72
Ta đi tới đình cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Lúc trở về ta lại là ta.
Từ ấy trong tôi bừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gío thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, Hoa ở đây.
73.
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về Hội nhà văn
Ử nhỉ bao giờ quay trở lại
Với 5 anh em trên một chíêc xe tăng.
74
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gío lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác sơ thân lúa, vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai?
- Chẳng ai đáp lại lời của Anh!
75
Anh đã Đứng trước biển
Cù lao tràm kia rồi
Những khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi !
76
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy Lá Diêu Bông hỡi chàng.
77
Anh đứng thành tro... em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe đò
Vẫn anh đi với vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu, đợi ngẩn ngơ.
78
Kôntrô đến bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ, nửa ái ân
Ngàn sao sông địch còn tê lạnh
Tráng sỹ có về với bến xuân.
79
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải bố tôi
Con chim xâm cầm đã chết
Ông không phải bố tôi
Con chim xâm cầm ai giết!
80
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ đã ngủ rồi.
81
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng xa rồi
Phủ Khoái xin lương oai oái...
Ở đời gặp may hơn khôn
Mà ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm nói mãi!
82
Ôi mầu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà, còn bận làm người
Ngỏanh lại, ba mươi năm
Tím mấy nghìn chiều hoang biền biệt.
83
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ, tơi bời xác sơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?
84
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.
85
Thiên thai từ giả về dương thế
Suối Mơ ngày ấy Buồn tàn thu
Sân đình ngất ngểu ngôi Tiên chỉ
Uóng rượu say rồi, hát quốc ca.
86
Khi về xuôi, anh mang theo đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
vì giấy gía thú chưa làm xong.
87
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trong mây
Lui về ký ức Chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.
88
Dẫu Chín bỏ làm mười hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung Thiên sứ chốn này
Dụ đồng đội vào trong Mê lộ
Ròi bỏ đi du hý suốt Năm ngày
89
Người người lớp lớp xông ra trận
Cờ đỏ, mưa sa, suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu, tiến lên,
Nhất định thắng!
Lô cốt mấy tầng, đè sát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên Vọng hải đài.
90
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây Bắc
Nguyện hy sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào nam đánh giặc
Với Bà mẹ đào hầm, đầu bạc phơ
Hòa bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đầy thương tích
Thì cuộc đời vẫn đep sao!
Tình yêu vẫn đẹp sao!
91
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên!
Đầu chày, đít thớt, đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết Phim!
92
Trăm năm ông Phủ Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông Hà... tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông Phủ... Ngọc Tường ơi!
93
Giặc giã yên rồi về xoay khối vuông Rubich
Đoán hậu vận rủi may thưa quý vị: Xin mời!
Xanh, Tím, Trắng, Đỏ, Vàng đều đủ hết
Ta cùng vào cuộc chơi
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tùy thích
Đảo lộn tùng phèo... thật giả trắng đen
''Tôi như cục xà bông thứ thiệt''
Cứ đổ rượu vào, hình quý vị sẽ hiện lên!
94
Ba lô lên vai từ đêm 19...
''Một tiếng chim kêu sáng cả rừng''
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đó, cụ già Khương?
95
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối... sợi ngang thì chùng.
96
Ra đi từ bến Mi Lăng
Bao năm giấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi gìa về lại ven sông
Trăng xưa đã lặn, phải chong đèn dầu.
97
Chú Dế, Góc sân, hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
''Biển một bên và em một bên''
98
Người đàn bà mà tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây, tôi lỗi đến bao giờ.
99
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em trăn trở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết Hương Thầm của cô gái xóm đê.
100
Cô giáo làng ta đã chết rồi
Một đêm Ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người Du Kích
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công, gân cốt mỏi
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cung đường, rách tả tơi...
--
LỜI CUỐI CUỐN SÁCH
Tiếp theo cuốn Thương Nhớ Tài Hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của một số nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ... đã qúa cố, những cây bút đã có những đóng góp quan trọng bằng những tác phẩm đặc sắc cho đãt nước... Hôm nay Nhà xuất bản Văn Học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung của 100 nhà văn, nhà thơ và nghệ sỹ. Cuốn CHÂN DUNG NHÀ VĂN. Đây là những ký họa có tính chất đặc tả của Xuân Sách, về một số chân dung vốn đã khá nổi tiếng trong và ngoài giới Văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai... nhưng dưới nét bút phác thảo... những độc gỉa quan tâm tới Văn học và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dỹ nhiên, thể loại này thường có ý phóng to những đặc điểm của đối tượng được miêu tả, khi chúng ta nhìn vào nét ''Đặc tả'' ấy, tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách của từng người. Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên, một cách thú vị. Nhưng, cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó...
(Nhà Xuất bản Văn Học. In tại nhà in Bộ Nội Vụ. Số lượng in 3.000 cuốn. Số xuất bản: 08/VII In xong nộp lưu chiểu tháng 3/1992. Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc nxb - Lữ Huy Nguyên).
Quốc tế Phụ Nữ - Berlin 8.3.2008
TÂM SỰ TÁC GIẢ
Những bài thơ Chân dung nhà văn ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy bước vào thập niên sáu mươi, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị chuyển về Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ở nhà số 4 Lý Nam Đế Hà Nội. Ngoài công việc của tòa soạn tờ báo ra, thời gian của chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt... đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sỹ quan, anh em văn nghệ, các nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một ''Xóm'' văn nghệ.
Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe, bốn mâu thuẫn, về ba giòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường, quyết tâm... Mấy anh văn nghệ thường quen thói tự do, thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để rít một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói, thường khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải chuyển sang ''Bút đàm''. Vào năm 1962 có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là đối tượng chú ý trong đợt học tập này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh, đầy đủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giầy cao cổ, nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số, để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là người biệt danh ''quanh năm đi chân đất''. Ỡ nhà số 4, các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ... Vũ Cao. Bởi để ông dì dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo, viết một bài thơ chữ Hán trao cho tôi.
Ở Văn Nghệ Quân Đội, Oánh được gọi là ông đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn Đôi Vai, tập tiểu thuyết ''Chuyển Vùng'' viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản nhưng chưa ''Nhà'' nào chịu in. Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và dịch :
Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý
Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân.
Dịch nghĩa:
Con đường văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trơ trụi
Đôi vai lầm lũi trên con đường gió bụi
Chuyển vùng đến bao giờ thì
chuyển thành tiền được ?
Dịch thơ :
Con đường văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết như lông cái gầu
Đôi vai gánh mãi càng đau
Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền ?
Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải cố nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt ràn rụa. Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là ''Tia chớp'': Thơ Chân Dung ! Trong bài thơ Oánh phác họa một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm ''Đôi Vai; Chuyển Vùng''. Và sau chốc lát tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về Chân Dung Nhà Văn ra đời.
Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy :
Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.
Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải.
Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh : - Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi ! Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!
x
Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.
Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Nhưng điều này tôi nhận ra sau thời gian dài khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả sự mong muốn của tôi.
Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận định tính cách con người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc xảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc xảo, chính xác dù đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ nhưng lại thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại ý là, các nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá mình, cũng đều có cái tốt, cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn Nghệ Quân Đội (VNQĐ). Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ súy tôi. Đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng ''toilet'' (WC) khoảng ba mét vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng, lau sạch ngồi thật mát, thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: ''Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy''. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung.
Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi những bài thơ tôi vừa làm xong, thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như Đinh Nguyễn, Trần Hoàng Bách thương đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là ''nhuận bút'' đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.
Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến trong giới. Lúc đầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai và nhất là thành ''tiết mục'' không thể thiếu trong những cuộc liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về những nhà văn có mặt. Trong không khí như vậy, thì dù các anh chị ấy có giận cũng cười xòa làm vui. Riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm trọc nhau. Ngay đó, một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: ''Châm trọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ!''. Những bài thơ cũng được lan truyền sang các giới khác. Hồi đó tuớng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cấp trên của giới văn nghệ trong quân đội. Ông rất thích những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghĩ với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính chất cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức, tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi'' .
Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo thời tiết chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: ''Rất tiếc một tài năng lỡ tầu!''. Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắt thứ hai trong một bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Một lần gặp lại tôi, ông tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu ra điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa và còn cho tôi là người có tình, và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng. Ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như người có tội !
Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sỹ Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức (D.D.R), ông chạm cốc : Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử !
Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thái Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy ngồi đặt cằm lên đầu gối cười khục khục... Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: ''Thế còn Đặng Thái Mai?'. Tôi lúng túng: ''Viết về Bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa Bác''. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến: ''Anh viết về tôi rồi chứ ? Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hóa ra cụ quan tâm thực sự khiến tôi vừa cảm động, vừa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được. Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống, nghe thơ và phán: ''Hóm, thằng này hóm !''.
x
Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau !
Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài luồng’’ cũng được ghán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.
Ngày xuân năm Nhâm Thân (1992)
Xuân Sách
------------------------------------
Chân dung nhà văn .Xuân Sách .
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC .
Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.