Tham luận: “Orhan Pamuk, giữa Đông và Tây”, tại Hội chợ sách TP Hồ Chí Minh lần 5.2008 - Công viên Lê Văn Tám, TP Hồ Chí Minh, 11.03.2008.
Sáng ngày 11.03.2008 vừa qua, bởi tác giả được chọn Đề dẫn và dẫn chương trình nên, tham luận này không được trình bày tại Hội thảo. Nay VCV đăng lại lại đây.
_
Trả lời phỏng vấn báo Das Magazin (Thụy Sĩ), Orhan Pamuk đưa ra tuyên cáo về vụ ba mươi ngàn người Kurd (ở Anatolia) bị sát hại và cuộc diệt chủng một triệu người Armenian (1915-1917) tại Thổ Nhĩ Kì mà gần thế kỉ qua, không một ai lên tiếng. Orhan Pamuk đã không im lặng về sự im lặng này. Hậu quả là ông bị hai hội đoàn luật gia chuyên nghiệp Thổ khởi tố trước tòa vào ngày 16.12.2005. Vụ án bị Hội Ân xá Quốc tế cùng nhiều nhà văn, trí thức nổi tiếng trên thế giới phản ứng quyết liệt.
Orhan Pamuk tạm thoát. Sau đó là cuộc sống bán lưu vong đầy bất trắc.
Vấn đề nào của thế giới, của đất nước Thổ Nhĩ Kì, và của chính ông đã đẩy nhà văn đối mặt với hoàn cảnh oái ăm đó?
Phương Đông và phương Tây là khái niệm gây ám ảnh nhiều thế hệ trí thức ở hai đầu trái đất. Nhân loại mặc nhiên công nhận có sự khu biệt lớn giữa chúng. Về văn hóa-văn minh, về tư tưởng và cả các lĩnh vực khác. Khu biệt và xung đột.
Từ hơn hai thế kỉ qua, đã có những bước dọ dẫm tìm hiểu từ cả hai phía. Từ Leibniz cho đến Hegel, Schopenhauer, Heidegger hay Fr.Jullien; từ Nishida, Nishitani Keiji, Nishitani cho đến Suzuki; từ Vivekananda cho đến Krishnamurti,… Qua nỗ lực tìm hiểu và đối thoại của họ, tư tưởng xuất phát từ các nền văn hóa-văn minh Âu châu [và Thiên Chúa giáo], văn hóa-văn minh Ấn Độ [và Ấn giáo, Phật giáo] và văn hóa-văn minh Trung Hoa [và Khổng - Lão] có cơ hội xích lại gần nhau hơn. Từ đó, khai mở cho nhân loại hi vọng vượt qua rào cản suốt hơn hai ngàn năm phân cách.
Con người tồn tại trên mặt đất này nhận thức rằng một nền văn hóa không thể bị phủ nhận hay triệt tiêu bởi một nền văn hóa khác, chúng có thể được soi sáng bởi lối nhìn mới mẻ và bao dung hơn, để qua đó làm cuộc dung hợp hay tiếp biến.
Mức độ nào đó, các trí tuệ lớn phần nào làm được trách nhiệm của mình.
Thế nhưng, giữa cuộc giao ngộ đó, tư tưởng Hồi giáo và và văn hóa-văn minh Trung Đông ở đâu, trong thế giới nhiều biến động này. Khác đi: các nền văn hóa-văn minh ngoài Hồi giáo đã làm gì cho cuộc đối thoại kia? Chưa gì cả!
Và nhà văn nữa, họ đứng ở đâu?
*
Nedim Gursel cho rằng lưu vong theo nghĩa rộng, là một trong những định mệnh khả hữu cho nhà văn thời chúng ta. Lưu vong chính trị, lưu vong văn hóa và cả lưu vong ngôn ngữ.
Thử điểm qua vài khuôn mặt: Joseph Conrad, rời Ba Lan lúc bốn tuổi, sáng tác bằng tiếng Anh. Vladimir Nabokov, sang Mĩ vẫn có vài tác phẩm bằng tiếng Nga, sau đó mới chuyển hẳn sang tiếng Anh từ đó nổi tiếng. J. Brodsky: nhà thơ Nga sống ở Mĩ, viết tiểu luận bằng tiếng Anh nhưng làm thơ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Gần hơn, Cao Hành Kiện sống ở Pháp vẫn sáng tác bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, còn Salman Rushdie chỉ viết bằng tiếng Anh,… Tất cả họ là nhà văn lưu vong. Có thể mỗi người chịu một định phận khác, bởi nguyên do khác nhau và quan điểm khác nhau. Kẻ hoài hương và hoài cổ, kẻ chống lại chế độ đương quyền của đất nước mình, kẻ phản kháng văn hóa chính lưu nơi cố quốc: Salman Rushdie bị coi là kẻ thù Hồi giáo là một điển hình.
Cạnh đó, vẫn có người mang tham vọng làm cuộc dung hợp, Orhan Pamuk là một.
Thổ Nhĩ Kì nằm ngay bản lề của xung đột Đông Tây, chịu sự phân tranh liên miên giữa chủ nghĩa thế tục và chế độ thần quyền ở đó tôn giáo luôn đóng vai trò trung tâm đời sống tinh thần của cộng đồng, trong thế cuộc đối kháng giữa văn minh Âu Mĩ với [một phần] thế giới Hồi giáo mà biểu hiện tai hại nhất là chủ nghĩa khủng bố lan rộng, hơn thập niên qua. Orhan Pamuk đứng ở đâu?
Dù tự nhận là “người dân chủ, thế tục, tự do và ủng hộ quá trình Âu hóa”, nhưng rất dễ thấy, ông đứng ngay đường biên sự luân chuyển của hai luồng tư tưởng và các biến cố.
“Tương tự, sự thù địch ngoài mặt đối với Mỹ, như trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, đã tạo điều kiện để những người quản lý đất nước lãng phí tiền bạc họ nhận được từ các tổ chức tài chính thế giới qua việc tham ô và do thiếu trình độ quản lý, cũng như giúp cho họ có thể che giấu được khoảng cách phân hóa giàu - nghèo mà ở Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay đã vượt quá ngưỡng có thể chấp nhận được”.
“… Giờ đây, khi nghe người ta hô hào một cuốn chiến tranh giữa phương Đông và phương Tây, tôi lại e sợ rằng phần lớn thế giới này sẽ trở nên giống như Thổ Nhĩ Kỹ, nơi mà tình trạng thiết quân luật đã tồn tại dai dẳng. Tôi sợ rằng chủ nghĩa dân tộc tự thoả mãn, tự cho mình là đúng đắn của phương Tây sẽ dồn phần còn lại của thế giới đến một cuộc đấu tranh ngoan cố chống lại thế giới phương Tây”.
(“Cơn giận của những người dưới đáy”, Hải Ngọc dịch, Damau.org, 1.11.2006).
Như thế, ông luôn chịu sự ma sát giữa hai thế lực chính trị, văn hóa gần như bất khả hòa giải, luôn căng thẳng và chỉ chờ nổ tung. Có thể nói đó là thế đứng khả dĩ nhất của nhà văn “lưu vong” đến từ thế giới ngoại vi. “Ở Đức tôi sống một cuộc sống rất cô độc”, như nhân vật Ka - Tuyết tự nhận. Theo cách nói của Albert Camus: nhà văn là kẻ bị đẩy xuống tàu, con tàu thời đại. Bạn phải sống trong và với nó, dù con tàu đó hôi rình tới đâu. Bạn không tự nguyện nhập cuộc mà là – bị đẩy xuống. Luôn luôn cô độc. Càng cô độc hơn khi ông [chọn] viết bằng tiếng Thổ Nhĩ Kì, ngôn ngữ dân tộc không phải là phổ thông [hay trung tâm] trên thế giới.
Sống tại đường biên, Orhan Pamuk sẽ viết như thế nào?
Không thể “đầy bản sắc” để chiều chuộng thế lực chính trị nhân danh truyền thống dân tộc để ru ngủ quần chúng ít học, càng không lấy lòng phương Tây (như nhân vật Kahir - Tuyết) để bội phản tinh hoa văn hóa tổ tiên (hàng nghìn bức tiểu họa của các nhà tiểu họa đạo Hồi thế kỉ XVI trở về trước - Tên tôi là đỏ). Ông nhận mình là hiện thân của văn học Hồi giáo cổ điển trong ý hướng sáng tạo một nền văn học hiện đại và hậu hiện đại. Nhưng Orhan Pamuk đánh giá nền văn học cổ điển âm hưởng Hồi giáo hoàn toàn khác. Đó là văn học không lệ thuộc vào hoàn cảnh xã hội, đạo đức cộng đồng hay ý thức hệ tôn giáo, mà chỉ nhấn vào chính tác phẩm.
Đơn giản hơn, như lời nhân vật Muhtar - Tuyết: “Chúng tôi không [làm đẹp ý Fahir bằng cách] theo thơ ca [cấp tiến phương Tây] thuần túy mà bận bịu với văn hóa dân gian và ‘vẻ đẹp địa phương’”. Đó là nhìn nhận sự việc qua cảm thức hậu hiện đại: vô phân biệt và phi tâm hóa. Nhà văn hậu hiện đại là kẻ có thể thử nghiệm thủ pháp thi ca mới nhất đồng lúc vẫn cặm cụi đi vào cuộc sống nông thôn lượm nhặt từng dòng ca dao, từng câu tục ngữ trong dân gian.
Châm ngôn “Suy tư toàn cầu, hành động địa phương” là tính thực tiễn của hậu hiện đại. Phi trung tâm hóa là đặc điểm dân chủ của hậu hiện đại. Hậu hiện đại tôn trọng sự đa dạng, các giá trị trái nhau, những phi chuẩn, ngoại vi, dân tộc thiểu số, người nữ, da màu, phi phương Tây,... Phi đại tự sự khẳng định tư thế cá nhân, là đặc điểm nhân văn của hậu hiện đại.
“Có một ngờ vực song song ở Tây phương, nơi mà nhiều độc giả tin rằng những nền văn chương bản địa nên phải được giữ thuần khiết và sát cận với gốc rễ quốc gia: Hãi sợ thầm kín của họ là một nhà văn nhắm tới độc giả quốc tế và lấy chất liệu bên ngoài văn hoá của họ sẽ tự đánh mất tính trung thực của mình”.
(“Bênh vực cho độc giả lí tưởng”, Nguyễn Hoàng dịch, Damau.org, 21.10.2006).
Phát biểu không khỏi khiến ta liên hệ tới quan niệm khá lạc hậu rằng văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam cần trụ vững ở nỗi “đậm đà bản sắc”, ngưng lại đó mà không là gì khác. Từ đề tài, ngôn ngữ thơ hay cách biểu hiện.
Cư trú trên đường biên, Orhan Pamuk có được vị thế và cơ hội để quan sát, từ đó ném cái nhìn sắc lẹm về cả hai phía. Ông thể hiện chúng qua khối lượng tác phẩm đáng nể. Có thể Tên tôi là đỏ đồ sộ, và được cho là công trình kì vĩ, lộng lẫy, bất hủ nhưng dường như thông điệp chính ông muốn gởi đến cho cả phương Đông lẫn phương Tây chính là tác phẩm đã khiến ông chịu rời bỏ tháp ngà của mình: Tuyết. Một cuốn tiểu thuyết mang tính chính trị đậm nét.
Tiểu thuyết vẽ lại hành trình của Ka [hay phần nào của chính tác giả]: sống lưu vong nhưng chưa bao giờ bận tâm đến chính trị; nhân vật mà mọi đam mê, suy nghĩ dồn hết cho thi ca [hay nghệ thuật] nhưng rồi bị đẩy rơi vào các sự biến chính trị để cuối cùng nhận lấy cái chết”. Một hành trình vừa hiện thực vừa mang tính biểu trưng. Ở đó gồm thâu luôn đề tài đã được ông đề cập trong Tên tôi là đỏ. Ở đó có cưỡng ép, bạo hành, có khăn trùm đầu và phong trào đòi vứt bỏ nó, có cuồng tín và báng bổ, có nghe lén điện thoại và đặt máy ghi âm bí mật; ở đó có đàn ông hiến mình cho tôn giáo còn phụ nữ thì tự sát, có tị nạn chính trị, có ám sát và khủng bố, có cảnh sát, dùi cui và nhà tù, có Thượng đế và vô thần, có phân hóa giữa truyền thống và hiện đại, có thơ ca cấp tiến theo phương Tây và văn hóa dân gian, có cái đẹp và sự xấu ác, hi vọng và tuyệt vọng,…
Tuyết như thể một thế giới Trung Đông hiện đại thu nhỏ vậy.
Nhìn toàn cảnh, dù ý định sáng tác mang xu hướng hiện đại và hậu hiện đại, nhưng trên thực tế trong quá trình sáng tạo, Orhan Pamuk đã thử nghiệm nhiều phong cách khác nhau. Từ hiện thực huyền ảo đến tiểu thuyết chương hồi, từ lối phối hợp truyện và ảnh đến việc trộn lẫn giữa truyện vụ án li kì với tiểu thuyết lịch sử lãng mạn và cả ngụ ngôn như ta đã thấy nó được thể hiện tài tình ở Tên tôi là đỏ, nhưng căn bản Orhan Pamuk vẫn viết trong truyền thống “cổ điển”. “Thuyết thoại của Pamuk kể lể dông dài như tiểu thuyết Nga của thế kỷ 19 nhưng phong cách mang dấu ấn hậu hiện thực. (Đặng Phùng Quân, Talawas.org, 25.11.2006).
Không phải không lí do, khi đặt câu hỏi Orhan Pamuk góp gì vào tiến trình phát triển văn chương thế giới, người ta đâm hồ nghi giải thưởng Nobel văn chương là một ý đồ được tính toán trước của ông; theo đó nó chỉ là động thái thuần màu sắc chính trị của Hội đồng Hoàng gia Thụy Điển [nghĩa là một phần của thế lực phương Tây].
Sống ở Thổ Nhĩ Kì, đất nước nằm ngay cửa ngõ châu Âu nhưng chưa thật sự mở ra với thế giới [phương Tây], ông không thể [hay không muốn] viết như Eco, Kundera hoặc xa hơn – Márquez. Ông thấy mình mang trách vụ “phản ánh” đúng hiện thực thế giới đó, với bao bí ẩn đầy quyến rũ của nền nghệ thuật vùng đất chưa được khai phá, các nét đẹp văn hóa đa dạng hãy còn xa lạ với thế giới bên ngoài, quan niệm tôn giáo - triết học, xung đột chính trị - xã hội với bao bất công và khốn khổ mà kẻ dưới đáy xã hội hay dân tộc thiểu số phải gánh chịu mấy thế kỉ qua. Ông dám thọc sâu con dao mổ xẻ vào vùng nhạy cảm nhất, nếu không muốn nói là taboo của xã hội ông sống. Ông muốn “phản ánh” chúng ở nhiều góc cạnh khác nhau. Ở đó, phương pháp hậu hiện thực đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
Đó cũng là điều đang được/bị đòi hỏi ở văn xuôi Việt Nam lúc này, có lẽ. Lâu nay chúng ta hay trăn trở và than phiền về văn chương “chưa đứng ngang tầm thời đại”. Chúng ta đã chờ đợi, mòn mỏi chờ đợi một Chiến tranh và hòa bình của Việt Nam mở mắt chào đời. Thời gian qua, không ít nhà văn đã nỗ lực. Nguyễn Mộng Giác với Sông Côn mùa lũ hay gần hơn – Dương Hướng qua Dưới chín tầng trời, biểu hiện rất rõ ý hướng ấy. Thế nhưng nơi người viết văn xuôi hôm nay, số lượng tác phẩm và dung lượng thông tin chưa lớn, và cả sự hấp dẫn của ngòi bút nữa.
Nhà văn chúng ta vẫn còn chưa [nhìn ra để] động cập đến tâm điểm của tâm điểm vấn đề [hay vấn đề của vấn đề] thời cuộc đất nước-dân tộc? Chưa đủ dũng khí và độ lì lợm để nói nó ra với thế giới? Hay chưa đủ tài năng cần thiết? Để có thể, nói một cách sáo mòn rằng, chỉ khi đi đến tận cùng dân tộc, chúng ta mới gặp nhân loại.
“Tôi chỉ muốn viết ra những cuốn sách hay”, ông từng tuyên bố như thế. Phát biểu tại lễ nhận giải Nobel, ông thêm: “Tôi viết vì tôi muốn những người khác, tất cả quý vị, toàn thể thế giới biết chúng tôi đang sống và tiếp tục sống cái kiểu cuộc sống nào, ở Istanbul, ở Thổ Nhĩ Kì” (Trần Tiễn cao Đăng dịch).
Trong tiến trình phát triển văn chương thế giới, Orhan Pamuk là một hiện tượng quan trọng. Chúng ta trân trọng tác phẩm ông, càng trân trọng hơn nữa tư cách nhà văn-công dân cũng như Tinh thần thế giới của ông, sự dũng cảm của ông, nhất là thông điệp ông muốn gởi đến cho chúng ta, trong thế giới đầy đối kháng và bạo động phi nhân này.
Trả lời phỏng vấn báo Newhouse online, ông nói: “Tôi đã nói với độc giả tôi rằng cái quan trọng không phải là sự đụng độ của các phe phái, các nền văn minh, các nền văn hóa, đụng độ giữa Đông và Tây hay bất cứ cái gì đại loại như thế. Hãy nghĩ rằng những người khác trong các lục địa khác và nền văn minh khác đều rất giống quý vị và quý vị có thể học hỏi điều này xuyên qua văn chương”. Bởi, “Cái quan trọng không phải là văn minh mà là đời sống con người, là những điều vụn vặt trong đời sống hàng ngày - những mùi vị, những màu sắc linh tinh và không khí đời sống hàng ngày và những câu chuyện lỉnh kỉnh trong cuộc sống chúng ta”. (Orhan Pamuk, “Nối liền hai thế giới”, Damau.org, 21.10.2006).
Orhan Pamuk – một nhà văn nhân bản trong nghĩa đầy đủ nhất của ngôn từ.
Cuối cùng, Orhan Pamuk có một ước muốn cho/của riêng ông: “gắn liền với thành phố này bởi nó đã tạo ra tôi như con người tôi”. Nhưng ông đã không thể. Như con đường vạch sẵn cho nhà văn tiên phong. Bởi lưu vong là định mệnh của văn chương thế kỉ XX. Và cả XXI, chắc thế.
Sài Gòn, 23.02.2008.