bé tôi đã chìm đắm trong truyện, không biết đánh đáo, bắn bi, tạc lon, tôi tiêu tán tuổi thơ trong những chồng sách. Tôi đọc ngấu nghiến và tin cuộc đời diễn ra trong tiểu thuyết. Rồi đến phiên tôi tưởng tượng tất cả, nhưng không hề ngờ chúng có thật.
Lửa phực lên. Tôi mở cửa. Lửa phừng lên nuốt tất cả mọi người. Lửa phừng phừng rát mặt. Tôi sợ hãi căn phòng địa ngục. Tôi chứng kiến tận mắt địa ngục. Hai thước ngang, lửa hàn xì như lửa gaz thui chó ở Quảng Bá. K hoá thân không ai đi đưa, người ta chỉ thui anh như thui chó. Các bạn tôi im lặng. Các bạn tôi cũng viết tiểu thuyết. Cả một đám hiện hữu bằng cái không có thật tiễn đưa một sự thật: Lửa gaz thui chó. Nina Mc Pherson, Ðỗ Kh im lặng. Chị Phan Thị Trọng Tuyến khóc tấm tức. Anh Lê Tất Luyện, chị Thụy Khuê mắt đỏ hoe. Anh Phan Huy Ðường lặng lẽ. Một mình Dương Thu Hương bình tĩnh nhất lúc lửa bùng lên đẩy lùi mọi người. Tôi thèm muốn lúc đó được chôn trong Bắc Việt nghĩa trang, thèm muốn nằm trong lòng đất của Bà, bên cạnh Thầy, bên cạnh Ông, bên cạnh chị Zính, thèm muốn nằm dưới gốc dâm bụt thắm lá, có rặng giấy lay lắt, một hồ nước, bức bình phong, sân bái đường. Tôi ý thức rõ ngày K hoá quỷ, hạnh phúc lớn nhất của kiếp thuyền nhân là được chết chôn ở Việt Nam trong một nghĩa trang của đất nước.
K bất hạnh không có may mắn đó.
*
- Lương, lên thang lấy cho chú đây coi hũ cốt Việt kiều con.
Sư bác mập mạp phốp pháp, nhận ra tôi một năm trước. Chỉ mới một năm mà chùa Vĩnh Nghiêm thay đổi, trai phòng các sư dọc hành lang có máy lạnh hai cục, màn ảnh vi tính truy cập internet. Tôi ngỡ ngàng nhìn qua cửa các thầy đang lên mạng. Không khí ngày Tết huyên náo, những sắc áo chen chúc với lồng chim phóng sinh phước thiện, khách thập phương lên xuống vào ra chánh điện, mùi nhang trầm theo gió phả phất từng chập dọc kinh Nhiêu Lộc. Tôi tìm lại không khí chùa ngày mới lớn theo Thầy lên tháp. Những mặt người chồng chất lên nhau. Gia đình tôi không có ai trong tháp, nhưng Thầy vẫn có thói quen vào thắp một nén nhang. Ngần ấy năm và bây giờ quá nửa dòng họ đã bị đuổi ra khỏi nghĩa trang phải cải táng di dời lên tháp.
- A, bữa hổm anh có về mà.
Chú Lương mau mắn chào. Chú Lương mảnh khảnh nhanh nhẹn, hoạt bát, thoắt nói, thoắt cười.
- Kiếm cho anh ấy chỗ tốt lắm, ở từng hai trông xuống bàn thờ Phật nhưng không cách chi gom về chỗ gia đình. Anh thông cảm bây giờ chết nhiều quá, dân số mỗi năm gấp đôi gấp ba năm trước, lại thêm cốt Việt kiều gởi về ai cũng muốn gần Phật mà Phật chỉ có một, Việt kiều thì đông.
- Sao kêu cốt Việt kiều? chết rồi mà.
- Dạ thói quen thôi anh, nhưng cốt Việt kiều gia đình thường ân cần hơn.
Chú Lương xách đèn bấm, lên thang. Chú đi thoăn thoắt, thành thạo mỗi nấc thang cuốn ốc, vừa kể lai lịch gốc gác từng cốt vào tháp lúc nào, thâm niên bao lâu, con cái thành đạt ra sao. Tôi nhìn lưng áo nhật bình của chú là thẳng, lấm tấm mồ hôi dợn sóng. Làm sao chú tỳ kheo có thể biết hết ngần ấy chuyện? Từ những cốt con đàn cháu đống đến quá khứ tung tích, tên tuổi từng thân quyến, cả những vụ đánh ghen cốt ngay tại tháp? Làm như chú đã ăn ngủ trong tháp, thì thầm chuyện trò với từng cốt. Ðời tư ai khổ sở, tâm sự cốt nào tự tử, cốt nào linh, cốt nào hiu hắt không bao giờ có người thăm viếng, hay cốt nào ưa cục cựa là có người đến cúng.
- Có nhiều chuyện hay lắm anh a, như cụ Thân này vào năm 81 đến 86 thì hết người thăm, chùa lâu lâu nhắc xin chút công đức gia đình không trả lời, đến bữa hôm có Việt kiều dẫn cả họ vào cúng đốt mấy xe vàng mã sau đó tự nhiên tháng nào gia đình cũng vào lễ bái. Cô Thu đây tự tử chi sao đó, mà mỗi lúc chồng vào thăm cứ bắt đem lên lầu ba không cho để chung với thân nhân, chị này thì khác, lúc chết có chửa, vô cốt rồi cả năm sau nhà gái đến bắt khui ra chia xương về thờ riêng. Anh trai này sinh 67 nhập tháp ba hôm mới hay khai sinh giả, chừng bây giờ cũng không biết tên tuổi là gì, thầy chưa vô sổ bộ.
Chú Lương đem hũ cốt xuống. Tôi nhìn gương mặt K trên nắp. Hũ cốt do đích thân tôi mua ở Pompes Funèbres Convention bằng đồng còn sáng. Tôi lấy giẻ lau gương mặt K như tôi đã lau trong bệnh viện. K mang gương mặt mệt mỏi ở Phi Luật Tuân buổi chiều hai anh em đói lả. Hải trình 21 ngày, 13 ngày tàu chìm ngâm nước giữa biển, 103 người chết đuối. Tôi lê lết khắp các ngõ ngách bảng làng Phi xin ăn. Hải đảo Liminancong quá nhỏ mấy chuyến giang đỉnh PCF của hải quân Phi không đủ sức nuôi 308 thuyền nhân, chỉ phát ba thìa cháo mỗi ngày trong lúc chờ đợi cao ủy liên hiệp quốc đến nhận hàng. Tôi theo đám ma đói tỵ nạn gõ cửa từng túp lều. Chắp chắp là ăn cơm, pù tăng ki na mô là ÐM mày. Tôi chỉ biết hai chữ đó, không nhớ ai dạy. Chắp chắp khi cửa mở, pù tăng ki na mô khi người đàn bà Phi tóc quăn, địu con quấn sà rông đóng sầm cửa. Tôi lùng sục khắp các hẻm rừng, K kiệt sức nằm thiêm thiếp dưới gốc cây đợi. Tay chân tôi mưng mủ những vết cắt của san hô, da dẻ tôi nhăn nheo như các bà lão quắt queo, tôi mang cơn sốt bừng bừng của 13 ngày đứng biển, mặt đất tròng chành như trôi trên sóng. Tôi lấy vạt áo học sinh còn đính phù hiệu trường Lê Thị Hồng Gấm mừng quýnh đựng cơm ông lão chài lưới bốc cho. Miệng tôi ngậm miếng cá khô, hai tay tôi bụm áo chạy về gốc cây K đang đợi. Tôi mừng quýnh muốn kêu Anh ơi, có cơm rồi, tôi mừng quýnh quên gan bàn chân rách nát vết cắt đá ngầm, tôi mừng quýnh vấp ngã xấp mặt, miếng khô cá lăn lông lốc. A Hủi đi chung tàu lao đến giật, tôi giằng nhưng A Hủi xỉ mặt:
- Lụ Mẹ buông ra tao dộng một cái bể mặt.
Tôi buông miếng cá, hốt cơm rơi vãi trên đất, hứng trong áo những nắm cơm lẫn đất cát mang về cho K vẫn thiêm thiếp. Tôi nguyền rủa người Tàu, tôi đã chứng kiến họ ăn ở bẩn thỉu ở Mỹ Tho trước lúc xuống bến, ích kỷ dành giật trên thuyền. Tôi đã chứng kiến A Hủi rút dao chém A Dềnh dành ba lượng vàng những ngày ngâm nước ở san hô. Tôi nghĩ Thầy không thể là người Tàu, tôi không bao giờ là người Tàu. Hai anh em không biết nói tiếng Tàu.
- Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.
Ðứa trẻ chìa tay. Tôi đang đứng trước Quốc Hội cũ, cố mường tượng ra tượng Thủy Quân Lục Chiến đối diện passage Eden đã bị đập.
- Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.
Rõ ràng đứa trẻ mang gương mặt tôi ở Phi Luật Tân. Rõ ràng đứa trẻ đang chìa tay nói Chắp Chắp. Ðứa trẻ đang kéo oằn anh nó nằm co quắp quấn bông băng thuốc đỏ mắt lờ đờ trên miệng ván có đóng bốn bánh xe đi đọc đường Ðồng Khởi. Ðứa trẻ nhếch nhác y tôi ở hải đảo Liminancong đi kiếm cơm cho anh nó. Nếu tôi không cho tiền chắc chắn nó cũng sẽ nói pù tăng ki na mô. 16 năm rồi mà tuổi trẻ của đất nước này vẫn còn đi xin ăn? 16 sáu năm xây dựng con người mới, xã hội mới, làm chủ tập thể, vẫn còn xin ăn? Ở đâu các bà mẹ Tổ Quốc? Ở đâu hội phụ nữ Việt Nam? Ở đâu Thành Ðoàn? Tôi đã biết cái nhục bị người Phi xua đuổi, tôi đã biết cái nhục ăn khoai thí trong cô nhi viện Pháp. Bây giờ em biết cái nhục đi xin ăn như tôi ngày xưa? Xin ăn Nhật kiều, Hàn kiều, Úc kiều, Mỹ kiều, Pháp kiều và tôi là ai đứng đây, trước lòng bàn tay em đang chìa ra chờ đợi? 5 phút trước tôi còn là đứa trẻ Sàigòn, 5 phút sau tôi đã là Việt kiều em đợi bố thí, 5 phút trước tôi là người Hoa, 5 phút sau tôi là người Việt, 5 phút trước tôi là người Bắc, 5 phút sau tôi là người Nam, 5 phút trước tôi còn trắc ẩn mủi lòng vì cảnh đất nước cố gắng vươn lên, vượt thoát số kiếp nghiệt ngã, 5 phút sau tôi khám phá dân tộc mình ăn vặt và không bao giờ sử dụng thùng rác. Tâm linh tôi thay đổi, tâm thức tôi hoán chuyển, tâm hồn tôi biến thiên, linh hồn tôi dao động như quả bông vụ những đứa trẻ đang chơi ném ra đường xoay tít trong công trường Lam Sơn.
- Vậy Vũ là Vũ đóng giả Vũ?
K nhìn tôi bằng đôi mắt trừng trừng thú vật của thần chết. Tại sao thần chết tinh đến như vậy? biết hết giả dối của kiếp người, lúc sống, cũng như lúc chết? Có phải vì đã chung chạ quá nhiều với người sống mà hắn biết tất cả? Tôi là ai? Năm phút nữa tôi sẽ thành Tây biến mất ở phi trường Tân Sơn Nhất.
- Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.
Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đục mờ, còn chút nào kiêu hãnh giận dữ của Trần Quốc Toản trong đôi mắt đóù? Còn chút sức vóc nào ở bàn tay Phù Ðổng này?
Tôi bước chân qua cánh cổng bằng sắt sơn xanh. Cánh cổng nặng trĩu thép im lìm nặng nề suốt quảng trời thơ ấu. Sư huynh Emmanuel Oai hay đứng sau chiếc cổng này kiểm soát phù hiệu, áo bỏ trong quần, quần tây đen, sandale hay bata trắng, bata xanh sẽ bị đuổi cổ tức khắc. Sư huynh Athanase Mạng đứng dưới gốc cây, đôi mắt rình rập nghiêm khắc, một chút thiếu giáo dục sẽ bị trừng trị. Tôi đã đi không biết bao nhiêu lần lối sỏi giữa các tượng thánh. Ngôi trường nam sinh lớn nhất Ðông Nam Á, với mười một ngàn học sinh của hai xuất sáng chiều, mỗi cấp tiểu học 20 lớp, mỗi cấp trung học 12 lớp và mỗi lớp 73 học sinh. Tôi tên Vũ luôn đứng số thứ tự 72 trước thằng Hoàng Xuân Yến. Lasan Taberd thành lập năm 1873 cùng năm Francis Garnier đánh thành Hà Nội. Hiếm ai biết trường Taberd đỡ đầu sư đoàn Nhảy Dù, đơn vị tinh nhuệ nhất của quân lực miền Nam. Tôi đã khám phá những người lính Cộng Hoà không xa lạ gác cầu, gác chợ, nhưng thân mật dạy cách đánh tay khi diễn hành qua khán đài ngày lễ 100 năm thành lập trường. Tôi đã đứng ở đây, trong sân trường này, tập hát quốc thiều, khám phá lá cờ thiêng liêng tổ quốc. Màu vàng phất phới đẹp như một dải cát, cuồn cuộn không tỳ vết, không nếp rũ, trong gió ban mai của tuổi hoa niên bay thẳng tắp một định hướng. Các em là tương lai rường cột của đất nước, sư huynh hiệu trưởng Lê Văn Nghiêm đã nói như vậy, tôn huynh tổng quyền dòng La San Charles Henry đã đọc diễn văn như vậy. Và tôi đã tin, tôi là tương lai của đất nước.
K luôn xếp hàng ở phía hội trường đâu lưng đường Gia Long. Tôi học đệ thất, anh đã học đệ tam. Giữa tôi và K luôn có một khoảng cách, chung trường, chung giáo dục, chung gia đình, nhưng anh luôn chọn con đường khác, con đường không thuần Việt. K sợ hãi chiến tranh từ lúc nhỏ, K năn nỉ Thầy cho đi du học sau Tú Tài toàn phần trong lúc tôi chuẩn bị tham chiến. Pham Nhật Nam đã nhồi vào đầu tôi hình ảnh kiêu hùng của người lính Cộng Hoà ở An Lộc. Dương Nghiễm Mậu đã nhồi vào đầu tôi những hình ảnh khổ đau của nạn nhân chiến cuộc với trận đánh chống chiến xa Bắc Việt T-54 ở miền Trung. Ðại úy Trương Duy Hy viết hồi ký Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ Lào quá oai hùng. Thiết giáp Bắc quân PT-76 tràn lên sườn đồi, pháo 155 ly hạ thấp nòng bắn trực xạ thổi tung từng khối sắt trong lúc thiếu tá Mạnh tiểu đoàn phó tiểu đoàn 2 Dù dẫn lính bung ra phản công chỉ đánh bằng lựu đạn. Ðồi Charlie, cơn mưa sắt thép, rặng Chu Moong Ray chờ trời sáng, tiểu đoàn 11 Dù qua đêm trong chập chờn sắc buốt. Phan Nhật Nam viết chi những giòng này, đài truyền hình chiếu chi những hình ảnh Mậu Thân từng cụ bà đi bốc xác con bị chôn sống ở bãi Dâu ngoài Huế? Tôi chuẩn bị tham chiến. Tôi chờ đợi cuộc chiến thiếu kiên nhẫn. Xả thân, bảo vệ tổ quốc, hiến thân dưới cờ, chống đỡ quốc gia đang nguy biến. Các em là người tổ quốc mong cho mai sau. Tôn huynh giám tỉnh phụ quyền Bruno Trần Văn Bằng khẳng định như vậy. Ðây thiếu sinh trường Lasan, vui sống trên đường đời, lòng ta nhất quyết nên người, theo gương sáng bao bậc đàn anh... Tôi là sản phẩm của nền đệ nhị Cộng Hoà, thứ sản phẩm thuộc lòng Lasan hành khúc, quốc ca, khẩu hiệu và tiểu thuyết.
- Anh làm gì ở đây?
- Tôi học ở đây.
- Lớp mấy? Ôn thi bên kia kìa.
Thanh niên chi bộ đoàn đang giăng biểu ngữ có kẻ khẩu hiệu Sông có thể cạn, núi có thể mòn... hất hàm. Tôi mang gương mặt đứa trẻ nên anh nghĩ tôi vẫn còn đi học? Tôi không rõ, nhưng tôi biết, anh là sản phẩm của một nền Cộng Hoà Xã Hội khác.
- Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.
Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đỏ kè, tôi nhìn kỹ vào trong đôi mắt đó cố tìm chút hy vọng ngày mai. Ðã có ai nói với đứa trẻ ăn xin Em là tương lai của đất nước?
Tôi bước chân lên các bậc thang gỗ. Tôi đã bước chân lên các nấc thang này bao nhiêu lần suốt tám năm theo học trường dòng này? Thớ gỗ đã không còn láng bóng, đen kịt, phát ra những âm thanh thời nhỏ, không phải âm thanh vui tươi nhưng thứ âm thanh sợ hãi mỗi khi sư huynh giám học Sébastien Huyến, sư huynh Albert Tiên, sư huynh Marcien Thiện rình rập ở trong bóng tối nhào ra tát lấy tát để vào mặt đứa học trò đã ngu dại nói chuyện trong lúc lên thang. Tại sao các sư huynh đánh đập tương lai của đất nước? Tôi không hiểu, nhưng các bạn tôi đã bị đánh những trận đòn thâm tím mình mẩy. Sư huynh Martial Trí ám danh Martel cổ lùn, có lối trừng phạt kỳ lạ, bắt nam sinh tụt quần lấy roi tết bằng giây điện tháo vỏ bọc cao su quất vào mông, sư huynh Fortuna Phong tổng linh hoạt ám danh Hủ Lô bắt hít đất lấy chân mang giày Tây đè lên lưng cho thêm nặng, sư huynh phó hiệu trưởng Jourdain Thiện cao trên thước tám luôn xoắn lỗ tai học trò nhấc cao quá đầu rồi thả rơi xuống đất đánh bịch như mít rụng.
Tôi ngồi ở bàn học tôi đã ngồi thời bé, cố tìm trên mặt bàn những hình khắc bằng compas thời nhỏ. Nền trời nhiệt đới xanh biếc. Sắc xanh đùa giỡn vài cụm mây trắng. Ngô Trọng Thắng, con trai đại tá Ngô Trọng Oánh đặc khu trưởng đặc khu Một than:
- Ê lão Hải Việt Văn sắp Hồ Zếnh nữa rồi kìa mày.
- Hết ba con chó con mèo của Tô Hoài rồi đến con gà trống của Hồ Zếnh, kim văn gì chán thấy bà nội.
Lâm Ngươn Tuyến, cháu đề đốc Lâm Ngươn Tánh phun nước miếng.
Tôi cũng thấy chán, không hiểu tại sao thầy Hải không bình giảng Z-28 Bí Mật Hồng Kông, Bắc Kinh 72 Giờ Nghẹt Thở hay Kinh Nước Ðen của Nguyễn Thụy Long hấp dẫn hơn nhiều. Tôi nhìn qua cửa sổ, nền trời xanh đến lạ lùng. Bóng chiếc phi cơ đang bay nổi ửng trên mái bệnh viện Grall vẽ chử thập đỏ. Tiếng nổ ầm khủng khiếp sau đó. Tiếng nổ chát chúa vỡ oàng làm vỡ kiếng hất cả đám ngã chúi. Sức gió muốn thổi bay mái trường, bảng đen tượng Chúa rơi xiêu vẹo. Tiếng nổ thứ nhì chói tai bật tung các cánh cửa, cả lớp nhốn nháo hỗn loạn, thầy Hải bỏ chạy khiến cả lớp ùn ra như ong vỡ. Cả đám xô lấn chen giẫm chạy xuống thang đã đặc nghịt học sinh của các lớp khác. Tiếng đại liên cao xạ lúc này bắn lên như mưa, như có ai đốt nhiều băng pháo đại cùng một lúc. Tôi hoảng sợ xanh tái, chiến tranh tôi chờ đợi, chuẩn bị đã đến. Các sư huynh cố gắng xếp chúng tôi dưới chân thang, còi hụ khắp nơi, xe quân cảnh chạy qua đường Nguyễn Du rầm rầm. Thầy xuất hiện lúc đó, Thầy lo âu lặng cứng đến đón tôi đang ngồi bó gối sợ hãi dưới gầm cầu thang. Tôi ngã vào tay Thầy tìm che chở. Chiến tranh của Thầy đã thành chiến tranh của tôi. Nỗi lo sợ của Thầy đã thành nỗi lo sợ của tôi. Buổi sáng tháng 3 nền trời cũng xanh như bây giờ, vẫn những cụm mây trắng trôi bềnh bồng, tiếng lá me reo rụng đầy đất, vẫn lối đi này, cầu thang gỗ đó, nhưng Thầy không bao giờ còn đến đón tôi nữa. Tháng 3-75 khi đánh bom dinh Ðộc Lập, người phi công bội phản Nguyễn Thành Trung có biết ông đã phá nát một tuổi thơ? Tất cả vỡ tan từ lúc đó.
*
Tôi trở về nhà tìm chỗ trú ẩn. Cội giấy vắt lên bức tường trắng K đã xây cho Bà sau khi hóa quỷ. Cội giấy đỏ thẳm sáng rực khi tôi về tới. Rặng giấy bao lấy ngôi biệt thự um tùm cây cối. Bà như người đánh cờ tướng mất hết xe pháo mã, mất hết sĩ tượng, nhưng gỡ gạc chiến thắng bằng cách chiếu mặt. Tướng vồ Tướng. Sau mười năm đơn từ khiếu nại, sau thuế siêu ngạch, đánh tư sản, tịch biên, Bà đòi được villa Thủ Ðức, hay đúng hơn chính quyền đền cho Bà ngôi biệt thự khác, 300 thước vuông đánh đổi villa Yersin 2500 thước đất. K đã hóa quỷ, nhưng anh vẫn giúp Bà trang trí nội thất, lợp lại mái, sơn phết tường vách bằng những đồng quan tiết kiệm dành giật với thần chết. Khi tôi bước chân qua cổng, nắng buổi chiều hắt lên những giò phong lan treo rũ tinh khiết, ánh nắng ửng ở từng cánh, đang hé, như ánh mắt K trong suốt thời trẻ. Bà vẫn ngồi ở ghế tràng kỷ, tuồng không hề đi đâu. Hai vạt áo dài Bắc cổ cao vồng lên trong quá khứ bay chập chờn giữa các ngôi mả buông rũ chấm tậnáđôi hài cườm trên đất. Bà ngồi ở ghế tràng kỷ yên lặng, giống Bà chưa hề rời đất Bắc. Tuồng Bà đang ngồi đợi Ông bị Việt Minh bắt đi năm 45 không bao giờ có tin tức. Bà không bao giờ quay lại đất Bắc mặc dù biết bao lần tôi mời Bà cùng đi, Bà đã từ chối. Tôi khám phá không chỉ mình Bà, cô chú trong họ, sui gia, không ai còn muốn trở ra Bắc, dầu chỉ một lần thăm viếng, nhìn lại.
Bà ngồi ở ghế tràng kỷ im lặng. Sau lưng cặp liễn, bàn thờ gia tiên, lư đồng đánh bóng. Rõ ràng Bà chưa hề đi đâu, cách bài trí Hà Nội tiền chiến, bức bình phong cẩn xà cừ, hàng mành trúc lay động, chậu thược dược tím, những cành đào dịp Tết đài các, mọi thứ vây lấy Bà hay đúng hơn chính Bà xếp đặt tất cả. Chính Bà đã chuyển hoán chi tộc của Thầy từ Hoa sang Việt, chính Bà giữ nếp nhà Bắc, quyết định không nói tiếng Hoa trong nhà, mặc dầu Thầy vẫn nói tiếng Tàu với chú Hênh, chú Xá, cô Màn, viết thư bằng chữ Phổ Thông cho chú Ích du học Ðài Loan, nhưng Bà nhất quyết gởi chúng tôi học trường Tây, nhất quyết chọn Bắc Việt Nghĩa Trang làm nơi chôn cất gia tộc mà lẽ ra, phải là nghĩa trang của các bang hội Triều Châu, Quảng Ðông, Phúc Kiến. Bà luôn kiêu hãnh khi nhắc về bên ngoại thuần Việt. Bà không cho phép gọi Thầy bằng Pá, không cho phép ăn xíu dề mỗi khuya, không cho phép khạc nhổ như Ông Chú thường hay khạc nhổ mà Bà luôn cảm thấy bẩn.
Tôi ngồi xuống ghế. Sạp gụ cẩm lai cẩn mình rồng thuở nhỏ tôi rất khổ sở khó chịu, mỗi khi ngồi dựa vuốt rồng đâm suốt lưng. Chỉ còn vài tiếng nữa là Giao Thừa. 17 năm tôi chờ đợi phút này, trở về ngôi nhà Bà hưởng đêm trừ tịch của trời đất, trong không khí thiêng liêng, trước bàn thờ tổ tiên. Tôi ngắm chậu quất vĩ đại chi chít trái, dẫy cúc bó xôi tròn xoe như mâm cỗ, bát thủy tiên ngâm nước bắt rễ tựa những củ hành nhỏ trổ hoa trắng. Tất cả thay đổi chóng mặt. Lần về đầu tiên tôi kinh hoảng chứng kiếng Bà sinh sống trong một ổ chuột, toàn bộ căn nhà đường Hai Bà Trưng cán bộ ở chật cứng, Bà chỉ còn duy nhất mỗi một phòng con, vừa nấu ăn, vừa lễ bái, tất cả bàn ghế đồ đạc Bà phải đem gởi. Tôi trở về, chị N phải cho bé Nhí bú dưới chân thang vì căn phòng quá hẹp không đủ chỗ. Anh T, chồng chị ngồi đợi ở lề đường. Suốt đêm tôi nói dối quanh co về K, nhìn con chuột chui ra từ bàn thờ đánh đu trên giây điện. Suốt đêm bé Vinh kinh ngạc ngắm lũ thạch sùng di chuyển dưới bóng đèn. Bé Vinh chưa biết xếp bì bắn như tôi hay bắn thời nhỏ rồi nhìn chiếc đuôi thằn lằn rượt theo khúc thân đã quên mất một quá khứ từngácó đuôi. Một buổi trưa tôi ra mua cóc, chị N hỏi bao nhiêu, tôi trả lời 10 ngàn ba quả. Chị dẫy nẩy, con Lài con Dì Sáu nó điêu, một quả chỉ một ngàn thôi, con Lài nó thấy Việt kiều nó chém. Tôi cản, nhưng chị đã ra đòi tiền, chị không đòi được đồng nào, con Lài đưa thêm một quả cóc. Một năm sau tôi trở về, anh T mất, anh tai biến mạch máu não, chứng bệnh thời trang của đất nước, anh cũng lên tháp. Chị N khăn tang ủ rũ. Tôi đi qua những đường phố không nhận ra phố xá mình đã đi qua, sinh sống 16 năm liền. Tôi đi ngang ngôi nhà tuổi thơ ở phố Hai Bà Trưng-Tân Ðịnh mới về năm trước đã hoá mini hotel Ðức Huy. Tôi đến tìm Ngọc Mỹ, người bạn gái đầu tiên những trưa nắng tôi ngắm say mê mái tóc màu hạt dẻ buông lửng lơ trên lưng áo dài lấm tấm giọt mồ hôi thiếu nữ. Ngôi nhà gia đình Ngọc Mỹ ở số 221 Phạm Ngũ Lão cũng đang hóa mini hotel. Tôi cảm giác nguyên đất nước biến thành khách sạn, kể cả tình cảm vụn vặt nhỏ nhoi của chính mình cũng trở thành khách sạn. Khách sạn? Ðồng nghĩa phù du, một đêm, một tuần, 24 tiếng. Trên đất nước này còn gì tồn tại lâu hơn nữa?
- Dù không anh?
Cô gái mang gương mặt trắng quen thuộc. Thiếu nữ ngồi dưới gốc đa vẫy. Tôi nhìn kỹ cô gái trong chập choàng của bóng cây vươn tàn rộng mênh mông. Tôi nhận ra tức khắc lối vào nghĩa trang. Không sao có thể lầm lạc, vẫn dẫy tường vôi vàng này dù đã sụp lở phân nửa. Chỗ này rào kẽm gai phân chia Tân Sơn Nhất, chỗ kia sau bãi cỏ mọc hoang bây giờ dựng lên quán bia bình dân là chỗ tượng Bồ Tát bằng gạch đen. Lô đất phía đó đắt hơn phía bên này, Thầy hay nói. Dáng ngồi thiếu nữ y bà cụ bán nhang của nghĩa trang, cũng túi ny lông phủ mặt, áo mủ che mưa xếp dưới chân, giọng Bắc trong trẻo. Gốc đa chỗ Thầy ngừng mua nhang buông thõng những chiếc rễ có lần K đã hù sẽ dùng thắt cổ, những rễ ma vẫn còn loằng ngoằng. Thiếu nữ mang gương mặt trắng quen thuộc. Tôi cố nhìn kỹ bàn tay cô gái xem có ngón nào bẻ quặp vào trong.
- Dù thoải mái đi anh, bốn chục nghìn thôi em không tính điêu đâu.
Tôi cố nhìn kỹ xem cô gái có còn nhuộm răng, có còn nốt ruồi dưới mí mắt.
- Dù đi anh, em bảo hành khả ái.
Con hẻm không thắt hậu nhưng nở phình ra thành bãi đất giống quái thai đầu mọc dưới đít. Tôi trở về nhà tìm chỗ trú ẩn. Tôi trở về nhà trông thấy nắng rơi thảng thốt lên rặng giấy còn mang ánh mắt K u tối. Bà ngồi ở ghế tràng kỷ. Bàn thờ gia tiên nghi ngút khói. K đã thắp nén nhang cuối cùng trên bàn thờ này buổi sáng vâng lời Bà ra đi vĩnh viễn. Tôi ngồi xuống ghế. Sạp gụ cẩm lai cẩn mình rồng tua tủa thuở nhỏ tôi rất khổ sở khó chịu mỗi khi ngồi dựa vuốt rồng đâm buốt lưng. Bà ngồi ở tràng kỷ. Tôi mang gương mặt của đứa trẻ trong hình 17 năm sau trở về đối diện Bà. Tôi đếm một, hai, ba, như tôi vẫn thường hay đếm trước những ngôi mả xanh mướt ánh mắt người chết. Tôi đếm một, hai, ba, ngậm chậu thược dược tím bầm trong miệng.
05/ 01/ 03