Lời tòa soạn: Năm 1995 nhà văn Trần Vũ về Việt Nam, tình cờ đọc tác phẩm “Mưa Nhã Nam” của Nguyễn Huy Thiệp, ông viết truyện ngắn “Nhã Nam” như một cách đối/họa lại tác phẩm này, bằng chính câu văn cụt của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Nhã Nam với bút pháp hiện thực huyền ảo, quá khứ - hiện tại, lịch sử - thời sự, Sàigòn, Nghệ An, Côn Sơn, Chi Lăng đan xen vào nhau, không gian – thời gian đánh tráo thứ tự liên tục, tạo cho người đọc cảm giác hư hư thực thực.
Chúng tôi về Nhã Nam, quê của Th. Nhã Nam đất hẹp, nhiều cây, sông nước và những rừng người. Th đón tôi ở sân bay, gương mặt anh tầm thường như mọi người tôi không nhận ra. Th là nhà văn, từ khi mở nhà hàng mang tên hoa Tây Bắc anh thôi viết. Trước, tôi ngỡ đã đọc hết truyện Th. Anh có lối viết mỗi câu như nhát mác phạt vào gốc chuối phọt mủ. Th đưa chúng tôi vào hiệu sách. Tôi với chị T loay hoay lựa. Sách của Th tái bản toàn tập, có truyện Mưa Nhã Nam tôi chưa hề đọc. Chị T đẹp, rực rỡ, cười luôn. Chị về Nhã Nam trăm lần chưa chán. Chúng tôi đi uống nước. Thằng bé gạ đánh giầy. Tôi hỏi Th:
- Ðàn ông học vi tính, đàn bà làm điếm, con nít đánh giầy, bán vé số, tương lai ở đâu?
- Ở niềm tin vào hành động học vi tính, làm điếm, bán vé số.
Th trả lời, lạnh lùng.
Chúng tôi về nhà. Vườn vải nở ngát uốn lên núi Bái Vọng những bông trắng lung lay giống tấm lụa trắng ai giăng trước mắt. Th đăm chiêu. Chị T đi tắm. Có ai gọi điện. Chị T trả lời điện thọai cầm tay qua tiếng nước. Tôi bảo Nhã Nam giống Côn Sơn. Th đáp Nhã Nam là Côn Sơn. Cơm chiều vợ Th dọn lên hai khúc cá chiên xả, canh hến, một đĩa gỏi ngó sen. Vợ Th cũng tầm tầm triệu đàn bà chúng tôi trông thấy lúc sáng. Th giục cầm đủa. Tôi nói đợi chị T. Vợ Th giắt con xuống bếp. Nhã Nam buổi chiều mưa căng qua rừng vải giống lụa ướt máng dài tới núi. Th bảo ở đây ít bữa anh dẫn đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Giá trong nước hai mươi ngàn một vé. Giá ngoài về gấp ba.
- Tôi cũng người Nhã Nam sao phân biệt?
- Nhã Nam có hạ có thượng, có chiếu trên chiếu dưới, có nhân đạo, vô học và ăn cướp.
Th hút thuốc lào. Khói khét đặc buồng. Anh vừa trí thức vừa bần cố nông, bây giờ rắp ranh tư sản nhà hàng, chỉ còn chút hương hoa Tây Bắc làm giấc mơ.
Mưa lớn. Chị T vẫn chưa ra. Th đi mua đế. Ðế nếp gò Mã Yên, nơi Liễu Thăng bị chém, uống vào như uống huyết sôi, nóng, đắng. Tôi với Th ngồi nhìn mưa Nhã Nam bôi những dấu chân trâu bừa trên đất. Không nơi nào như Nhã Nam, ô tô với trâu di chuyển trên cùng đường cái. Thời gian Nhã Nam dài, thư thả, đủ để đếm hết móng trâu và vỏ xe qua đường.
Chị T tắm xong, vẫn điện thoại, vừa cầm máy, vừa chải tóc. Chị thích những cuộc hẹn vu vơ, bất chợt, không mục đích, không quan trọng nhưng nhiều đam mê. Quen lâu, tôi vẫn chưa hiểu chị kiếm gì trong cuộc sống. Th nhìn chị T, đôi mắt đục gần như không trông thấy. Chị ở thế giới khác, không còn là đàn bà Nhã Nam. Th hiểu, cũng hiểu hương hoa Tây Bắc ngữi thấy nhưng không bao giờ nhốt được. Không khí nặng. Th giục tôi cạn ly, bầy bàn trước hiên. Mùi đất pha dầu tắm ở tóc chị T chen mùi đế gò Mã Yên nồng nồng. Mưa lấp núi Bái Vọng rồi rừng vải, đến sân đất nện. Chúng tôi giống ngồi trước mặt ao. Chị T ném một viên sỏi xuống nước, vỡ những bong bóng xoè. Th kéo ghế, tựa cột đà khắc chi chít đại tự.
- Ngày xưa Nguyễn Ứng Long dạy học ở đây.
Th trỏ tấm phản mục kê trong góc.
- Nguyễn Trãi làm thơ chỗ chị ngồi.
Th lại trỏ chị T. Chị cười, vẫn rực rỡ.
- Chỗ tôi và anh ai ngồi?
Tôi gắp khúc cá, nhằn xương. Th nói Mời chị, và cơm:
- Thời điểm nào? Trước hay sau Hồ Quý Ly?
- Trước?
- Cụ Ðán.
- Sau?
- Bọn mất dậy.
Chị T cười ngất. Tôi với Th không cười.
Trời bức. Mưa nhưng vẫn bức. Th ăn một loáng hết thố cơm. Tôi hết chuyện nói, nhìn vơ mấy chữ sơn son thếp vàng khắc đầy vách. Th kể Nguyễn Trãi là một thiên tài. Nhà này lúc trước là một gian thuộc Băng Hồ Gia Trang của cụ Trần Nguyên Ðán, sau chia thành nhiều hộ. Từ khi mở nhà hàng đặc sản sinh lợi, Th mua lại, chữa trang cố bảo trì hồn thiêng sông núi. Anh kể Nguyễn Trãi sinh thời làm thơ xuất thần, không bút, không giấy, chỉ cần nhìn lên vách: chữ hiện như đóng triện son.
- Một trăm bài thơ quốc âm, Nguyễn Trãi nhìn một trăm lần, đời sau không thể xoá.
- Thơ là trí tuệ, không cần lao động tay chân.
Tôi hưởng ứng. Chị T cười rũ.
Th ngâm: "Ðường cùng Nguyễn tịch khóc làm chi"..
- Câu này không còn trên vách.
- Tôi tưởng đời sau không thể xoá?
- Không xoá, nhưng chủ trước rỡ bán cho Ðài Loan.
Th lầm bầm.
Tối. Ra về. Th hỏi đi đâu? Tôi nói Uống rượu. Th chặc lưỡi:
- Trong rượu. Ngoài về cũng rượu. Chẳng có gì khác.
- Khác gì? Mình là người Nhã Nam.
Tôi chở chị T bằng xe Cub. Ðường đất trơn, xe chao lạc vào rừng vải loá. Triệu cánh vải vươn như tay thiếu nữ chụp bắt. Tôi tránh xém ngã. Bông trắng rụng nhàu đất. Xe lao xuống chỗ trũng, nước mưa ngập gối bắn hai bên bửng. Chị T níu vai gọi:
- Có thấy mấy cô ven đường?
- Ðâu?
- Lúc nãy xuyên rừng vải.
- Ðây là Nhã Nam.
Chị T cười. Tôi khiển xe, hình dung gương mặt chị, tươi lúc cười, bình thường buồn thắm. Chúng tôi hẹn cùng về Nhã Nam. Lúc ở ngoài, tôi hỏi Chị về Nhã Nam trăm bận không chán? Chị trả lời Rong chơi đâu cũng vậy, về Nhã Nam vui buồn lẫn lộn. Ra khỏi rừng vải, xe Dreams phóng loạn. Tôi tránh lại xém ngã. Chị T la:
- Cẩn thận!
- Không chết đâu!
"Cuộc đời vẫn đẹp sao", "tình yêu vẫn đẹp sao", tôi hát. Chị T kêu Quỷ. Th đuổi theo sau. Tiếng máy xe Cub 70 của anh rống. Nhưng chúng tôi đã ra tới phố. Phố Thi Sách, Lê Qúy Ðôn, Nguyễn Du, Ngô Quyền, Phạm Ngũ Lão. Quán Buffalo Blues, Q Bar, Doors Pub, Apocalypse Now, Venus Club...
Xe ghé Guns n' Roses. Bảo vệ giữ xe, đưa thẻ. Th thôi đuổi. Th hiểu Nhã Nam có thượng có hạ, có trong, ngoài và có những quán bar năm mươi ngàn Nhã Nam một ly. Chúng tôi là Nhã Nam kiều.
Gần sáng có tin Tổng Giám Mục Nhã Nam mất. Ðồn đãi: trước lúc chết ông á khẩu, nhiều giáo dân thương tiếc. Tôi với chị T ra khỏi quán, giáo đường treo cờ rũ. Chúng tôi đi qua phố chết. Cửa hàng đóng kín. Không phải để tang, nhưng vì những giọt sương chưa vở trên tàn phượng. Nhà thờ thả lụa tím. Tượng thánh buộc băng đen. Ðường phố lạnh lẽo. Chị T nói ghé nhà Th. Tôi rủ đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Chị T trách:
- Chỉ thích những trò hung bạo.
Chị không cười. Xe xuyên rừng vải chưa nở, cánh khép, trắng yếu ớt. Nhà Th trồng một chậu mai chiếu thủy, hương rắc tận chân núi Bái Vọng.
Th đợi chúng tôi suốt đêm. Khuôn mặt anh nhầu nát, nhưng đầy kiên nhẫn. Trông thấy chúng tôi, Th đạp máy. Hai xe Cub chạy song song. Chị T mặc jupe, ngồi một bên đong đưa giầy trắng. Gió mát, cây cối im, đường đất đỏ tươi. Xe qua chùa Tư Phúc. Th chỉ:
- Khi Thái Tôn đuổi về lãnh chức quan đề cử, Nguyễn Trãi giữ chùa này.
Anh ngâm: "Anh hùng để hận mấy nghìn năm"..
- Thơ Nguyễn Trãi?
Chị T hỏi. Th gật đầu. Tôi thắc mắc.
- Sao không thấy khắc trên vách?
- Không được phép.
Th cầu nhầu.
Tiếng xe Cub rù rù. Ðường lên ải Chi Lăng khúc khuỷu. Chúng tôi không ngớt trả số. Cảnh sắc thay đổi, mây xám, núi đen, ruộng su hào xanh bật. Mặt ruộng đầy vết xe tải.
- Bọn buôn hàng Trung Quốc mỗi ngày qua đây trăm bận. Th giải thích.
- Có Lê Sát nào chận không?
- Bận xây khách sạn cả rồi.
Anh rú ga phóng lên trước. Qua khỏi đèo đổ dốc, tuột như trôi, tiếng phanh xe hơn tiếng lợn thổ huyết. Chúng tôi trả tiền vào bãi. Hai mươi ngàn vé Nhã Nam. Sáu mươi ngàn vé Nhã Nam kiều.
Nghĩa quân Lam Sơn chật rừng. Giáo mác tủa, cả vùng như cắm chông. Gió lớn. Cờ Quyết Thắng lượn rắn. Lê Thụ vận giáp trụ, người thô, trán ngắn. Lưu Nhân Chú, Lê Linh cởi truồng, mình xăm. Lê Sát múa đại đao xoăn xoắt. Nguyễn Trãi ghìm ngựa trước "Ngõ Thề". Trãi mặc áo vải tơ tằm, xinh như một thiếu nữ. Chiêng gióng sáu hồi, quân Minh từ Quỷ Môn Quan kéo xuống. Lê Sát thúc ngựa kiệu qua vách núi Hàm Quỷ và Cai Kinh, người ngựa gân guốc vượt lũy. Chinh Lự An Viễn Hầu Liễu Thăng hoa chùy đánh. Lê Sát quầy ngựa, hồi mã thương, đường đao đẹp như ánh lửa.
Lũ trẻ giành nhau thủ cấp, cả bọn lừa đá. Lê Sát lấy găm rạch lườn Liễu Thăng thích gan bỏ vào bình ngâm sẵn rượu thuốc. Chị T nhắm mắt.
Giấc trưa về, đường khô, nắng gắt, tôi với chị băn khoăn:
- Chết thật hay giả ?
- Cái chết nào cũng thật, không cái chết nào giả.
Th trả lời, lầm lì. Chị T vẫn còn sợ, tôi khiển xe, chị ôm lưng, tay lạnh ướt. Hương mai chiếu thủy tiết từ núi Bái Vọng nhờ nhợ không đủ lấp mùi tanh. Vợ Th dọn sẵn cơm. Thịt rắn bầm, tiết rắn pha, da rắn chiên dòn, cháo rắn hạt sen. Chị T không dám đụng đủa.
Chiều có tin nhạc sĩ VC chết. Chị T buồn, chúng tôi ra quán. Phố Nguyễn Du đầu đường có hiệu cơm Bà Ðại đắt vì tổng thống Pháp đến ăn chụp hình, cuối đường quán Buffalo chơi nhạc jazz. Chị T nói — Nhã Nam ngoài ăn uống không biết làm gì. Chúng tôi ngồi nghe nhạc. Năm trước về, tôi ấn tượng trở về quá khứ, năm nay bước vào tương lai. Quá khứ hung bạo và tương lai hung bạo. Chị T nhắc chuyện nhạc sĩ VC mất. Hỏi có đi đám? Tôi lắc đầu. Mỗi thế hệ có một cái chết riêng. Chiều xuống nắng nở trên da những đứa bé đánh giầy. "Da nước mưa" như Duras tả trong Người Tình. Chúng tôi kêu phục vụ để nhạc S. Ca sĩ Hn gọi nắng. Tôi với chị T nghe bản nhạc nhiều lần — Nhã Nam, sống giữa nắng, xúc cảm hết lời nhạc. Hn gọi nắng da diết. Nắng chết trên sông, trên mặt lộ. Chữ chết bất tận.
Chị T về nhà Ns. Tôi bỏ chị ở đường 3 tháng 2.
Nhà Th khuya khoắt. Sương đêm phủ tím vải rừng. Ngôi nhà cụ Ðán tịch mịch. Chậu mai chiếu thủy lạnh biếc. Th biến mất. Ngõ tối. Ðèn chai thắp yếu ớt. Tấm phên rã rời mở ra vườn sau đối núi Bái Vọng. Tôi gọi Th. Tiếng la gào vào núi. Bóng thiếu nữ lướt qua sân. Áo lụa tan như trăng.
Tôi yêu Trãi trăng đêm mười bốn. Mười bốn trăng vừa, tắm sáng mặt khuya. Lưng Trãi thon, thơ hiện như vẽ. Ðêm rừng vải gót nhạc cười nụ soan. Tôi níu gọi:
- Ðề thơ nữa đi.
- Thơ Góc Thành Nam.
Trãi cười, buồn.
"Góc thành nam, lều một gian"
"No nước uống, thiếu cơm ăn"
Trăng tắt. Ðêm rụng. Bài thơ chưa hết lời.
Lúc tôi trở ra phố, nắng ướt vai chị T. Lịch treo tường đề mười hai, nhạc sĩ VC chết mùng mười, tôi ở trong rừng vải suốt hai hôm. Hai hôm không gặp, chị T đi Ðà Nẳng, tắm biển Non Nước, da ngăm, tươi muối. Hai hôm trong rừng vải tôi không biết tin: Ðế quốc bang giao với Nhã Nam. Chị T dẫn tôi đi xem suối bia, khắp Nhã Nam ăn mừng.
Trưa, chúng tôi mướn xe Cá Mập đi Nghệ An. Xe tốc hành, chạy suốt, thuê bao trọn gói. Th cầm lái. Dọc đường hướng dẫn:
Năm Ất Tỵ Lê Lợi vây thành Nghệ, truy bắt Lý An, Phương Chính. Nghĩa quân đồn trại dọc sông Lam. Ðêm trong đền thờ thần Phổ Hộ làng Trào Khẩu, vương nằm mộng dữ, người lạnh, lưỡi khô, trông thấy sóng gào, gió giật, cờ gẫy, thuyền đắm. Sáng tỉnh giấc, vả mồ hôi, tê chân, tái sắc. Nguyễn Trãi tâu:
- Ðiềm hà bá bắt vợ. Nhưng vương từ Lam Sơn dấy nghĩa, lấy chí nhân thay cường đạo, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, không nên mê tín.
Vương ám ảnh ác mộng, lo bản mệnh, băn khoăn:
- Xưa vua Lý nhờ vợ chồng Vũ Phục nhảy xuống sông Thiên Phù hiến xác thủy thần mà khỏi bệnh đau mắt, có gọi là mê tín?
Nguyễn Trãi câm. Trướng màn tanh.
Xe vô bãi. Du khách chật sông. Tôi với chị T mua vé thượng hạng sát đài. Vương đứng trên đàn cao, lưng ba trượng, mắt quả quyết. Nguyễn Trãi ôm tráp hầu, Trần Nguyên Hãn che lọng. Lê Lễ, Lê Ngân cầm côn bảo vệ. Nghĩa quân tiến qua đài, cờ huyết lộng. Chiêng trống rùng rùng. Gió Bắc đẩy mây, phèng khua. Vương trỏ sông Lam quát:
- Nay ta vì nghiệp bá hiến thiếp. Thề phá thành Ðông Quan phong con trai Phạm Thị Ngọc Trần làm thái tử.
Pháo nổ. Lê Sát chém ngựa hứng máu. Lính lôi Ngọc Trần khỏi trướng. Ngọc Trần trẻ son, mắt liễu, môi dâu, ẵm Nguyên Long lên ba, khóc thảm. Lê Sát quật hèo, lính khoá củi. Nguyên Long gào mẹ. Củi dìm xuống sông Lam, Ngọc Trần dẫy, sóng tung toé. Một mớ tóc bùng nhùng nổi lên mặt nước. Gương mặt chị T tái nhợt.
Ðường về tôi với chị trăn trở, không yên. Trước lúc ngừng xe, Th hỏi: Còn nhiều trò nữa xem không? Chị T đáp Ðủ rồi. Tôi tránh nhìn Th, hình ảnh mớ tóc bùng nhùng trôi mãi trên nước.
Ngày 13, tháng Thân, năm Hợi, tôi trở lại nhà cụ Ðán. Cơn giận cứng mười ngón tay. Tôi chở chị T bị xe buôn củi đụng, bọn ba gác tháo chạy, chị ngã vỡ đầu, xuất huyết não, chở vào Trung Tâm Cấp Cứu Quận Nhất không ai khám, sang bệnh viện Nguyễn Tri Phương chị mê man cấm khẩu, y sĩ trực mắng bệnh nhân không hợp tác. Tôi gây, thuê xe cấp cứu sang Chợ Rẩy. Bệnh viện lớn nhất Nhã Nam bẩn, nghèo nàn, nằm ngồi la liệt. Nh bạn chị T được tin đến viện, đưa tiền bồi dưỡng. Bác sĩ khám nói máu tụ não bắt mỗ. Chị T mê man. Gia đình Nh đi mua máu, nước biển, kim chích, thuốc trụ sinh. Tôi tìm Th.
- Tất cả chỉ là tưởng tượng.
Tôi quát. Th đang ngồi đọc sách, mắt đỏ rực.
- Không ai hư cấu được sự thật.
Anh gằn, nhưng chỉ đứng yên nhìn tôi phá bàn thờ cụ Ðán. Vườn vải nát, núi thấp, mây cụt. Tôi trở lại bệnh viện, chị T vẫn hôn mê, thở ô xy, vết mỗ bầm máu, giường rỉ sét. Tôi đợi ngoài hành lang, thân nhân trực bệnh ngủ cầu thang lê lết xuống sân. Các bà mẹ Nhã Nam khóc thút thít. Nhà thương giống trại hủi.
Tôi rời Nhã Nam cuối tháng Thân. Chị T vẫn nằm viện, tay phải và chân phải chưa cử động. Th tiễn, gương mặt anh tầm thường giống triệu người nhưng tôi vẫn nhận ra. Máy bay lên cao. Tôi đọc lại truyện Th. Mưa Nhã Nam tả Ðề Thám quất ngựa dưới mưa nhiệt đới, khóc nức nở đời người. Ðề Thám khóc vì bán một người đàn bà cho định mệnh khắc nghiệt. Th mở đầu câu chuyện khinh bỉ tất cả:
Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng đi, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Anh kết bằng một câu vô cảm: Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
Tôi gấp sách. Máy bay bình phi, ba mươi ngàn bộ. Trên cao, mưa Nhã Nam trong, đẹp như hạt ngọc./.
5/ 8/ 1995