Thơ là gì?
Thơ hình thành từ thuở có con người, và chắc chắn nó chỉ bị triệt tiêu với sự biến mất của loài người. Từ khi loài người biết suy tư và có chữ viết, các tư tưởng gia, triết gia đã nỗ lực tìm cách định nghĩa thơ nhưng, bao giờ cũng bất lực và dừng lại trước bí ẩn của thơ. Thế hệ đi tới tiếp tục thử sức nữa. F. Voltaire: Thơ là hùng biện du dương, qua Alfred de Musset: Thơ là tiếng nói nhẹ nhàng của tâm tình, đến Stéphane Mallarmé: Thơ là sự biểu lộ ý nghĩa bí huyền của cuộc sống,… hay mới đây tại Việt Nam: Thơ là rác thải của cuộc sống con người! Khi người ta tưởng mình sắp chộp được ý nghĩa của thơ, thơ vuột khỏi tay lúc nào không biết. Chế Lan Viên: Thơ là gì? Thơ là thơ lơ mơ… Vậy thôi. Chấm hết!
Thơ có lợi không?
Câu hỏi bức xúc, nhất là trong thời đại tốc độ, chuộng bề ngoài hôm nay. Câu trả lời: thơ không có lợi thiết thực, rõ ràng, có thể cân đong đo đếm được. Nhưng dẫu sao nó cho ta cái cảm nhận rằng nó vẫn có “lợi”.
– Thơ hiến tặng con người lối nhìn mới về cái đẹp, không phải cái nhìn mới về thế giới khách quan (phần này các nhà khoa học lo) mà là cái đẹp của và cho tâm hồn. Mặt trăng chỉ là một vệ tinh của một hành tinh (trái đất) giữa vũ trụ, qua con mắt của các thi sĩ, trăng đã là chú cuội, ả hằng nga,… cho con người mơ mộng. Do đó, thơ làm đẹp cuộc đời.
Thơ giúp giải tỏa phần nào đau khổ của con người. Khi ta bị bức xúc, bị đối xử oan khuất,… một đoạn/câu thơ được đọc lên bất ngờ hóa giải những ẩn ức, khiến tâm hồn ta thanh thoát. Thơ giúp con người trở thành người hơn, nhân bản hơn, biết thông cảm và tha thứ. Thử hỏi nếu không có Ariya Cam - Bini, xung đột hai tôn giáo này sẽ ra sao? Hố cách ngăn tình yêu giữa cô gái Chăm và chàng trai Bàni còn kéo dài đến bao giờ? Và ai dám bảo thơ không ích lợi thiết thực? Nhất Hạnh: trong gié lúa vàng đang trĩu hạt kia, câu ca dao: “Hỡi cô tát nước bên đàng / Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” đã đóng góp bao nhiêu phần trăm công lao, ai biết? Cuối cùng, chính thơ ca đã góp phần rất lớn vào lưu trữ, phủi bụi hay tắm rửa và, làm giàu sang ngôn ngữ dân tộc. Có ai dám phủ nhận công sức này?
Thơ khác khoa học thế nào?
Thơ, từ lâu được xem là thứ nghệ thuật cao cấp nhất trong các nghệ thuật. Nó bao hàm cả họa, nhạc, vẻ đẹp của ngôn từ,…
Thơ thuộc thế giới thẩm mĩ; trong khi khoa học thuộc thế giới suy luận và thí nghiệm. Câu sai lầm nhất với nhà thơ là: tôi có kinh nghiệm. Nhà thơ đã viết được một tập thơ xuất sắc không đảm bảo tập tiếp theo hay bằng hoặc hay hơn. Công trình khoa học [tự nhiên] dẫu tốt đến đâu vẫn bị vượt qua bằng tóm tắt để truyền thụ cho thế hệ sắp tới (được vượt qua là bản chất của khoa học); không ai đọc công trình khoa học thuộc thế kỉ trước cả, mà chỉ tiếp nhận thành tựu của nó. Trong khi ngược lại, thi phẩm luôn phải được đọc/học nguyên bản, càng tóm tắt càng sai lệch và, cổ điển luôn tốt hơn. Công trình khoa học đi sau luôn tốt hơn, mới hơn công trình trước: thế hệ mới luôn đứng trên vai những người khổng lồ; trong khi trong sáng tác nghệ thuật: anh phải làm lại từ đầu.
Thơ và tri thức:
Thơ là tiếng nói của trẻ thơ, nhà thơ luôn tập luyện để nhìn sự vật như kẻ lần đầu trên trái đất này nhìn thấy, nói như R. M. Rilke. Nhưng trẻ thơ ở đây không được hiểu là trẻ nhỏ, mà trẻ thơ đã trải nghiệm qua 3 cuộc hóa thân. F. Nietzsche: từ lạc đà chất chồng bao gánh nặng tri thức của nhân loại trở thành sư tử cuồng nộ hủy phá tất cả, thanh tẩy tâm hồn để cuối cùng biến thành trẻ thơ. Một trẻ thơ có khả năng bước vào nước Thiên đường, như Phúc Âm dạy thế.
Trong lúc khoa học chất chồng càng nhiều tri thức càng tốt: ông buộc phải cập nhật khám phá mới, thành tựu mới hơn nữa, qua đó ông mới hi vọng có đóng góp của ông! Dĩ nhiên khoa học cũng cần học nhìn sự vật như thi ca nhìn – ngạc nhiên – nhưng đó là ngạc nhiên cho suy luận chứ không phải cho chiêm nghiệm cái đẹp.
Thật sai lầm tai hại nếu nghĩ rằng nhà thơ không cần tri thức hay không cần học kĩ thuật làm thơ.
Thơ hàng xài rồi:
Trong nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng, cái hay luôn đi kèm cái mới. Ezra Pound nói đại ý: Không thể có bài thơ hay theo cách thức của thế kỉ trước! Do đó vấn đề cách tân, đổi mới mãi là trăn trở hàng đầu của người làm thơ có lương tri. Về thể thơ: Không cứ mãi lục bát vần vè, nhà thơ Việt đã tiếp nhận và sáng tạo thể thơ 5,7,8 chữ. Rồi Thơ tự do Tây phương, thơ tân hình thức Mĩ,… Về chất liệu ngôn ngữ cũng thế.
Một người làm thơ kém tài hoặc biếng nhác lao động nghệ thuật hay có khuynh hướng xài hàng cũ, hàng đã qua tay. Từ đó, họ đẻ ra hàng loạt sản phẩm thơ second hand.
Thơ và cái giống thơ:
Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để…tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động chục năm qua là có thật. Ở đây không phải chê trách hiện tượng này, mà nêu lên để tìm nguyên do.
Người ta rất sợ viết tiểu thuyết; chưa đề cập chất lượng, đơn giản chỉ vì tiểu thuyết thì… dài. Cần nhiều công sức và thời gian. Thơ – dễ nuốt hơn. Dễ thành… nhà thơ hơn. Hấp dẫn lắm, vậy thôi. Chưa nói việc phân ranh thơ hay với thơ dở, ngay cả thơ với cái giống thơ cũng khó phân biệt. Chỉ qua con mắt của nhà thơ tay nghề cao hay nhà phê bình có khả năng thẩm thơ tinh tế (không ít nhà tự nhận phê bình đã thất bại trong tiếp nhận cái mới, từ đó sai lạc hay thậm chí phản động trong thẩm thơ), chúng mới lộ nguyên hình sản phẩm xài rồi.
Làm sao phân biệt được thơ và cái giống thơ?
Chỉ có thể bằng phương pháp loại trừ. Cái giống thơ dễ đánh lừa người đọc bằng sự quen thuộc. Quen thuộc ở giọng điệu: du dương, êm tai, rất ru hồn! Quen thuộc ở thể thơ cổ điển: câu cú dài ngắn đều đặn, nó khác văn xuôi dài loằng ngoằng, nghĩa là hình thức nó giống “thơ”. Ngôn từ được sử dụng cũng thuộc hàng quen thuộc. Ví “nhớ” thì phải là “nỗi nhớ nhung xa vắng”, chứ “nhớ” cộc lốc thì mất đi chất thơ! Thơ quen thuộc thích sự mơ hồ hơn tính cụ thể của ngôn ngữ thể hiện. Nữa: hình ảnh cũng phải “nên thơ” như: cô gái gánh lúa dưới ánh hoàng hôn, tà áo dài, cánh cò nghiêng nghiêng,…
Với kẻ tinh nghề và có tinh thần cách tân, thủ pháp chiều chuộng lối mòn này dễ bị bắt quả tang: nó không phải là thơ, hoặc chỉ là cái giống thơ; còn nếu quả quyết nó là thơ thì là thứ thơ dở, cũ mèm!
Bên cạnh, có cái mới tuyên xưng rằng mình là thơ. Nó mới – không sai, nhưng đó chỉ là cái có vẻ mới, mới thời thượng. Về lối thơ cách tân này, kẻ trong nghề cũng khó biện biệt thật hư. Thể thơ không cũ, ngôn từ rất mới, tôi không vần vè nè, tôi chọn nhịp chỏi tai khó nghe nè,… thì làm sao nhà bác dám bảo thơ tôi cũ! Không cũ, nhưng không phải thơ! Ngôn từ ông/bà không đủ sức nặng để chuyên chở tứ thơ mới, đấy là chưa nói nhịp điệu nội tại của thơ ông/bà hoàn toàn vắng mặt! Nó không có ở đó trong hơi thơ-hơi thở của ông/bà. Nó lạc điệu trong tổng hòa một thể nhất thống gọi là: bài thơ.
Tóm lại: Nhà thơ cần biết học sợ thơ… Để người đọc còn cần đến thơ.