Từ ngàn đời, và mãi mãi sau này, phía trước mỗi con người vẫn treo lửng lơ cái mong muốn (mà tâm lí dễ đánh đồng với cái thực có), mong muốn được tồn tại sau sự hữu hạn của cuộc đời mỗi cá thể. Do đó nảy sinh biết bao cách lí giải cho ‘câu hỏi của mong muốn’ đó của quá đông đảo con người, của quá quá nhiều thế hệ qua hun hút mênh mang thời gian, lí giải bằng muôn hình vạn trạng của cách tưởng tượng rất có hệ thống của từng tín ngưỡng tôn giáo, của riêng mỗi cộng đồng nhân loại, cách tưởng tượng rất khác nhau mang đậm đặc tính thể chất, màu da, phong tục từng chủng tộc.
Cái nhu cầu của đời sống tinh thần và tâm linh ấy là thực sự, nhất là vào những nguyên kỉ thiên tai, những thời đại nghẹt thở bị đè nén quá mức, trái tim và tinh thần bị coi nhẹ.
Nhu cầu tâm linh ấy rất nghiêm túc, rất quan trọng (sự ‘tảng lơ’ nó chỉ là do sợ chuyện tử sinh, hoặc do không trung thực) và đã khiến cho nhân loại nói chung chấp nhận tôn giáo.
Xã hội văn minh tôn trọng tín ngưỡng, tự do tín ngưỡng, vẫn có xu hướng dựa vào nó để nâng đỡ đời sống tâm linh và để hướng quảng đại cộng đồng vào điều thiện.
*
Nhưng sang thời đại tin học với kinh tế tri thức hiện nay, khoa học kĩ thuật và công nghệ cao đẩy lùi dần những mê tín dị đoan phi khoa học (nhiều khi quá mức đến thực sự buồn cười) đòi hỏi một khái niệm mới khác về tôn giáo. Bức xúc nhu cầu một tôn giáo phù hợp tiến bộ như vũ bão của cách mạng khoa học hiện nay mà sắp tới khoa học sẽ còn phát triển một cách nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Sự bức xúc ấy càng nổi cộm cũng hơn bao giờ hết khi xã hội hiện đại toàn thế giới lại đang đối mặt với biết bao bất ổn và khủng hoảng chưa từng thấy về nhiều dạng mất quân bình, với tâm hồn dần cạn kiệt đến trở thành vô cảm, với ‘nhắm mắt tôn thờ vật chất’, dại dột ‘đánh mất một nửa mình’, mất đức tin, thậm chí tha hoá lúc nào chẳng hay...
Nếu ‘Con đường’(đạo) xử thế mới sẽ ra đời ấy mà vẫn mang chút ít tính chất tôn giáo truyền thống, nhưng trong đó không có thần linh, không xây dựng trên nền những tư tưởng thần học, mà lại xây dựng trên nền tảng khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, tương ứng phù hợp những phát minh khoa học hiện đại (ví dụ ‘vật lí hạ hạt’), thì sẽ càng thích hợp, cần thiết và có sức thuyết phục.
Đạo lí dung thông phù hợp với mọi tôn giáo hiện có và đặc biệt quý báu cho những người không tin phép lạ, ma quỷ, dị đoan, hoặc không thuộc tôn giáo nào.
CÔNG DỤNG CỦA DUNG THÔNG
“Thời-không gian vô biên
Dung thông – thuyền vô địch” (HD)
Dung thông có công dụng rất lớn. Nhưng công dụng lớn lao ấy diễn ra hết sức tự nhiên, như không khí vậy, nhìn không thấy, lắng không nghe, nên ta thường không ý thức về nó.
Nay ta biến nó trở thành nếp suy nghĩ và phong cách sống, lao động, sáng tạo, yêu thương thật sự của ta. Ta chủ động ý thức về nó, hiểu nó là Đạo lí, lấy nó làm kim chỉ nam tự kiểm soát mình và luôn tự biết đang đi về đâu. Ta đạt mức giác ngộ đạo dung thông và cứ trên Con Đường (đạo) ấy ung dung chủ động thẳng tiến, phát triển mãi. Nếu làm được như thế thì tức là ta hành động thuận theo quy luật, nên hiệu quả hơn mà hợp nhân nghĩa hơn.
‘Hiệu quả hơn’, thành công hơn, nhưng tất không khoe, không tự kiêu, vì hiểu việc ‘thuận theo quy luật’ đâu là chuyện để kiêu và khoe khoang tầm thường.
Đạo dung thông tạo nhiều tác dụng tốt đẹp, ta xét từ cái đơn giản nhất:
1. STRESS. Nó giúp mỗi người tự giải thoát các stress, các rối rắm trăm sự trên đời, đầu óc trở nên trong trẻo lạ lùng, do đó tạo được chất lượng sống và hiểu được ân sủng hưởng sự sống giữa cuộc đời không bao giờ nhàm chán:
Dung thông – ngọn suối mát lành
Cao nguyên lồng lộng mãi xanh bầu trời. (HD)
Nếu không biết dung thông qua lại và đa phương thì làm sao giải toả được (bằng giải quyết và quên lãng) các stress, các giả dối vớ vẩn nhố nhăng, các bực bội buồn phiền luôn đeo đẳng níu kéo. Không chỉ xử lí stress, rèn luyện tâm đạo dung thông còn tạo sự đề kháng cao đối với mọi stress, giúp tâm an tịnh trước mọi khen chê, được thua, thành bại, mọi bước thăng trầm. Không là để trang điểm mà chính là để lập lại quân bình tình cảm - trí tuệ. Chúng tôi thường nghĩ:
Rốt cuộc lại cái mà đời mỗi người phải đạt tới là sự thanh thản tâm hồn. Về ý này, F. De Sales (1567-1622, Thụy Sĩ) có câu: “So sánh với sự thanh thản của tâm hồn thì mọi vật ở thế gian này phỏng có nghĩa lí gì.”
2. KIẾN THỨC. Khi chúng ta bắt đầu thực hiện đạo dung thông, ta có thể nửa tin nửa ngờ, khi thì làm theo, khi thì bỏ. Nhưng nếu ta ứng dụng một cách nghiêm túc, bền bỉ thì từ đó ta sẽ nghiệm thấy tác dụng lớn lao về rất nhiều mặt, ngay như kết quả việc học hành. Đạo dung thông làm đầu óc như sáng láng hơn, tiếp thu kiến thức sâu hơn, gắn với nhiều thực tiễn, chọn lọc hơn. Sự tiếp thu kiến thức theo đạo dung thông không được thụ động, phải như sự trao đổi (dung thông) qua lại năng động, lại kèm dung thông với các kiến thức đã có, với các thực tế liên quan, thậm chí biết nghi vấn và kiểm tra. “Mỗi con người có thể sử dụng và nhất thiết phải sử dụng tất cả những gì lí trí tổng hợp của loài người đã tạo ra, nhưng đồng thời cần vận dụng lí trí riêng mình mà kiểm tra lại …” (L.Tolstoi). Và cao hơn nữa, góp chút bổ sung sáng tạo nâng cao, nếu được. Sự sáng tạo rất nhỏ nhưng có thể rất sâu rộng vì đã được xây dựng trên nền tảng tri thức toàn nhân loại cho đến thời điểm đó, hay như cách nói hình ảnh của Newton, “vì đứng trên vai người khổng lồ”. Sự tiếp thu kiến thức chủ động như thế trong đạo dung thông hoàn toàn xa lạ với cách học lười biếng, giả tạo, dối trá, hợm hĩnh, và càng xa lạ hơn với sự thâm độc sử dụng kiến thức cho ý đồ đen tối nữa. Rồi qua đạo dung thông, khi hiểu kiến thức đương thời luôn vươn đến đích cao phía trước ta cần cập nhật mãi, khi ta biết nhận thức rằng mình còn dốt (nhiều kiến thức cần mà chưa biết, cái đã biết lại sai hoặc ‘phản-hiểu-biết’) tức là ta tiến một bước dài dẫn dần đến sự hiểu biết thực sự. Thấm đạo dung thông, ta càng rõ Hiểu Biết là sức mạnh, lại làm ta khiêm tốn, không bao giờ bảo thủ, tự mãn để không ngừng đổi mới tư duy.
Kiến thức, hiểu biết còn trực tiếp làm thuần nhất tâm hồn, trong khi sự ngu dốt dẫn đến sự hỗn độn tâm hồn. Tuy từ chỗ hiểu đời tới chỗ sử dụng được vốn đó còn rất xa, nhưng tầm nhìn đã rộng lớn hơn, đến như bao trùm ngay cả việc làm cho tâm hồn ta trở nên bao dung và độ lượng hơn biết bao, tránh được thói thường hẹp hòi, kì thị, thành kiến, thù ghét khi ta thấu hiểu những kẻ lầm lỗi nhất như ta tự hiểu chính ta, nhân vô thập toàn, và cũng không ai hoàn toàn xấu.
Trong sự tiếp thu kiến thức, nhờ luôn luôn đối chiếu, gắn kết, dung thông giữa trí và tâm nên không phiến diện và cực đoan. Trau dồi trí tuệ biết đủ mọi việc, nhưng không thể chỉ biết có trí, mà còn phải phối hợp trau dồi tâm do đó hạn chế việc sử dụng trí với mục đích tiêu cực, tạo sự thăng hoa của trí, có khi giúp tạo nên ý chí sống cho bản thân nữa. Điều này quả thật bất ngờ, quan trọng, và lí thú. Cho nên, con người ta rồi có thể nhàm chán tất cả trừ kiến thức.
3. VĂN HOÁ. Đạo dung thông còn thúc đẩy ta luôn nỗ lực dung thông hai chiều (vào và ra, nhận và trả) làm giàu tư tưởng, văn hoá’, còn làm giàu nghệ thuật và khoa học cho bản thân mình và góp phần nhỏ cho đời. Và chính phương pháp sáng tạo nghệ thuật và khoa học bao giờ cũng là sự tận dụng tốt nhất các vạch nối dung thông giữa các vẻ đẹp (nghệ thuật), giữa các hiện tượng hoặc quá trình (khoa học). Và cả cách nâng cao phương pháp học tập và dạy học cũng là tận dụng tốt nhất các vạch nối dung thông giũa các đối tượng học.
Văn hóa được nâng lên sẽ mang lại kho báu thật hứng khởi, tạo niềm vui và hạnh phúc. Nó buộc ta phải biết nhuần thấm sâu bền tinh hoa từ truyền thống dân tộc đã liên tục chắt lọc, thử thách qua thời gian; biết nhiệt tình đón nhận có chọn lọc tinh hoa từ các dân tộc khác, từ thế giới hiện đại, tiến kịp bằng người mà không lai căng rởm đời mất gốc. Cũng có nghĩa rằng nó buộc con người phải biết thưởng thức mọi cái đẹp, thưởng thức tinh tế cuộc sống, chống lại chủ nghĩa khắc khổ của tâm hồn nghèo nàn, khô cứng. Ai không thích, không biết thưởng thức cuộc sống thì có thể coi như đã chết từ lâu, hoặc đã chết suốt cả đời mình.
Trong việc làm phong phú tư tưởng, văn hoá và khoa học, đạo dung thông buộc ta theo cách chan hoà, hoà nhập vào thiên nhiên. Nhà thơ Ấn Độ Tagor vĩ đại khuyên ta mỗi sáng thức dậy hãy cảm ơn Thiên nhiên cho ta một ngày mới, một hiện tại diệu kỳ. Và chan hoà, hoà nhập vào xã hội và những cộng đồng, vào thực tế sản xuất. Các việc hoà nhập, chan hoà, giao hoà, giao lưu, … như vừa nêu đều là những khía cạnh bao hàm trong lẽ dung thông. Nó coi trọng sự giao tiếp, mà nếu không có, ta làm sao thấu hiểu mỗi người nói riêng và nhân tình nói chung. Nó dạy ta trong các giao tiếp ấy, không chỉ sử dụng lí trí, mà cả con tim nữa, luôn cố đi vào tâm hồn người đối thoại, thường do biết mở rộng lớn lòng mình trước, nhưng ít phạm lỗi lầm, sẽ tránh đổi bạn thành thù mà có thể đổi thù thành bạn. Giao tiếp đó phù hợp phong tục của người Việt Nam “người năng chào thì quen”.
4. BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC. Việc tự đào tạo đạo đức tức “bù chỗ bất cập, bớt chỗ dư - chỗ thái quá để mà lập lại” (như cách nói của Lão Tử), thì cứ tự nhiên mà đạt được là nhờ ở ‘dòng-dung-thông-chiều-đi-vào’ đi từ bên ngoài vào bên trong lòng mình. Trong rèn luyện ấy, sự điều chỉnh mọi thái quá và bất cập, tức lập lại cái quân bình hoàn thiện hơn để đạt sự tiến hoá, diễn ra dễ dàng chính là nhờ nguyên lí dung thông đó.
Với ‘dòng-dung-thông-chiều-đi-ra’ đi từ bên trong ra bên ngoài, ta chủ động kiểm soát toàn bộ đạo xử thế và uốn nắn động cơ mọi hành động không cho biến thành thiếu trong sáng: nào tư dục, vụ lợi, đạo đức giả, lừa đảo, đố kị, kiêu ngạo. Đạo dung thông không tạo kiêu hãnh ngu ngốc của điệu bộ mà tạo tự hào chính đáng của tâm hồn. Đạo dung thông dạy ta phải khiêm tốn, hiểu mình chỉ là một phần tử vô cùng nhỏ bé của cộng đồng, một cái “không gì cả”(‘un rien’ như Kristnamurti ở Ấn Độ thường nói).
Xử thế này phải lấy kết quả sự tự giác làm gốc là vì vậy.
5. LÒNG THAM vô đáy do “bất tri túc, tri chỉ” (Lão Tử) (không biết đủ, biết dừng), thì sẽ bị nhục. Rồi lại do vị ngã, thậm chí lòng ‘ích kỉ hại nhân’ gây ‘nghẽn tắc dung thông’, không nhìn ra trước-sau, trên-dưới thì sẽ là một đại họa trong đời, không có gì đáng sợ hơn, nó chính là nguồn gốc bao tai họa cho cá thể và bao người xung quanh. Chuyện ‘pháp đình’ những tên tham nhũng ‘hiện đại’ liên tục mấy năm nay (và mấy năm tới đây) đến rởn gáy là những minh chứng hùng hồn. Với lòng yêu nước nồng nàn, phải ghét cay ghét đắng, biết chống lại các xấu xa vơ vét trên mồ hôi nước mắt và cả sức khoẻ tính mạng đồng loại do không tường đạo dung thông ấy, thì mới biết yêu sâu sắc các đức hạnh. Kẻ bạo ngược hung tàn khác bậc đức độ hiền nhân, thực chất là ở chỗ không hiểu tâm đạo dung thông.
Với đạo dung thông, có thể nào chấp nhận thực dụng kiểu chỉ ích kỉ lo cho phần mình, còn mặc mọi người khác ‘sống chết mặc bay’? Nói chuyện thế giới và xã hội cũng vậy, xưa và nay bao giờ cũng là thế giới và xã hội dung thông, nhiều hay ít mà thôi, trong đó khác nào một cơ thể sống, bất cứ tế bào nào cũng hỗ trợ, ảnh hưởng tới các tế bào khác hoặc ngược lại có thể phá huỷ các tế bào khác. Vậy nên nếu cứ thái độ mặc nước khác ‘sống chết mặc ai’, thậm chí không tôn trọng quyền lợi, chủ quyền, bản sắc của dân tộc khác thì thực tế việc ‘toàn cầu hoá’ bị sai lệch.
6. TÌNH THƯƠNG. Vấn đề ích kỉ / vị tha trong lẽ dung thông vừa nêu là cùng một hàng (bình diện) với những vấn đề ác / thiện, thù hận / tình thương đã muôn đời nằm trong cốt lõi tất cả các tôn giáo. Đạo dung thông nhấn mạnh hàng đầu sự dung thông tình thương vì điều cơ bản nhất mỗi người là lòng nhân. Cũng như trong Phật giáo, Ấn Độ giáo, Thiên Chúa giáo, triết học Lão Tử nêu “đầu hết là một chữ Từ”. Đạo dung thông là cơ sở cho mọi Từ thiện và từ bi bác ái nữa. Nếu người này không giúp đỡ người kia, thì làm sao sống đàng hoàng ra Con người được. L.Senèque ở La Mã thế kỉ 1 từng khẳng định: “Người ta sinh ra đời là để sống cùng nhau”, còn R. Descartes ở Pháp thế kỉ 17 thì nhấn mạnh: “Ta sẽ không có giá trị gì hết nếu không hữu ích cho ai cả”. Chúng tôi muốn kéo dài câu trên bằng mệnh đề “… thậm chí không quan tâm, không tinh thần trách nhiệm đối với ai cả!” Đạo dung thông hoàn toàn đối kháng cách sống không phát đi sự dung thông nhân ái lại cứ ăn ở bất nhân. Dung thông là nghệ thuật quên mình và thi hành cái thiện.
Nhưng những công việc từ thiện cụ thể phải xuất phát từ trong lòng, và không chỉ ở bố thí tiền bạc, mà cốt ở sẵn sàng cứu giúp những người gặp hoạn nạn, khó khăn, ở cử chỉ của từ tâm thực sự với mong muốn làm vơi bớt những thống khổ:
Bác ái lặng dung thông
Mới hiện hồng nhân phẩm. (HD)
7. TRÁCH NHIỆM NHẬP CUỘC. Xử thế theo đạo dung thông không thể dửng dưng ngồi bên ngoài xem (quan sát viên trên khán đài) mà phải tự giác trách nhiệm nhập cuộc để đáp trả dung thông: trực tiếp tham gia, gặp gỡ, cảm thông, chung vai gánh vác.
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ, bài Nợ tang bồng)
Danh đây không phải là danh lợi kể công, mà tức là phải có đóng góp gì dung thông “với núi sông”, với tổ quốc (đồng bào, tổ tiên và hậu duệ), với đồng loại. Công ăn việc làm dầu đơn giản nhất (có khi chưa đủ nuôi sống cho bản thân) vẫn không được “như con trâu cày không hiểu ruộng của ai” (cách nói của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng), mà phải hiểu ý nghĩa cao quý đóng góp dù một phần rất nhỏ với nước nhà, với đồng loại…, bày tỏ sự tri ân đền đáp tổ tiên, gia đình, tổ quốc… vậy, vì lẽ mỗi cá nhân đều là tổng hoà những dòng dung thông ấy. Và sự giác ngộ tâm đạo Dung thông càng sâu thì càng có lương tâm đền đáp bằng ‘nhất nghệ tinh’ ngày càng trau dồi để có sáng tạo. Nói chung con người ta khi đã tìm ra và khẳng định được việc (hoặc nghề) chính cho cả đời mình cần làm tốt (ví dụ nghề y khoa, kinh doanh, hay thơ…) thì phải bằng Dung thông tinh tế biến nó thành lẽ sống, thành ‘bạn đồng hành’ của đời mình, phải vì đích Dung thông làm nó thật tốt bằng tất cả tâm hồn, nhiệt huyết, tài trí, kể cả mọi khả năng khác. Còn nếu chẳng nghề nghiệp gì, hoặc không làm gì hết, hoặc khoẻ mạnh mà chỉ ăn bám - hưởng thụ ân sủng người khác dù là tiền ‘nước ngoài gửi về’ hoặc gia tài ông bà cha mẹ để lại, thì tức là sống vô trách nhiệm, quên nghĩa vụ, ‘quỵt’ sự dung thông đáp trả, không sòng phẳng với đời vậy.
Hoặc giả một đời lao động trí óc hoặc chân tay tích lũy được nhiều kinh nghiệm mà không dung thông truyền lại, ‘chết đem đi’ thì làm sao nhắm mắt trong thanh thản bình yên được?
8. TUỔI NÀO CŨNG LÀ MỘT KHÂU TRONG CHUỖI DUNG THÔNG. Nếu quay trở về những năm tháng của thuở ấu thơ mà nhìn lại, ta thấy đạo dung thông buộc “tuổi nhỏ phải chăm học” cho giỏi, kể cả công nghệ tin học hiện đại, ngoại ngữ… để liên thông tiếp thu tốt được từ quá khứ và từ thế giới đương đại nhằm nâng tiềm năng dung thông sau này, để sẽ luôn gặt hái nhiều thành quả,
Xuân hạ, sợi kim còn dũa chẳng ngơi
Nên đông đời mùa vụ tới bời bời. (HD)
không chỉ để ‘trả nợ’, mà hiến dâng đời một cách đích đáng nhất. Và như thế, cuộc đời-học hành-phấn đấu đi liền một mạch, là một chuỗi dung thông liên hoàn không đứt khúc kể từ ấu thơ:
Luôn ngờ ngợ ta là
Thoáng dư âm “đồng ấu” lớp xưa xa. (HD)
Trong chuỗi dung thông ấy, những đọan trước (và cả những đoạn của tương lai) đều dung thông với hiện tại và tạo dựng hiện tại. Cần phải để cho những ngày những quãng, những ký ức đẹp nhất của tâm hồn luôn dung thông tạo nên sự tự hài lòng và sức mạnh tinh thần.
9. TÌNH YÊU. Đạo dung thông coi tình yêu chân chính là nghệ thuật của hai con tim tạo nên mối dung thông hai chiều hanh thông, trọn vẹn, đằm thắm nhất, không phải chỉ về tình dục bản năng nhất thời mà tình yêu trong dung thông vừa thiêng liêng, cao cả, vừa mỗi ngày mỗi tinh tế thêm về tình dục, và có thể còn quan trọng hơn nhiều, về toàn bộ đời sống tâm hồn, tinh thần, sở thích, tâm lí, và về lí tưởng, quan niệm, tập quán nữa. Chẳng thế mà nhiều khi Yêu say đắm sâu sắc là do dung thông được vẻ đẹp tâm hồn đích thực xuyên vượt qua được cả những khiếm khuyết hình thức có thể có.‘Vi nhân nan’ (làm người – khó) thì trong đó ‘tình yêu vô cùng quyến rũ nhưng lại càng vô cùng khó’.
10. CHIA SẺ. Dung thông là đạo công bằng với nguyên lí sẻ chia của đạo dung thông. Nguyên lí này thiêng liêng vì nếu dung thông tích luỹ vào mà khư khư giữ riêng cho mình, không dung thông sẻ chia ra cho ai là không sòng phẳng, không công bằng, phạm quy tắc chỉ một chiều, thiếu thuận-nghịch có đi có lại, được-cho, nhận-trả kể cả nhận của quá khứ (ví dụ nhận công đức tiền nhân bao thế hệ) phải trả cho hậu thế, tuyệt đối không vong ân bội nghĩa. Nguyên lí này rất là hữu ích, và không thể thiếu:
Dung thông khát khao chia sớt
Vơi nhẹ bớt cô đơn. (HD)
Thu nhận vào đầy ắp mà không sẻ chia ra được thì con tim khối óc có khi không thể chịu nổi, như muốn vỡ tung ra. Hơn nữa sẻ chia, hiến dâng, cho người khác – không phải là mất đi mà là nhân lên, trước sau vẫn trong dòng lưu chuyển của dung thông. Lão Tử xưa, trong đoạn chót tác phẩm chính của mình là Đạo Đức kinh từng có câu:
“Càng vì người, mình càng thêm có,
Càng cho người, mình càng thêm nhiều.”
Như vậy đích thực vì người, mà kết quả cũng tốt đẹp cho mình: càng giàu thêm, nhưng là giàu hi sinh, giàu lòng nhân ái, giàu cái đức sáng thêm mãi, giàu vì ‘tri túc’ không thèm muốn. Tức cũng giàu hạnh phúc.
11. HẠNH PHÚC là trạng thái tinh thần tình cảm và thể chất (tạm nói gọn là ‘tâm thể’) khi hưởng quyền yêu và được yêu, một dạng đặc thù của dung thông hai chiều; nội dung của cái dung thông trao cho nhau ở đây lại chính là hạnh phúc. Hạnh phúc cũng là khi biết san phần thụ hưởng của mình cho người khác. Cho nên thói vị kỷ đòi cho riêng mình thứ hạnh phúc tuyệt đối là điều không tưởng vậy. Dung thông dạy Hạnh phúc chỉ là một khái niệm tương đối, nó chính là điều bình dị, là chỗ trung dung (không cực đoan). Cứ bình thường, kín đáo, tế nhị là tốt nhất, là hạnh phúc vậy. Trong “trạng thái tâm thể” của hạnh phúc nêu trên phải nói là có cảm giác hài lòng, có sự biết tự hài lòng đã phấn đấu (bằng nhân, đức, hi sinh) đạt được điều đó.
Với quan niệm Hạnh phúc là dung thông, có một cách nói gọn và hình tượng: “hạnh phúc là khi dung thông nhiều hạnh phúc cho người khác” (bạn, người yêu, con cái, đồng bào, nhân quần...). Định nghĩa hạnh phúc đó, ở bình diện rộng, đã từng được phát biểu: “Người hạnh phúc nhất là người dung thông nhiều hạnh phúc cho nhiều người nhất”. Cho nên dù trải bao gian khó, thiếu thốn và cả oan trái, bị hiểu sai … các bậc đại đức đại trí cải tạo xã hội, giải phóng dân tộc, xây dựng triết học, phát minh khoa học kĩ thuật, sáng tác tác phẩm văn nghệ đồ sộ cho nhân loại… vẫn cảm nhận đỉnh cao hạnh phúc.
Vậy đích của đạo dung thông bao la nhường ấy, đâu có là sự thu mình bo bo vào cái ‘tôi’, ‘bản ngã’(the ‘self’), dù cho có là ‘bản ngã đích thực’(‘the true self’) đi chăng nữa.
12. TRIẾT LÝ CUỘC SỐNG. Đạo dung thông giúp ý niệm được phong phú cả ý chí, tinh thần, tâm hồn, ý thức, tâm thức, phương pháp luận … và những vấn đề trừu tượng khái quát hơn nữa của triết học kể cả thế giới quan, nhân sinh quan. Mà “triết học chính là ‘y khoa’ thực sự của tâm hồn vậy” (Ciceron - 2 thế kỉ trước CN). Triết học của đạo dung thông dễ dàng tẩy trừ những nhân sinh quan yếm thế, cô độc và hoài nghi, bởi vì đã luôn có dung thông cụ thể với đời xung quanh tức là những ‘chất đánh dấu’ những dấu ấn tốt đẹp, thú vị.
Đầu thế kỷ 21, khoa học hiện đại, nhất là tin học, đạt những bước tiến khổng lồ, nhưng bộ mặt nhân loại chưa cải thiện tương xứng là vì thực sự có sự khủng hoảng triết học, khủng hoảng về giá trị đạo đức và tinh thần. Có một sự mất cân đối, một sự khập khiễng mà tự ngộ nhận đã thực sự văn minh. Có nguy cơ cái văn minh hiện đại ấy đến một lúc nào đó có thể đáng được gọi là một “nền văn minh ngộ nhận”. Chính vì đòi hỏi thực tế của tình hình ấy mà nghiên cứu, xác lập và thực hành đạo Dung thông càng mang tính thời sự cao.
Muốn làm tốt bất cứ nghề gì, nhất là nghề y, đều cần phải nắm triết học của đạo dung thông. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (Việt Nam) từng nói “Không thông hiểu ‘thiên, nhân, địa’ không thể nói đến... chuyện làm thầy thuốc”. Thời hiện đại có bác sĩ Watanabe (ở Nhật, tác giả “Đèn không hắt bóng”) vẫn nêu “Người thầy thuốc chân chính phải vừa là triết gia, vừa là kẻ tuyên truyền đạo lí làm người”.
Nói rộng ra tâm đạo dung thông là cốt lõi mọi “triết lý cuộc sống”. Ví dụ như về các nhà khoa học, các bậc cải tạo xã hội, các nhà yêu nước trong lịch sử nhân loại và nước nhà vừa nêu trên (mục 11), vì sao họ chịu đựng nổi và vượt qua bao khổ ải đến cùng cực ngoài cả trí tưởng tượng, ta sẽ không thể nào hiểu nổi nếu không hiểu sức mạnh của lạc quan tin tưởng nhờ dung thông trong triết lý cuộc sống của họ.
13. Còn RÈN LUYỆN TÂM HỒN, về thực chất, là gì nếu không phải là khoa học và nghệ thuật để hoàn thiện sự dung thông hanh thông trọn vẹn và thuận nghịch tới mức nhất thể hoá, hoà nhập với thiên nhiên và thế giới chung quanh. Hoà nhập bằng nhiệt tình, say mê và vui đời không ngừng, bằng sức trẻ phơi phới của tâm hồn đi liền một mạch suốt cả cuộc đời, bằng thiện-nhân và lương tâm, trách nhiệm, bằng lao động, tinh thần, tri thức, trí tuệ, văn hoá, cái đẹp và thiên nhiên.
Đạt dần sự hoà nhập mà không phô trương, chỉ lương thiện và thành thật tới mức toả sáng rộng khắp mọi nơi và có mãnh lực thu hút huyền diệu sự dung thông từ biết bao tâm hồn bạn.
Như thế là nhờ dung thông mà tâm hồn luôn được khởi động, phấn khích tức là được rèn luyện, sống vui và hữu ích, không bị rơi vào tình trạng u trệ, vô cảm, nghèo nàn, thờ ơ thành tàn tạ. Trong chúng ta cũng nhiều người có khi than cuộc đời sao ‘vô vị’ và ‘vô nghĩa’: nhờ tâm đạo dung thông ta sẽ dễ tìm lại niềm tin và thấy khúc thời gian dành cho ta thật đáng sống thay!
• Rèn luyện - nuôi dưỡng tâm hồn là sự dung thông để lập lại quân bình tinh thần - tình cảm đúng và đẹp trong những tình huống gian khó, thất bại, tai nạn, khổ luỵ, tật bệnh... Những lúc này cần:
Giữ trong mắt một vì sao mới
Dẫn đường mơ ước tới niềm tin. (HD).
• Trợ giúp cho sự rèn luyện ấy là những bài học từ dung thông tình cảm đẹp của bản thân và của xung quanh mà cuộc đời ai cũng đã trải nghiệm hoặc từ mảng đề tài “Cửa sổ tâm hồn” (cửa sổ cũng chính là vạch nối thuận nghịch hai chiều qua lại của dung thông luận) với những câu chuyện giản dị mà cảm động, sâu sắc.
• Hơn nữa, sự rèn luyện tâm hồn tức là sự dung thông có mang tính triết và luôn cần tính triết ấy, chính vì thế mà dung thông đã dần giúp ta ý niệm được triết lý cuộc sống với nội dung như vừa nêu ở mục 12.
• Và đến một lúc nào đó khi tuổi đã cao, đạo dung thông đem đến cho ta cách nhìn tin tưởng lớp trẻ kế tiếp:
Thực đức thực tài, muôn mái tóc xanh
Kế thừa, dung thông - nối thành vô tận. (HD)
14. Và cả ĐỐI VỚI CÁI CHẾT nữa. Trong công dụng của đạo dung thông về rèn luyện tâm hồn có thể đặc biệt nhấn mạnh kết quả quý báu về thái độ tâm hồn đối với cái chết. Đạo dung thông cũng là Đạo về thái độ đối với cái chết, và có công dụng xử lí thực sự tuyệt vời, không chỉ ở thời điểm đối diện với cái chết mà bằng toàn bộ nội dung suốt cả đời dung thông lí thú và hữu hiệu.
Đừng ngây thơ tưởng vấn đề cái chết là chuyện nhỏ và đã giải quyết xong xuôi từ lâu. Vấn đề này chẳng bao giờ cũ! Cố tình tránh suy nghĩ về cái chết là sai, chính con người khác thú vật ở chỗ “có khả năng thỉnh thoảng suy nghĩ về cái chết”(J.Renard). Có thể chính nhờ vậy, suốt đời luôn giữ được tâm hồn ở mức cao đẹp. Chớ nên trốn tránh vấn đề cái chết bằng cách giả bộ tảng lờ (trong khi tiềm thức thì bàng bạc lo lắng suốt đời!).
Với đạo dung thông, tâm hồn ta giải quyết rốt ráo tận gốc thái độ về cái chết và đạt bình thản cao độ. Nhưng vấn đề là mỗi người phải tự mình chiêm nghiệm đạo dung thông trong xử sự với cái chết và tự ứng dụng lấy, không ai làm thay cho mình được.
Trước hết, tuy chưa phải là cơ bản nhất, sự sợ chết là sợ không được hưởng sự sống ở những ai chưa biết thực sống bao giờ: chưa bao giờ biết quan sát và chiêm ngưỡng thưởng thức trọn (một cách đồng bộ, toàn vẹn, theo dung thông ngang và dọc) vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống trong mỗi thời điểm, mỗi thời kỳ và giai đoạn đời.
Cơ bản hơn là do vẻ bi thảm của cái chết sẽ mờ nhạt hẳn bên cạnh cái đích dung thông đã được sôi nổi thực hiện đầy đủ và toàn bộ, toàn diện cả một đời. “Chết không đáng buồn, chỉ buồn nếu đến chết chưa làm được gì bổ ích cho ai” (Lã Khôn). Giác ngộ dung thông đạo có nghĩa là chủ động không để xảy tình trạng đến khi chết mà chưa dung thông chút gì ích lợi cho nhân gian, không chấp nhận chết buồn chết chán vì ‘nỗi chán chường của hư vô’. Có những tấm gương dung thông lớn của nhân loại khi chết còn chủ động để lại “lòng son rạng sử xanh” (đan tâm chiếu hãn thanh) (Văn Thiên Tường). Không chỉ vì ý thức rõ ràng rằng tất cả mọi con người chúng ta, theo luật đương nhiên, đều sẽ “trở về cát bụi” (Cựu ước), “từ cổ, người đời ai không chết” (nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử), mà cơ bản vì một đời chủ động dung thông đầy hứng khởi nên “cái chết nhẹ tựa lông chim hồng” (Tư Mã Thiên). Một cuộc sống dung thông với đời được nhiều việc thì, như Leonardo Da Vinci nhấn mạnh, cái chết thật thanh thản, khác nào giấc ngủ ngon sau một ngày làm tròn nhiều việc. Mà dung thông được nhiều ít là đo bằng hành động và tư tưởng chứ không phải đo bằng tuổi. Bản thân thi sĩ Tản Đà quan niệm chết cũng như tính sổ (những dung thông):
“Trăm năm rũ áo chốn trần gian,
Còn gì mới là được”.
Nếu như ‘tính sổ’ vẫn chưa thấy dung thông được gì cho ai cả, tức là đã chẳng đóng góp gì với đời, thì Goethe cho rằng “một cuộc sống vô ích là một cái chết trước thời hạn”. Còn Shakespeare đánh giá còn nặng nề hơn: “Con người còn ra gì, nếu đem tất cả phần tinh tuý và giá trị của đời mình vào việc ăn và ngủ”. Một số ý tưởng người xưa trên đây như minh chứng vai trò của dung thông trong vấn đề sống-chết.
Cao hơn thế nữa những cuộc đời đạt dung thông đẹp, phong phú có thể còn tiếp nối hành trình dung thông. “Những-người-chết sống cho đến bao giờ còn có những kẻ sống để nghĩ tới họ” (E.Henriot). Lỗ Tấn thì nói: “Người chết chỉ thực sự chết khi không còn sống trong lòng người khác”. Nói rộng ra, với quan điểm dung thông chúng ta gặp tư tưởng của Gs-Bs Hồ Đắc Di “Tương lai của con người là con người. Con người là bất tận”.
TÓM LẠI Nhờ CÁC CÔNG DỤNG nêu trên của đạo dung thông mà con người sống có tâm hồn cao đẹp, phong phú, đĩnh đạc, biết yêu thương, hiếu thảo,
Đời mẹ cha gieo neo thật ảo
Ấm lòng bởi hiếu thảo tình con. (HD)
Và biết thích nghi, thoát khỏi ích ki và đố kị, trọng trách nhiệm và nhân cách, thực sự khiêm tốn, có lí tưởng-mục tiêu-ý nghĩa sự tồn tại giữa nhân gian trời đất, với tư cách ‘làm Người’, xứng đáng với danh hiệu Con Người.
Nhờ đạo dung thông mà con người chủ động hướng thiện, vị tha, đem lại niềm vui, biết cảm thông chia sẻ với những cảnh đời khác, nên trở thành người biết yêu và được yêu tức là trở thành người hạnh phúc, thành công, tiến bộ và phát triển không ngừng, biết tạo thư thái, nhẹ nhàng trong lòng, tự do và giải thoát.
Tác dụng tốt đẹp là đến nhường ấy. Đạo dung thông là như vậy.
KẾT LUẬN
Vậy tóm lại, chúng ta vừa chứng minh được điều đã nêu trong mục tiêu khảo cứu ở đầu bài viết này: dung thông từ chỗ là một quy luật phổ quát của tự nhiên và xã hội đã được ứng dụng trong hệ thống rèn luyện tu dưỡng tâm hồn, rồi đã chứng tỏ đáng được mỗi người coi là một triết lí sống, và hơn thế nữa, một đạo lí xử thế (với bản thân và mọi người), một tâm đạo – đạo dung thông với tác dụng tốt đẹp thật lớn lao.
Chúng tôi đã tạm mượn ba âm tiết ‘đạo dung thông’ đó để gọi cho gọn khi trình bày, chứ thực ra Đạo rộng lớn bao trùm cả đời người, khó có tên thích hợp. Mà nó cũng chỉ như một tri kiến trải nghiệm mà chúng tôi cố gắng phân tích, chứng minh và phác ra như một sơ đồ gần đúng thôi, tuy rằng chân lí của nguyên lí ‘đạo dung thông’ của trời đất và của xử thế thì quá hiển nhiên và to lớn.
Thực hiện đạo dung thông không dễ. Nó đòi hỏi nỗ lực liên tục, nhưng nếu thường xuyên rèn luyện, nó sẽ trở thành nếp sống đương nhiên của mỗi người. Phải chịu khó suốt đời dung thông tất cả tinh hoa từ quá khứ và từ mọi người mọi nơi, nâng lên có sự đóng góp của bản thân, rồi dung thông tất cả trở lại cho đời. Một quá trình gian nan nhưng vô cùng ý nghĩa, hào hứng và tự tin.
Ta hãy lắng nghe một niềm tin vào công việc của mình (ở đây đúng là công việc dung thông cho nhân loại và dung thông cho người nghèo khổ), niềm tin của L.Pasteur, một tâm hồn cao thượng:
“Khoa học và hoà bình sẽ thắng dốt nát và chiến tranh;
Tương lai thuộc về những… hoạt động… vì nhân loại đau khổ”.
Trong thực thi đạo, cần cảnh giác khi ‘đắc chí’ vì: Giữ vững được đạo trong hoạn nạn đã khó, giữ vững được đạo trong thành công lại còn quan trọng hơn.
Tâm đạo mãi dung thông yêu thương với mọi người, ứng xử thích đáng với từng người, với gia đình, với Tổ quốc.
Đã làm người ở trên đời, phải giác ngộ đạo dung thông, kiên trì theo đuổi thực thi nó, trên cơ sở không ngừng chịu khó về tư duy, về rèn luyện đức hạnh, nuôi dưỡng tâm hồn. Và tất nhiên được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao là tiến xa trên con đường của đạo dung thông - vốn như âm nhạc đang làm cho cuộc sống ta thành bản hoà tấu bất tuyệt - và thực sự thanh thới khi từ giã cõi đời.
Để khép lại trang cuối bài “tóm lược Thuyết Dung thông và đạo làm người” này, chúng tôi xin nêu niềm tin mãnh liệt rằng DUNG THÔNG sẽ trợ giúp tâm hồn mọi con người, mọi lúc của mỗi ngày và của toàn bộ cuộc đời: tự thức tỉnh, xem lại mình, rèn luyện từ gốc. Như vậy luôn vươn tới gần, gần hơn nữa, gần hơn mãi sự ra đời một thế giới có khuôn mặt Người hơn, và ngày càng Người hơn nữa.
Tp. Hồ Chí Minh, 1991-2004.