Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.233
123.161.502
 
Chồng trước chồng sau
Võ Ðắc Danh

Chị, Tiến sĩ văn hóa, 43 tuổi, có nhiều công trình nghiên cứu và đang giảng dạy ở các trường đại học. Chồng trước của chị, Bác sĩ chuyên khoa I. Chồng sau của chị là một phó Giáo sư Tiến sĩ tóan học. Thế nhưng câu chuyện về họ, lẽ ra không phải là câu chuyện của những người có nhiều chữ nghĩa.

 

1.

Tôi sinh ra và lớn lên ở thị xã Trà Vinh, một gia đình bình thường trong một thị xã bình thường, không có gì nổi bật. Ba má tôi có ba đứa con, tôi và hai đứa em trai. Ba tôi cưng con gái, má tôi cưng con trai, đó cũng là lẽ thường tình. Hồi trước năm 1975, nhà tôi có hai tiệm vàng ở Trà Vinh do ba má tôi cai quản và một tiệm bán hàng điện máy ở Sài Gòn do người chú tôi cai quản. Sau năm 1975, cơ nghiệp của gia đình tôi thu hẹp lại thành một tiệm tạp hóa nho nhỏ. Đến mười năm sau, nương theo cơ chế của nhà nước, ba tôi hợp tác với ngành văn hóa thông tin mở ra cửa hàng vật phẩm văn hóa, chủ yếu là bán các mặt hàng kim khí điện máy. Nói chung,qua những thăng trầm của nền kinh tế đất nước, gia đình tôi vẫn là một gia đình tương đối khá giả, không phải bươn chải nhiều.

 

Năm 1980, học xong lớp chín, má tôi bắt tôi phải nghỉ học. Má nói con gái học tới đó đủ rồi, con trai mới cần học hành đến nơi đến chốn. Tôi khóc vì ham học. Ba tôi cố gắng thuyết phục má tôi nhưng vẫn không được. Cuối cùng ba tôi nhờ chú tôi ở Cần Thơ qua nói giúp, má tôi đồng ý. Năm 1984, tôi đậu vào khoa ngữ văn đại học sư phạm Cần Thơ. Thương con, không muốn con phải ở nhà trọ nên ba tôi sang Cần Thơ mua căn nhà gần chợ Tham Tướng cho tôi ở, có cả người giúp việc, có cả xe cup 70 màu đỏ. Phải nói rằng thời ấy, một sinh viên từ tỉnh sang Cần Thơ mà có nhà riêng, có người giúp việc, có xe gắn máy như tôi là một chuyện hiếm hoi, chẳng bao lâu tôi trở thành đối tượng dòm ngó của mọi người. Hiểu được điều ấy, tôi phải cất xe gắn máy, đi xe đạp để sống hòa đồng với bạn bè.

 

Khi tôi đậu vào sư phạm thì Đức cũng đậu vào y khoa. Sinh viên năm đầu có những buổi sinh họat chung, nhất là các phong trào văn nghệ. Dù phải áy náy khi nói về mình nhưng phải thừa nhận rằng hồi ấy tôi là một cô gái đẹp, lại hát hay nên tôi được nhiều bạn trai ngưỡng mộ, trong đó có Đức. Tôi quý trọng Đức vì tôi hiểu anh ta theo đúng nghĩa là con nhà nghèo học giỏi. Quê Đức ở Thất Sơn, một vùng quê nghèo khó, cha mẹ ly thân, Đức là con trai út trong một gia đình khá đông anh em. Trừ người chị thứ ba, tất cả đều có vợ có chồng. Thỉnh thỏang Đức thường hay nhắc đến mẹ và chị Ba của mình, hay người thay nhau lên núi hái rau kim thất  về nuôi heo để dành tiền cho Đức ăn học. Một hôm, Đức khoe với tôi rằng anh vừa mua được chiếc xe đạp để chạy xe ôm, giảm bớt nỗi lo cho mẹ và chị của mình. Tôi vừa cảm động, vừa mừng cho Đức. Những năm của thập niên tám mươi, phải nói rằng sinh viên Cần Thơ chạy xe đạp ôm đã thành một đặc trưng của thành phố miền tây, Đức đã một thời hòa mình trong đó. Có một buổi chiều, Đức bước vào nhà tôi với nét mặt phờ phạc để báo một tin buồn: “Chiếc xe đạp của anh bị ăn trộm mất rồi !”. Tôi mời Đức vào nhà, ba tôi từ Trà Vinh cũng vừa mới sang thăm. Thật ra, ba tôi đã tình cờ gặp Đức đến nhà tôi nhiều lần. Ong vừa thương Đức, cũng vừa lo sợ tai tiếng cho tôi, nên lần nầy, vô tình từ phía nhà sau tôi nghe ông nói: “Nếu cháu thương nó thật tình thì đưa người lớn sang đây, đám cưới xong rồi thì ở đây mà đi học, bác nuôi luôn hai đứa”.

 

Mùa hè năm 1986, chúng tôi làm đám cưới. Đám cưới được tổ chức rình rang cả ba nơi: Cần Thơ, Thất Sơn và Trà Vinh. Ơ Trà Vinh, ba tôi thuê một nhóm thợ nấu ở Chợ Lớn xuống làm dê, làm bò, làm heo đãi đằng suốt sáng thâu đêm. Tối hôm ấy, trong lúc tiệc tùng đang vui thì ba tôi biến mất. Như một sự linh tính, tôi chạy lên sân thượng – nơi hai cha con tôi thường lên đó ngồi tâm sự – thì thấy ba tôi đang ngồi khóc một mình. Tôi hỏi, ba tôi nói: “Ba thương con nhất trong cuộc đời nầy, vì con, ba sẵn sàng hy sinh tất cả. Gả con cho thằng Đức, ba mừng lắm, mừng vì nó nghèo, nghèo đến mức không còn gì để nghèo hơn nữa, nghèo mà có học, lại hiền lành. Ba sẵn sàng nuôi nó ăn học và tạo cho nó một sự nghiệp đàng hoàng, để sau nầy, lở nó có phụ cái tình đối với con thì cũng còn cái nghĩa, mà phụ cái nghĩa thì cũng còn cái ơn. Ba hy vọng như vậy, và ba tin như vậy.” Sau đó ba tôi bảo tôi gọi Đức lên sân thượng, ông nói với Đức: “Nếu cần, ba có thể cho con hết tài sản của ba, ba không hề tiếc. Nhưng con không được xử tệ với con gái của ba, không được làm cho nó khóc dù chỉ một giọt nước mắt. Con nhớ không, con có dám hứa không ?”

Đức im lặng gật đầu.

 

Sau đám cưới mấy hôm, chúng tôi  trở về Cần Thơ trang hoàng lại ngôi nhà hạnh phúc. Đức dọn đồ đạc từ nhà trọ về sống với tôi. Ba tôi kinh doanh hàng kim khí điện máy cho nên thoáng chốc, căn nhà tôi đầy đủ những tiện nghi sang trọng. Mùa tựu trường năm ấy, chúng tôi bước vào năm thứ tư. Đức không còn phải lao vào cuộc mưu sinh như trước. Hàng ngày, anh lấy xe gắn máy chở tôi đi học. Tan trường, chúng tôi về nhà thì đã có mâm cơm dọn sẵn. Có thể nói, đó là năm hạnh phúc nhất của đời tôi. Mùa hè năm ấy, cũng là năm học cuối cùng, tôi sinh được một bé gái. Sau hai tháng, chúng tôi phải gởi cháu về quê nội để làm luận văn tốt nghiệp. Lúc bấy giờ, ba tôi đã lo sẵn hai chổ làm cho chúng tôi ở Trà Vinh, Đức được nhận vào khoa ngoại bệnh viện đa khoa, tôi được về dạy tại trường cấp ba thị xã. Cuộc sống sẽ bình yên, sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu nếu Đức không có sự biến đổi sau nầy.

 

2.

Ra trường được hai tháng sau thì ba tôi đã mua cho chúng tôi một căn nhà ngay trung tâm thị xã, ý định của ba tôi là để cho Đức mở phòng mạch sau khi làm việc đủ thời gian theo quy định của nhà nước. Tuy có nhà cửa ổn định, nhưng lương của hai vợ chồng bác sĩ và giáo viên mới ra trường giữa thời bao cấp, lại phải nuôi thêm một đứa con, nếu không có sự chu cấp của ba tôi, hẳn sẽ vô cùng chật vật. Thời ấy, nhờ những mối quan hệ cũ trên thị trường cho nên ba tôi, ngoài việc buôn bán chính thức các mặt hàng kim khí điện máy, ông còn mua bán vàng bạc, đá quý, hột xoàn. Cho nên, ngoài việc chu cấp hàng tháng cho chúng tôi, thỉnh thoảng ông dúi vào tay tôi một vài món nữ trang, bảo tôi giữ gìn để phòng thân.

 

Cuối năm 1989, ba tôi qua đời sau một cơn bạo bệnh. Cái chết của ba tôi đã làm cho gia đình tôi, ngoài nỗi đau còn kéo theo sự hụt hẫng, tôi mất hẳn một chổ dựa cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Lúc bấy giờ tôi mới thấy rằng Đức là người quan trọng nhất bên cạnh cuộc đời tôi. Và, khi tôi thật sự dựa vào Đức, thật sự quan tâm tới Đức thì tôi mới bắt đầu cảm nhận ở Đức có những biểu hiện xuất phát từ bản chất làm cho tôi phải choáng váng. Cái choáng váng đầu tiên đối với tôi là hôm ấy, Đức gài bẩy được một con chuột trong nhà, thay vì giết nó đi theo sự thông thường, Đức mang dụng cụ phẩu thuật ra cắt, xé cơ thể con chuột thành từng mảnh, mặc cho nó la hét, rên rỉ, giảy giụa trong máu me, trong đau đớn, nhưng Đức vừa làm, vừa cười sung sướng, nụ cười như thoả mãn với hành vi tàn bạo của mình. Nhìn con chuột chết trong sự quằn quại, nhìn nụ cười của Đức, tôi phải tối mặt bỏ đi. Tôi cố lý giải rằng Đức là bác sĩ chuyên khoa ngoại, nên phải chăng, việc Đức xé sống con chuột có liên quan đến nghề phẩu thuật của mình. Nhưng, nụ cười sung sướng của Đức trước sự giãy giụa của con chuột cứ luôn ám ảnh tôi.

 

Có một lần, sau chuyện ái ân của vợ chồng, bổng dưng Đức khoe với tôi rằng anh vừa phá trinh một cô gái trẻ. Tưởng anh nói đùa, mặc dù không ai có thể đùa như thế, nhưng Đức kể, hôm ấy, có một bệnh nhân đang chờ mổ, ông ta có cô con gái rất xinh, Đức gạ gẫm, anh ta sẽ thay lịch mổ và bảo đảm cứu mạng cha cô vì anh yêu cô, muốn được gần gũi với cô. . . cuối cùng, cô gái đã chấp nhận điều kiện ấy. Tôi lại thêm một lần choáng váng. Nếu như Đức nói ra điều ấy như một lời thú nhận ăn năn thì tôi sẽ nhẹ nhõm hơn. Đằng nầy, Đức lại thản nhiên, vô cảm, xem đó như một lẽ thường tình, thậm chí Đức còn tỏ vẽ tự hào như đạt được một mục tiêu trong cách sống. Trong khi tôi đang nặng nề, chưa tìm ra cách phản ứng về câu chuyện thất nhân tâm của Đức thì một hôm, bất ngờ có một chiếc xe đậu trước cửa, người ta áp giải Đức vô nhà, công an, thanh tra y tế, quản lý thị trường, nhân viên kiểm nghiệm dược phẩm . . . Họ buộc Đức phải giao nộp một loại thuốc gì đó, nếu không, họ sẽ khám xét nhà. Đức ngoan ngoãn mở tủ lấy ra chai thuốc impicilin, người ta lập biên bản niêm phong rồi chở Đức đi. Tôi gọi điện thoại đến một người quen trong bệnh viện, thì ra, Đức gạ bán thuốc giả cho một bệnh nhân mổ ruột thừa khiến người ta bị nhiễm trùng . . . Tôi đã sử dụng tất cả các mối quan hệ tình xưa nghĩa cũ của ba tôi và những bạn bè đồng nghiệp của tôi để dàn xếp, để cứu Đức khỏi dòng tù tội, khỏi bị đuổi việc. Nhưng, điều quan trọng hơn là tôi muốn kéo Đức trở về con người lương thiện, một thầy thuốc đúng nghĩa với hai chữ lương y.

 

Mọi chuyện rồi cũng trôi qua. Đúng hai năm hành nghề, Đức được phép mở phòng mạch tại nhà. Tôi nghĩ, lỗi của Đức trước đây một phần do tôi vì tôi thiếu quan tâm đến việc chi tiêu của Đức, tiền lương không đủ giao du với bạn bè nên Đức mới nhắm mắt làm liều, “bần cùng sinh đạo tặc” như ông bà ta từng nói. Từ nay, có phòng mạch rồi, cuộc sống sẽ thoải mái hơn, tôi hy vọng Đức sẽ hành nghề một cách đàng hoàng như tôi mong muốn.

 

Một hôm, có một ông lão từ Càng Long mắc bệnh u xơ tiền liệt tuyến, phải dẫn ông thông tiểu ra ngoài. Ong ngồi đợi ở phòng mạch hơn một giờ. Thấy bệnh nhân già yếu, lặn lội đường xa nên tôi gọi điện thoại cho Đức. Khi Đức vừa bước vào nhà, ông lão hỏi: “Tôi muốn thay ông thông tiểu, bao nhiêu tiền thưa bác sĩ ?”. Đức hất hàm hỏi lại: “Có lấy thuốc không ?”. Ong lão nói: “Dạ tôi chỉ lấy một liều uống trưa nay thôi”. Đức bảo một trăm ngàn. Ong lão run rẫy nói: “Thưa bác sĩ, tôi đi tàu đi xe ra đây, giờ chừa đủ tiền về, tôi chỉ còn có bốn chục ngàn”. “Bốn chục ngàn thì làm theo kiểu bốn chục ngàn. Không có tiền mà cũng bày đặt tới đây !”. Đức vừa nói vừa quơ tay giựt mạnh ông thông tiểu, ông già nẩy người, một dòng máu tuôn xuống đất.

 

Bệnh nhân ra về, tôi vừa khóc vừa nói với Đức: “Mình đâu phải thiếu tiền, cái ống thông tiểu chỉ có năm ngàn đồng, chẳng lẻ mình không thể làm phước cho ông già nghèo khổ ấy được sao ?”. Đức im lặng. Nhưng đó lại là sự im lặng vô cảm, để rồi một sai lầm khác tiếp theo: Ở Trà Vinh có một bác sĩ nhãn khoa nổi tiếng trùng tên với Đức, nhưng anh ấy đã chuyển về Sài Gòn. Vậy là, Đức lợi dụng sự nhầm lẫn của những bệnh nhân thiếu hiểu biết để mạo nhận mình là bác sĩ nhãn khoa. Tôi ngăn cản thì Đức bảo rằng, em mà biết gì về y học, bệnh mắt thông thường, thầy lang còn chữa được, huống chi anh là bác sĩ. Nhưng, đi đêm có ngày gặp ma, một bệnh nhân gặp sự cố, phải chuyển lên Sài Gòn múc bỏ một tròng mắt, người nhà phát hiện sự mạo danh của Đức nên phát đơn kiện. Một lần nữa, tôi phải vừa van lạy, vừa bỏ hai tuần lên Sài Gòn nuôi bệnh, vừa tốn mấy cây vàng để đền bù thiệt hại, gia đình nạn nhân mới chịu bãi nại cho Đức.

 

Một bệnh nhân tử vong sau ca mổ do một bác sĩ đồng nghiệp của Đức phụ trách. Nhưng Đức lại xem đó là một tin vui: “Lẽ ra đó là ca mổ của anh, nhưng biết thế nào bệnh nhân cũng chết nên anh đã khéo léo đề nghị đổi lịch mổ sang cho hắn”.

 

Trong một chuỗi sự cố ấy, nỗi tủi nhục, thất vọng đã khiến tôi một lần tự tử. Nhưng Đức đã kịp phát hiện và đổ nước muối vào miệng tôi để tôi ói thuốc ra. Trong tận cùng của sự đau khổ dày vò, tôi nghĩ dù sao Đức cũng là người chồng do tôi lựa chọn, dù sao Đức cũng là cha của hai đứa con gái của tôi. Con gái nhờ đức cha. Sợ hậu quả sẽ gieo xuống đời con mình, tôi vừa kiên trì, vừa hy vọng Đức sẽ khôi phục lương tâm của người thầy thuốc. Nhưng, sống với Đức tôi cứ luôn phập phồng, sờ sợ, mất hẳn sự an tâm, lúc nào cũng có cảm giác như cái ác trong con người Đức luôn đe doạ đời sống gia đình.

 

3.

Người ta nói nước chảy đá mòn. Tôi tin vào điều ấy khi nhìn thấy sự kiên nhẫn của mình bắt đầu lóe lên một niềm tin và hy vọng. Ngoài công việc giảng dạy ở trường, tôi dành hết thời gian cho gia đình, vừa chăm sóc con cái, vừa theo dõi công việc của Đức ở bệnh viện để chia sẻ, động viên, tư vấn các mối quan hệ đồng nghiệp của anh, lại vừa giúp anh quản lý phòng mạch. Đức có đặc điểm là im lặng mỗi khi làm sai. Cho dù đó là sự im lặng vô cảm nhưng cũng là cơ hội cho tôi được giải bày, tâm sự, sẻ chia những điều cần thiết. Có lẽ nhờ vậy mà Đức đã thay đổi dần, cuộc sống bắt đầu trở lại sự bình yên như tôi mong muốn.

 

Có thể, tôi sẽ giữ được chồng cũng như giữ được hạnh phúc gia đình nếu tôi không phải là một con người ham học.

 

Năm 1992, tôi tiếp tục thi vào khoa ngữ văn trường Đại học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ có bằng đại học nên tôi được miễn chương trình đại cương để rút ngắn được hai năm. Sau khi tốt nghiệp, tôi tiếp tục chương trình cao học. Tháng tư năm 1997, tôi nhận bằng thạc sĩ loại xuất sắc và được tuyển thẳng vào nghiên cứu sinh để làm luận án tiến sĩ .

 

Trong hoàn cảnh phải đi đi về về như vậy, tôi gởi đứa con gái lớn về quê nội, để đứa nhỏ lại nhà và thuê một người giúp việc trông nom. Những năm đầu, phải nói rằng tôi không có điều gì phải phàn nàn ở Đức. Mỗi lần tôi về đều được nghe Đức kể những chuyện vui ở cơ quan, chuyện con bé ở nhà và cho tôi xem quyển sổ ghi chép thu chi của phòng mạch. Đầu tuần, trước khi đi, Đức giao tiền cho tôi để cuối tuần tôi mua thuốc mang về theo yêu cầu của Đức ghi sẵn trong toa. Tất nhiên, không phải tôi vui với đồng tiền của Đức làm ra, tôi vui vì tôi hy vọng rằng sự thay đổi của Đức bây giờ sẽ bắt đầu cho một niềm vui khác, lớn hơn. Đó là niềm vui của vong linh ba tôi, một người đã vui đến trào dâng nước mắt vì được gả đứa con gái yêu quý của mình cho chàng sinh viên nghèo, “nghèo đến mức không còn gì để nghèo hơn nữa. Nếu nó phụ tình con thì cũng còn cái nghĩa. Nếu nó phụ cái nghĩa thì cũng còn nhớ đến cái ơn”.

 

Hôm ấy, tôi từ Sài Gòn về đến nhà thì Đức còn trong bệnh viện. Tình cờ, anh thợ sửa đồng hồ ngoài chợ tìm đến đưa cho tôi chiếc đồng hồ nữ còn mới tinh, thấy tôi ngạc nhiên, anh nói: “Bác sĩ Đức nhờ tôi thâu sợi dây đồng hồ cho chị”. Tôi giả vờ cảm ơn và nhận chiếc đồng hồ từ tay người thợ rồi chết lặng như trời trồng. Nhưng tôi cố bình tĩnh. Một lát sau Đức về, tôi mang chiếc đồng hồ ra và cũng hết sức tỏ ra bình tĩnh để kể lại lời nói của anh thợ. Nhưng Đức vừa giựt phắt chiếc đồng hồ trên tay tôi vừa nói: “Cái nầy tôi mua cho bồ tôi chớ đâu phải cho em”. Nói rồi, Đức nổ máy xe chạy đi mất hút. Tối hôm ấy Đức không về.

 

Chiều hôm sau, theo sự mách bảo của một chị bác sĩ trong bệnh viện, tôi tìm đến nhà trọ gặp cô gái ấy. Tôi đã dùng hết lời lẽ ngọt ngào để khuyên nhủ cô ta, rằng em hãy trả lại hạnh phúc cho gia đình chị, rằng em còn trẻ đẹp, có thừa khả năng để lấy một người chưa có vợ con. Nhưng cô ta bình tĩnh và rất thản nhiên: “Em không chia sẻ tình cảm của ai cả, em chỉ là gái làm tiền, bán nhan sắc lấy tiền, ai mua em cũng bán, có gì đâu mà chị phải ghen”.

 

Thái độ và cách ứng xử của cô ta đã làm cho tôi câm miệng trong nhục nhã, ê chề. Đêm hôm ấy tôi định nói với Đức rất nhiều nhưng cuối cùng thì chẳng biết phải nói gì. Thôi thì cứ im lặng và khóc. Sáng hôm sau, tôi trở lên Sài Gòn, mặc dù tôi biết không còn đầu óc đâu để học hành, nhưng ở lại thì càng thấy nặng nề, trống vắng. Hai tuần sau tôi lại quay về. Vẫn trong tâm trạng rối bời, vô vọng. Về đến gần nhà, tôi hy vọng rằng Đức sẽ không im lặng như mọi lần mà ít ra anh phải nói với tôi một lời gì đó, dù rất nhỏ, dù nói dối để tôi có thể yên tạm yên tâm. Nhưng trời ơi ! Đức đã đem cô gái ấy về ở trong nhà ! Tôi vừa bước vô thì cô gái ấy, thay vì phải bước ra thì cô ta lại đi thẳng lên lầu. Tôi chỉ nói được một câu: “Anh có thể làm như vậy được sao ?” Đức bình thản nói: “Để chứng tỏ rằng cô ta đến với tôi không phải vì tiền. Vả lại có sao đâu, ba tôi ngày xưa cũng đem má tôi về ở chung với bà lớn, chuyện bình thường”.

 

Thay vì trước đây, mỗi lần Đức vấp phải sai lầm, tôi có ý kiến thì anh lại ngồi im lặng. Còn lần nầy thì tôi chỉ biết im lặng. Im lặng để chờ sự phản ứng ở chính mình. Những ngày sau đó, ngay cả trang nhật ký tôi cũng không đủ can đảm để mô tả lại mấy ngày ngắn ngũi sống chung với một cô cave được xem là vợ bé của chồng mình. Ngày thì đi lang thang, đêm thì ẳm con sang ngủ nhà người giúp việc. Và khóc.

 

Tôi chợt nhớ đến lời mời của một trường đại học mà tôi đã từng từ chối. Tôi sẽ đến đó xin lỗi họ để nhận việc làm, sẽ mua nhà ở, sẽ mang con đi, sẽ tiếp tục học hành, sẽ vĩnh viễn xa Đức . . .

 

Trưa hôm ấy, tạm gởi con cho chị giúp việc, tôi lên đường làm chuyến đi tiền trạm để thực hiện một tâm huyết mà tôi cho rằng đó là lối thoát duy nhất của mình. Nhưng khi đến bến bắc Mỹ Thuận, trong lúc chờ phà, bổng dưng bao nhiêu tâm huyết của tôi bị chùng xuống, và trong tận cùng của nổi khổ đau, bổng dưng tôi nhớ đến ba tôi, nhớ đến quảng đời sinh viên tươi đẹp, rồi chợt nhìn lại mình với một thực tại đầy tuyệt vọng, tôi tự hỏi mình sống để làm gì. Trong cơn bấn loạn ấy, tôi đã lao mình xuống sông Tiền.

 

Khi được cứu sống thì tôi cũng trở thành vật lạ cho hành khách qua đường vây lại đứng xem. Tôi bước lên phà trong hàng trăm ánh mắt vừa thương cảm pha lẫn sự tò mò. Lúc ấy, tôi vừa khóc vừa muốn chui nhanh vào một chiếc xe nào đó để trốn tránh mọi người. Tôi gỏ cửa một chiếc xe du lịch, anh tài xế lắc đầu bảo xe nầy chở sếp, nhưng ông sếp ngồi trong xe mở cửa bảo tôi lên. Tôi ngồi nép một bên với bộ quần áo ướt mem và khóc cho đến khi xe vào cửa ngõ Sài Gòn. Lúc bấy giờ, ông sếp mới hỏi tôi đến đâu và khéo léo bắt chuyện hỏi vì sao tôi tự tử.

 

Trước một con người lịch thiệp, tế nhị và chân tình như thế, tôi không thể không nói thật câu chuyện của mình. Nhưng tôi chỉ nói ngắn gọn câu chuyện sau cùng, rằng tôi đang học ở Sài Gòn, khi về nhà thì gặp chồng mình thản nhiên mang cô gái khác về chung sống, lại là một cave, rằng tôi lên đây để nhận việc làm, để tìm một lối thoát. Khi tôi xuống xe, ông trao cho tôi tấm danh thiếp và căn dặn, nếu có gì khó khăn, cứ gọi điện cho ông.

 

4.

Sau khi nhận việc làm ở một trường đại học, tôi thuê một căn phòng trọ trên đường Trần Phú rồi về Trà Vinh rước đứa bé lên theo. Ngoài công việc ở nhà trường, tôi đi dạy thêm ở các trung tâm luyện thi, vừa lao vào nghiên cứu đề tài “Thiên nhiên trong ca dao dân ca trữ tình Nam bộ” để hoàn thành luận án tiến sĩ. Trong lúc tôi đang khốn khó giữa đất Sài Gòn thì chú tôi xuất hịện, ông trao cho tôi một số vàng khá lớn, bảo rằng trong những ngày lâm bệnh, ba tôi đã gởi cho ông và căn dặn đừng cho tôi biết, đến lúc nào cuộc sống của tôi gặp phải khó khăn thì giao lại cho tôi. Nhờ vào đó mà tôi đã mua được đất đai, nhà cửa ở Sài Gòn.

 

Có một điều, cho đến bây giờ tôi vẫn không tự lý giải được là vì sao trong những ngày đầu lên Sài Gòn tôi vẫn còn thương Đức, vẫn khát khao làm lại một mái ấm gia đình, vẫn còn tin ở Đức một sự hồi tâm. Đêm nào tôi cũng gọi điện thọai về nhà khóc than, tâm tình với Đức, mong anh suy nghĩ lại, mong anh sửa sai, và nếu còn thương em thì lên đón mẹ con em về, em sẵn sàng bỏ qua chuyện cũ. Rồi một ngày, anh xuất hiện, anh cười tươi bảo tôi về với anh. Tôi mừng vui đến tuôn nước mắt, tôi bỏ tất cả những gì đã làm được ở Sài Gòn, kể cả con đường du học đang mở ra trước mắt để về quê với Đức.

 

Về quê, tôi được nhận vào giảng dạy tại trường cao đẳng sư phạm, vừa tiếp tục công trình nghiên cứu. Được vài tháng, Đức lại hiện nguyên hình một con người như cũ. Tôi không dám nghĩ đến chuyện Đức bị biến thái  về nhân cách, nhưng không thể không gợn người khi nghe anh kể về chuyện làm tình với cô nầy cô nọ một cách thản nhiên. Tôi thầm nghĩ, có lẽ do môi trường sống, do mối quan hệ bạn bè. Nhiều đêm anh tổ chức nhậu tại nhà, tôi ở trên lầu nghe lóang thóang câu chuyện của bạn anh: “Tao không thể như mầy được, vợ không thể học cao hơn chồng”. Hoặc đàn bà là thế nầy, đàn bà là thế khác. Nhưng Đức chẳng những không tỏ ra phản ứng mà ngược lại, anh cao hứng đồng tình.

 

Tôi quyết định đưa Đức lên Sài Gòn với hy vọng anh sẽ đổi thay ở một môi trường mới. Cũng không phải khó khăn khi tôi xin với lãnh đạo sở y tế Trà Vinh cho Đức đi học chuyên khoa một, thậm chí cũng không mấy khó khăn khi tôi chạy lo kỳ thi đầu vào cho Đức. Cũng như hồi mới cưới nhau, Đức lên Sài Gòn với mọi thứ đã có sẵn, một ngôi nhà khang trang để làm tổ ấm cho hai vợ chồng và hai đứa con, một ngôi nhà cho thuê, mấy lô đất để dành. Nhưng tôi không hiểu tại sao Đức lại không xem những điều kiện ấy là nền tảng cho cuộc sống gia đình để giữ gìn hạnh phúc. Một hôm, tình cờ sọan lại đồ đạc trong nhà, tôi phát hiện một sắp hàng chục tấm ảnh sex của Đức chụp lúc đang làm tình với một cô gái lạ mà bối cảnh là ngôi nhà cũ dưới Trà Vinh. Tôi kinh tởm đến bàng hòang, nhưng nghĩ đây là chuyện cũ nên lờ đi. Một hôm đi làm về, bất giác tôi thấy Đức với hai đứa con gái đang ngồi xem phim sex. Tôi hốt hỏang la lên thì Đức bình thản nói: “Có sao đâu, đối với phương Tây thì đây chẳng những là chuyện bình thường mà còn rất cần thiết để giáo dục tình dục cho tuổi mới lớn”. Tôi kiên nhẫn ngồi giải thích với Đức và hai đứa con rồi buộc Đức phải mang mấy cuốn băng đi tiêu hủy. Đức bình thản làm theo. Dường như ở Đức chỉ có một thái độ bình thản khi làm mọi thứ trên đời, kể cả cái hôm tôi bắt quả tang Đức đang làm tình với cô cave trong nhà, cạnh căn phòng của hai đứa con trong khi đứa nhỏ đang ngồi bên ấy học bài. Sau giây phút khóc lóc, tôi tĩnh táo lại và nói: “Thôi thì ra tòa ly dị”. Đức cũng bình thản nói: “Ừ, ly dị thì ly dị nhưng phải cho anh ở nhờ đến khi học xong, chớ biết ở đâu bây giờ”.

 

Ra tòa, Đức không tỏ ra buồn, cũng không tỏ ra vui. Tôi không hiểu đó là thái độ thản nhiên hay vô cảm. Anh thừa nhận chuyện ngọai tình của mình như một lẽ đương nhiên: “Tôi nghĩ đàn ông ai cũng ngọai tình, đó là chuyện bình thường, nhưng không ngờ vợ tôi lại nó nghiêm trọng đến như vậy”. Khi tòa hỏi đến tài sản, anh nói: “Tôi không có tài sản riêng, cũng không có tài sản chung. Nhà cửa hiện có là của riêng vợ tôi”. Tòa quyết định, chuyện tài sản do hai người tự giải quyết, Đức nuôi đứa con gái lớn, tôi nuôi đứa nhỏ, mỗi tháng Đức trợ cấp 1,5 triệu đồng do anh tự nguyện.

 

Ly dị xong, tôi vẫn cho Đức ở chung, vẫn nấu cơm, vẫn giặt, ủi quần áo cho anh, thậm chí vẫn cho anh mượn tiền xài khi cần thiết. Gần một năm sau, Đức học xong, trở về Trà Vinh và lấy vợ. Còn tôi cũng đã lấy chồng. Lúc bấy giờ ngôi nhà cũ tôi vẫn cho thuê. Một hôm, Đức tìm gặp tôi than vãn: “Anh đang gặp khó khăn về chổ ở. Ngôi nhà cũ, em cho anh một nửa, còn một nửa bán lại cho anh”. Tôi hỏi giá bao nhiêu, Đức nói khỏang ba mươi lượng vàng, nếu tôi cho Đức một nửa thì còn lại mười lăm lượng, Đức sẽ trả trong ba năm. Nghĩ mình ba bốn ngôi nhà ở Sài Gòn, trong khi Đức đang ở nhà thuê. Dù sao cũng bao năm là vợ là chồng, hơn nữa Đức đang là cha của hai đứa con tôi. Tôi bằng lòng. Đức hỏi mượn thêm hai mươi triệu làm vốn mở phòng mạch, tôi cũng bằng lòng. Nhưng sau khi tôi về quê làm thủ tục pháp lý theo yêu cầu của Đức thì anh lại trở mặt, đã lấy trọn ngôi nhà. Đức kiện ra tòa đòi tôi phải sang tên cho anh với lý do: ngôi nhà là tài sản chung, tôi đã đồng ý cho anh một nửa thì một nửa còn lại là của anh. Tòa án thị xã mời tôi về lấy lời khai, sau một thời gian thụ lý, không hiểu vì lý do gì, họ dùng bút xóa sửa chữ tài sản rêing thành chữ tài sản chung rồi ra quyết định thi hành án, buộc tôi phải giao nhà cho Đức. Tôi phát đơn kiện lại, tòa án tỉnh ủy n. Tưởng sự việc đến đây sẽ mang lại cho tôi sự công bằng. Nhưng không ngờ hai năm sau, tòa án tỉnh lại ra quyết định buộc tôi phải chia cho Đức một nửa ngôi nhà. Đội thi hành án mang lên Sài Gòn số tiền tương đương 15 lượng vàng ép tôi phải nhận. Cuối cùng coi như tôi vẫn cho Đức một nửa ngôi nhà mà không một chút nghĩa ơn. Ngược lại, Đức rêu rao với bàng dân thiên hạ rằng ngôi nhà do anh tích lũy bằng công sức của một người thầy thuốc để tạo nên, nhưng tôi đã dùng mối quan hệ cá nhân để đứng tên riêng và chiếm của anh một nửa. Trong cùng một lúc, tôi bị tước đọat tài sản đã đành, tôi không tiếc rẻ, nhưng lại phải mang thêm nỗi oan khiên trước pháp đình và nặng nề hơn là nổi oan trong nhân tình thế thi. V, cũng chính trong lúc nầy, tôi lại phải quay sang đối phó với sự phản bội, lọc lừa của người chồng.

 

5.

Chia tay với Đức một thời gian, cuối năm ấy, tôi bán mấy lô đất để mua một ngôi nhà trong con hẻm rộng trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận Ba để dọn về đó ở cùng hai con gái, ngôi nhà cũ ở Gò Vấp tôi vẫn cho Đức ở trọ trong thời gian đi học. Vài tháng sau, đất đai sốt giá, tôi tiếp tục bán và mua thêm ngôi nhà trên đường Hồ Văn Huê, Phú Nhuận. Chính trong thời gian nầy tôi gặp Tín để rồi phải chuốc lấy thêm một bi kịch thứ hai.

 

Một buổi sáng cuối năm 2000, có mấy tời báo đưa tin thầy Tín bị mưu sát hụt. Những dòng tin ngắn cùng với bức ảnh chụp gương mắt Tín bị sưng phù đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện Chợ Rẩy. Lúc bấy giờ tôi đang giảng dạy ở các trường đại học trong thành phố nên có quen biết anh. Và ngay sáng hôm ấy khi bước tới cổng trường thì đã nghe dư luận xôn xao. Tín là phó Giáo sư tóan, vợ anh, chị Dung cũng là phó Giáo sư triết học. Theo báo chí đưa tin thì người mưu sát anh là một thạc sĩ, học trò thân tín của vợ anh, đã bị bắt giam sau khi gây án. Lúc bấy giờ chị Dung đang đi thăm con gái du học ở nước ngòai. Dư luận trong giới đồng nghiệp cho rằng chị Dung thuê tên học trò ruột của mình giết anh Tín nhằm chiếm đọat tài sản đang tranh chấp sau khi đã có quyết định ly hôn, bà đi nước ngòai trong lúc nầy để tạo bằng chứng ngọai phạm. Tên hung thủ đã dùng một cục sắt tròn có gai, quấn trong lớp vải, cột vào một tay cầm. Hắn đập mạnh vào mặt Tín trong khi anh đang đi tập thể dục buổi sáng trên đường Nguyễn Trãi. Chẳng may cho hắn, sau khi gây án thì xe hắn bị bể bánh cho nên bà con khu phố tóm được hắn và giao nộp cho công an.

 

Khỏang mười ngày sau, Tín lái xe du lịch đến nhà tôi, mắt vẫn còn sưng húp: “Nghe mấy đứa sinh viên nói cô vừa mua ngôi nhà nầy, còn một tầng lầu định cho thuê ?”

 

Hai người sống chung một ngôi nhà, một kẻ vừa thôi chồng, một người vừa thôi vợ, cả hai bầu tâm sự nóng bỏng luôn có cơ hội để trút cho nhau. Mồng hai Tết năm ấy, Tín mời tôi đi du xuân, tôi ngần ngại không đi. Anh chở hai đứa con gái tôi đi Suối Tiên. Chiều về hai đứa nhỏ khoe một sắp hình, tòan chụp những cảnh Tín đang đùa vui với chúng, quấn quýt nhau như cha chơi với con. Dù là vô tình hay cố ý, với những bức ảnh ấy, Tín đã đánh gục trái tim tôi, khơi dậy trong tôi nỗi khát khao một mái ấm gia đình của một thiếu phụ mới ngòai ba mươi tuổi.

 

Đêm ấy, sau lễ cưới, Tín lái xe đưa tôi về. Tôi nói với anh: “Cuộc sống của em bây giờ coi như mọi thứ đã đầy đủ, chỉ cần lòng chung thủy của anh”. Tín nhìn tôi xúc động, anh quay xe sang một hướng khác và dừng lại trước một ngôi chùa rồi nắm tay tôi dẫn vào, thắp nhan thề giữ lòng chung thủy”.

 

Mấy ngày sau, tôi chạy lo thủ tục sang tên ngôi nhà ở Hồ Văn Huê thì Tín bàn với tôi: “Mình đã là vợ chồng rồi, phải có trách nhiệm với nhau, hay là thế nầy, 73 lượng vàng còn lại, em cho anh góp vào để hai đứa đứng tên chung”. Mặc dù tôi đã chuẩn bị sẵn 200 lượng vàng để mua ngôi nhà, nhưng nghe Tín nói thế, tôi cũng bằng lòng. Nhưng đến ngày thanh tóan thì Tín rầu rĩ nói: “Con mụ ấy vẫn ngoan cố chưa chịu thi hành án . . . Hay là để anh đi cầm chiếc xe”. Tín lái xe đi, chiều về anh lại rầu rĩ nói: “Khổ cho thân anh, chiếc xe lại nằm trong tài sản phải chia nên con mụ ấy ngăn cản không cho anh cầm cố”. Tôi nói với Tín rằng, thật ra tôi mua ngôi nhà nầy để mai một bán lại kiếm lời, cho nên cứ để một mình tôi đứng tên, mai một có bán thì cũng chỉ một mình tôi làm thụ tục. Nhưng Tín không chịu, anh cho rằng tôi tính tóan thiệt hơn, vợ chồng mà làm như vậy khó coi. Cái gì cũng phải kề vai sát cánh, phước cùng hưởng, họa cùng chia, đạo lý Việt Nam ta xưa nay là thế. Thấy anh có vẽ phật lòng nên khi làm giấy chủ quyền, tôi để anh đứng tên chung.

 

Hai tuần sau, Tín được chia 140 lượng vàng trong việc thi hành án. Anh tâm sự với tôi: “Bố mẹ anh đã già, nhưng từ hôm anh bị mưu sát đến nay, hai cụ phải ra ngòai thuê nhà để lánh nạn. Bây giờ, nếu đưa hai cụ về đây thì em phải làm dâu tội nghiệp cho em. Chi bằng ta mua cho hai cụ một ngôi nhà khác, em bán ngôi nhà ngòai quận Ba để góp vào, coi như tài sản chung của hai ta. Anh sẽ làm giấy xác nhận hẳn hoi”. Tôi nghe lời Tín bán ngôi nhà 102 lượng vàng để góp vào mua một ngôi nhà trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Tín cũng làm giấy tờ ra phường xác nhận cho tôi. Nhưng khi làm giấy chủ quyền thì Tín lại để ông bà cụ đứng tên. Anh giải thích: “Bố mẹ anh là người nhạy cảm và tự trọng, nếu để chúng mình đứng tên thì ông bà cụ sẽ mang mặc cảm ở nhờ nhà con dâu, không nên như thế. Vã lại, em lo gì, mai kia mốt nọ ông bà cụ qua đời thì nó là của mình chớ của ai”.

 

Mua ngôi nhà Nam Kỳ Khởi Nghĩa đến ba trăm lượng vàng, Tín mang giấy tờ ngôi nhà Hồ Văn Huê đi thế chấp ngân hàng để vay thêm 73 lượng. Nhưng trong hồ sơ vay vàng, Tín lại ghi mục đích sử dụng là để mua chính ngôi nhà Hồ Văn Huê, mà lại là co số 73, trùng hợp với lần thanh tóan sau cùng của ngôi nhà nầy. Nhưng thật ra, đó là những chi tiết quan trọng mà mãi đến sau nầy, khi mâu thuẩn xảy ra giữa vợ chồng trong quá trình tranh chấp tài sản tôi mới giật mình trước một âm mưu, còn lúc ấy, tôi như kẻ ngây thơ trước những lời ngọt ngào của Tín. Cứ luôn tự hào rằng mình đang sống với một người chồng trí thức và tử tế. Thậm chí, một năm sau, thấy vàng lên giá, tôi mang 65 lượng ra giải chấp cho Tín mà không chút phàn nàn, cũng không buộc anh phải làm giấy tờ xác nhận.

 

Một hôm, đang ngồi ăn cơm thì bổng dưng Tín tỏ ra trầm tư và than vãn: “Nghĩ cũng buồn cho số phận mình, vợ chồng với nhau mà một người thì thừa tiền gởi ngân hàng, còn một người thì nợ lúc đầu, hàng tháng phải lo cày trên bục giảng kiếm tiền đóng lãi”. Tôi hỏi chuyện gì, Tín tâm sự: “Hồi con gái anh du học, anh phải vay 400 triệu đồng, nhưng khi ly hôn, anh khai trước tòa con mụ ấy không thừa nhận.” Hôm sau, tôi ra ngân hàng rút 400 triệu đồng cho Tín. Anh xúc động đến rưng rưng và tự nguyện lấy giấy viết ra làm biên nhận, hứa trả trong vòng tám năm, mỗi năm 50 triệu đồng và lãi suất một năm là 8,7 phần trăm.

 

6.

Một hôm, Tín rủ tôi lên Bình Châu mua đất. Anh nói ở đó còn một lô đất hơn ba ngàn mét vuông do bạn anh nhượng lại với giá 180 triệu đồng, anh bảo tôi hùn mỗi người một nửa. Thật ra, tôi nghe lời Tín đi mua cho vui, bởi lúc bấy giờ tôi đang ăn nên làm ra với nghề kinh doanh đất, cho nên giá trị một lô đất như vậy đối với tôi chỉ là chuyện cỏn con. Nhưng chính câu chuyện nầy đã làm cho Tín bộc lộ một phần bản chất của mình: thứ nhất, hồ sơ tôi giao đầy đủ nhưng khi ra giấy chủ quyền thì chỉ một mình Tín đứng tên, thứ hai, một người bạn đã rỉ tai tôi rằng giá thực của lô đất ấy chỉ có 90 triệu đồng. Nghĩa là Tín không phải bỏ tiền ra mà được đứng tên lô đất. Tôi đã hứa với người bạn rằng không tiết lộ chuyện Tín kê giá đất, nhưng bảo anh nếu đứng tên một mình thì trả tiền lại cho tôi. Tín hốt hỏang chạy lên Bình Châu ghi thêm tên tôi vào sổ đỏ. Nhưng với tôi, điều quan trọng là tôi đã mất lòng tin và mang nặng nỗi nghi ngờ. Tôi ngồi ngẫm nghĩ và sâu chuỗi lại: thứ nhất, ngay sau khi làm vợ Tín thì tôi đã mất một nửa ngôi nhà vì cho Tín đứng tên chung; thứ hai, cưới nhau được hai mươi ngày thì tôi mất trọn ngôi nhà Nguyễn Đình Chiễu; thứ ba, một năm sau thì tôi mất thêm 62 lượng vàng để trả nợ cho ngôi nhà của bố mẹ anh; thứ tư, sau đó ít hôm thì tôi mất tiếp 400 triệu đồng, và bây giờ, Tín trắng trợn lừa tôi trong lô đất Bình Châu. Nhân cơ hội nầy, tôi đề nghị Tín ra phường làm giấy xác nhận ngôi nhà Hồ Văn Huê là tài sản riêng của tôi, Tín ngoan ngõan làm ngay mà không một lời phiền trách.

 

Một hôm, tôi giật mình nhìn lại, vợ chồng sống với nhau mấy năm rồi mà chẳng có con. Tôi đến bệnh viện Từ Dũ xin làm xét nghiệm, người ta bảo phải có đủ vợ đủ chồng mới làm được, tôi về rủ Tín cùng đi. Kết quả là anh bị vô sinh. Điều nầy có thể làm cho tâm lý anh bị chấn động nặng, hay nói đúng hơn là một cú sốc khi anh nghĩ đến đứa con gái đang du học nước ngòai.

 

Mầm móng bi kịch bắt đầu xảy ra kể từ hôm tôi phát hiện mất cái máy nước nóng trong nhà tắm trên lầu. Cứ tưởng kẻ trộm vào nhà, tôi đi báo công an phường đến làm việc thì bất ngờ chị giúp việc về tới, chị cho biết Tín đã gở nó mang đi. Tôi gọi điện hỏi anh thì anh nói thấy cái nhà tắm trên đó không xài nên anh gở nó mang về nhà bố mẹ. Tôi nhớ bên nhà bố mẹ anh không thiếu mà còn xài lọai đắt tiền. Vậy thì Tín mang đi cho ai ? Tình thế buộc tôi phải tốn một số tiền khá lớn để thuê thám tử theo dõi anh. Và sự thật đã trả lời: Ngòai những cuộc ăn chơi trác tán, những quan hệ bất chính với học trò, với giáo viên đồng nghiệp, Tín thuê hẳn một căn nhà để chung sống với cô bồ nhí trên đường Hòang Hoa Thám, Tân Bình. Tôi không muốn làm rùm beng sợ hổ danh người trí thức, nhưng ngọt ngào, năn nỉ anh thì tỏ ra là người nghiêm khắc, chuẩn mực theo lý lẻ của một nhà giáo có đạo đức để chối cãi. Anh cứ cho rằng tôi nghi ngờ rồi vu khống anh, buộc lòng tôi phải làm ra chứng cứ. Tôi đã bắt quả tang và ghi lại bằng hình ảnh rõ ràng. Nhưng mỗi khi nhìn bức ảnh Tín với người tình trần truồng như nhộng thì tôi cảm thấy rùng rợn, thấy nhục nhã, ê chề cho một người thầy ngày ngày đứng từ giảng đường nầy đến giảng đường khác để xây dựng, để đào tạo một đội ngũ trí thức tương lai. Trong cơn cuồng quần tôi liều mình tự tử. Hôm sau thấy mình nằm trong bệnh viện Trưng Vương. Khi xem hồ sơ, biết mình nhập viện lúc ba giờ sáng. Tôi chợt nghĩ, tôi uống mười viên xeduxen trước mắt Tín vào lúc bảy giờ tôi, đến ba giờ sáng anh mới đưa tôi nhập viện, nghĩa là anh thật sự muốn cho tôi chết. Tôi đâm ra hối hận vì mình ngu dại.

 

Một hôm, tôi đang giảng bài trong trường thì thám tử báo tin, Tín đến tiệm rượu của người học trò cũ để gạ bán tòan bộ số rượu ngọai trong nhà. Đó là hơn một trăm chai rượu nghĩa rượu tình mà số sinh viên đại học, cao học đã tặng tôi và anh vào dịp lễ tết của những năm qua. Tôi gọi điện thọai cho chị giúp việc rồi gọi cho mấy em thám tử cấp tốc mang xe đến nhà chuyển rượu đi nơi khác. Chiều về, nghe tin Tín đang lên công an phường khai báo về việc kẻ trộm vào nhà ăn cắp rượu. Tôi chạy lên công an phường cho hay rằng chính tôi đã chuyển rượu đi nơi khác. Anh nói tủ rượu ấy trị giá một trăm triệu đồng, nếu tôi lấy thì phải trả lại anh năm mươi triệu. Tôi bảo về nhà đi rồi tính sau. Khi về đến nhà, Tín mở khóa rào, bất ngờ anh đập ổ khóa vào mặt tôi, máu tuôn xối xả. Lúc ấy trời chập chọang tối, tôi là làng lên, công an đến lập biên bản thì Tín bỏ đi. Sáng hôm sau, tôi mời anh lên taxi ra tiệm rượu quen với tôi trên đường Hồ Tùng Mậu, tôi khui niêm phong mấy thùng rượu ra nhờ bà chủ định giá. Hóa ra hầu hết là rượu giả, số rượu thật còn lại chỉ đáng giá năm triệu đồng. Tôi lấy hai triệu rưỡi đồng ra đưa cho Tín và mang một nửa số rượu về nhà, cất vào tủ để làm kỷ niệm. Dẫu là rượu giả, nhưng lòng tôn sư trọng đạo của các em sinh viên vẫn là có thật. Cũng như tôi, các em đã không lường được kẻ xấu có thể giả làm người tốt thì rượu thật rượu giả nào có nghĩa lý gì !

 

Cuối năm ấy – năm 2006 – tôi nộp đơn ra tòa xin ly dị. Nhưng đã hơn một năm nay tòa vẫn chưa xử được vì chưa xác định đâu là tài sản riêng và đâu là tài sản chung giữa hai người. Ngay cả cái giấy xác nhận tài sản riêng của tôi về ngôi nhà Hồ Văn Huê cũng đã bị đánh cắp. Mặc dù nó còn lại bản sao thị thực nhưng trước tòa, Tín vẫn khăng khăng đó là tài sản của anh, nay thì nói tòan bộ, mai lại nói một nửa, lúc thì lý nầy, khi thì lẻ khác. Nhà chức trách không biết tin vào đâu khi sự thật đã bị đánh lận con đen bằng cả một mưu đồ.

 

Với luật pháp, tôi có thể gởi niềm tin vào công lý, dù biết rằng còn lắm gian nan. Nhưng với cuộc đời, khi vẫn còn tồn tại những thầy thuốc như Đức, những nhà giáo như Tín thì tôi luôn ám ảnh, phập phồng, lo sợ trước những mối nguy cơ đang tiềm ẩn và sẽ tiềm ẩn biết đến bao giờ !?

 

( Ghi theo lời kể của chị T.T.D )

Võ Ðắc Danh
Số lần đọc: 3814
Ngày đăng: 11.03.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhân kỷ niệm 100 ngày mất của nhạc sĩ La Hữu Vang 28.12-06.3.2008 : Tản mạn đôi điều về anh. - Mang Viên Long
Anh Võ Đình Cường -Thử Hòa Điệu Sống trong Ánh Đạo Vàng. - Trần Kiêm Ðoàn
Máu Nhuộm Bãi... Thuốc Lá -1 - Lê Xuân Quang
Máu Nhuộm Bãi... Thuốc Lá -2 - Lê Xuân Quang
Một lần với Kỳ Anh - Hồ Tĩnh Tâm
Canh bạc ở Đức Hòa - Võ Ðắc Danh
Cha tôi - Nhà thơ Trần Dần - Trần Trọng Vũ
Hiệp Hội Tương Tế Bắc Việt Nghĩa Trang-1 - Trần Vũ
Hiệp Hội Tương Tế Bắc Việt Nghĩa Trang-2 - Trần Vũ
Tội ác truyền đời - Phùng Phương Quý
Cùng một tác giả
Mùa trái mắm (tạp văn)
Nhớ đồng (tạp văn)
Nồi cháo trắng (truyện ngắn)
Thư Sài Gòn (tạp văn)