Tháng chín năm ngoái, chúng tôi đi thực hiện bộ phim tài liệu về cuộc đời sông nước ở miền Tây. Khi đến xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi, chúng tôi được chính quyền địa phương hướng dẫn đến nhà bác Hai Đường ở xóm Bàu Dừa, một lão nông tri điền đã có mặt trên vùng đất nầy từ khi mới khẩn hoang. Ngôi nhà bác Hai thuộc mẫu nhà truyền thống của vùng đồng bằng sông Cửu Long, một ngôi nhà ngói ba gian kèm theo một căn chái đâm nóc xuống sông mà dân gian hay gọi là nhà chữ đinh. Ơ nông thôn ngày nay, nhiều gia đình khá giả xây nhà tường lợp ngói nhưng kiểu cách vẫn là sự phiên bản từ ngôi nhà lá. Chỉ cần nhìn vào lối kiến trúc ấy thì ta có thể hiểu ngay chủ nhân của nó là một lão nông tri điền.
Bác Hai Đường năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi, mái tóc trắng một màu mây, gương mặt lúc nào cũng chứa đựng niềm vui và nụ cười đôn hậu. Gặp chúng tôi, bác hỏi ngay những nhà quay phim lão thành thời chống Mỹ. Bác nói, nhà bác ngày xưa giống như cái trụ sở của các cơ quan Văn học Nghệ thuật khu Tây Nam bộ: Từ thông tấn báo chí đến điện ảnh, văn công cứ đi về suốt ngày đêm, cái bếp lửa nhà bác không bao giờ tắt.
Khi tôi nói yêu cầu của chúng tôi đến đây là để nhờ bác giúp cho một số cảnh quay, hình ảnh là một ông già tóc bạc bơi xuồng giăng lưới cá bổi dưới kinh Bàu Dừa, nhưng cá mắc lưới phải thật nhiều như cái thời vàng son của sông nước. Bác nói được thôi, nhưng phải làm cảnh giả chớ dưới sông bây giờ làm gì còn cá bổi. Rồi bác bảo thằng Ut mang tay lưới ra cái đìa cá nuôi sau vườn giăng cá đem vô cho mấy anh mầy làm đạo cụ. Thực hiện xong cảnh quay, bác bảo bác Hai gái và con dâu Ut gở cá bổi ra chiên xù và nấu canh chua.
Khi bắt đầu thân thiện như người nhà, tôi nhào vô làm bếp như một thói quen. Và tôi giật mình nhận ra cái bếp nhà của bác Hai Đường, một mẫu bếp quen thuộc mà kể từ khi làm dân thị thành đến giờ tôi không gặp: Cái khung bếp đứng đóng bằng gỗ đước già bóng lộng, mặt bếp lót gạch tàu. Trên bếp đặt một cái cà ràng và hai cái lò đất nung. Dưới bếp chất củi dừa thành hàng, thẳng tấp. Từ chổ bếp nhìn lên mái nhà là một cái giàng treo lá dừa để dành mồi lửa hoặc để nấu nước pha trà. Trên tấm vách bên phải là hai hàng chai thủy tinh đựng muối và nước mắm. Tôi thử đếm có trên ba chục chai, mỗi chai được úp lên một cái phễu bằng giấy tập học trò. Bên vách trái là một dãy xoong, thau và chảo nhôm. Tất cả được xếp ngay hàng thẳng lối, cái lớn theo hàng lớn, cái nhỏ theo hàng nhỏ. Dù chúng được nấu bằng củi nhưng không thể tìm thấy cái xoong nào bị ám khói xung quanh. Tôi thử hỏi bác gái vì sao đã có điện, có gas rồi mà vẫn còn xài bếp củi. Bác nói nhà có cả nồi điện, bếp gas nhưng cất trong tủ, năm ngoái có xài mấy tháng nhưng thấy bỏ củi vườn tiếc quá, vả lại chụm củi quen rồi.
Tôi gọi nhà quay phim Đào Anh Dũng ra ngoài để gợi ý về cái nhà bếp của bác Hai Đường. Biết rằng những hình ảnh nầy sẽ không có trong những thước phim về cuộc đời sông nước của chúng tôi, nhưng phải quay để dành làm tư liệu, bởi lỡ mai kia mốt nọ khi cần, sẽ chẳng tìm đâu ra hình ảnh của một cái bếp làng quê đúng nghĩa như thế nầy.
Lại thêm một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà phong phú. Khi chúng tôi đang thực hiện những cảnh quay về cái bếp và chảo cá bổi chiên xù thì bác gái sai con dâu Ut lấy trái dừa ra nạo để hầm mấy nải chuối xiêm. Tiền cảnh là nàng dâu và mẹ chồng, người lột chuối, người nạo dừa trên bộ ván, hậu cảnh là cái bếp lửa bập bùng, một hàng xoong chảo lấp lánh phía sau.
Thấy chúng tôi làm việc có vẻ say sưa, quay cận cảnh từng chi tiết trong nhà bếp, bác Hai gái nói: Hồi xưa, cũng vì cái bếp mà tao mới được về làm vợ bác Hai mầy. Con dâu Ut nhìn bà mẹ chồng rồi cười nói: Bởi vậy cho nên bây giờ má vẫn bắt con nấu củi, không cho xài điện, xài gas. Bác gái lại nói vui: Ráng chịu cực đi con, vài năm nữa má theo ông theo bà rồi muốn xài cái gì đó thì xài. Con dâu Ut lại nói như mắc cỡ: Nói chơi cho vui vậy chớ nếu con không giỏi chuyện bếp nút thì còn lâu mới được về đây làm dâu của má.
Đến lúc trà dư tửu hậu, men rượu ngây người, bác Hai Đường bắt đầu tâm sự. Bác hỏi tôi có biết cô Năm Dung ngày xưa công tác ở Hội Phụ nữ tỉnh không, tôi nói có phải cô Dung nhà ở Bạc Liêu, đã mất cách nay mấy năm. Bác nói đúng rồi, hồi cô Dung mất, bác và bác Hai gái đứng ra tổ chức đám tang, lo chôn cất chu đáo. Đối với bác, cô Dung là mối tình đầu mà suốt cuộc đời bác không bao giờ quên được. Tôi chưa từng thấy ông già nào ở từng tuổi ấy mà kể về mối tình đầu một cách ngậm ngùi như kẻ đang yêu, lại kể trước mặt người vợ của mình. Thế nhưng bác Hai gái chẳng những không buồn mà còn kể theo bằng tấm lòng chia sẻ: Cũng tại cái bếp, chớ nếu không thì ổng với cô Dung thành vợ thành chồng rồi, đâu đến lượt tôi.
Bác Hai Đường kể, ngày xưa bác với cô Dung yêu nhau say đắm, mối tình kéo dài hơn hai năm trời nhưng cha mẹ bác nhất quyết không cho cưới. Bà lão nói rằng cô Dung tuy đẹp người đẹp nết nhưng chuyện bếp núc rất lôi thôi. Bước vào nhà sau lúc nào cũng thấy bụi tro, củi tàn đầy trên bếp, cái xoong một nơi, cái thau một nẽo, nồi niêu dính đầy lọ nghẹ. Cơm thừa cá cặn cứ để trong xoong trong chảo mặc cho mèo liếm, chó tha. Chén đũa thì tứ tung, bừa bãi.
Ơ nông thôn, không chỉ ngày xưa mà ngay cả bây giờ, mấy ông già bà cả luôn xem cái bếp là tiêu chuẩn hàng đầu để làm thước đo công-dung-ngôn-hạnh của người con gái. Bác Hai Đường nói rằng cô Dung hồi ấy đúng là hơi bê bối trong việc bếp núc, cô hay đi sớm về khuya, suốt ngày cứ thấy cô trên chiếc xuồng chèo từ sông nầy qua rạch khác.
Một đêm nọ, cô Dung hẹn bác Hai Đường đến một ngã ba sông để chia tay, không phải lấy chồng mà cô vào vùng căn cứ kháng chiến. Lúc bấy giờ, bác Hai mới hiểu ra rằng cô Dung không phải là người phụ nữ của gia đình. Dù đã muộn nhưng bác vẫn về thanh minh với mẹ cha. Nhưng bà cụ lại bảo: Con gái mà làm cán bộ lại càng không được, nhà mình là nông dân, cần phải có con dâu biết lo bếp nút. Cưới con dâu làm cán bộ, lâu lâu nó xẹt về nhà hỏi bà già chồng “cái địa điểm gạo” ở đâu, làm sao tao chịu nổi.Một năm sau, bác Hai bị ép đi cưới vợ, một người vợ có đủ tiêu chuẩn do cha mẹ mình lựa chọn. Bác không chê vào đâu được, nhưng bác không yêu, bác vẫn còn nhớ cô Dung. Một hôm, bác đưa vợ về quê thăm cha mẹ. Chèo được một đoạn đường, bác ghé xuồng lại dưới một bóng cây và nghiêm chỉnh nói: Mấy tháng qua, kể từ ngày cưới đến nay tôi chưa bao giờ đụng tới người em, em có biết vì sao không ? Vì tôi không yêu em nên tôi muốn giữ cho em còn nguyên vẹn để em lấy người chồng khác, em đừng trách tôi, hãy tha thứ cho tôi. Tình cảm không thể nào miển cưỡng.
Người con gái ấy quẹt nước mắt bước lên bờ đi về nhà cha mẹ ruột. Bác trở về thú thật với cha mẹ mình. Cuối cùng rồi ông bà cũng bỏ qua mọi chuyện. Chỉ có cô Dung là bác không tìm lại được.
Gần ba năm sau, khi những chuyện phiền hà đã phôi pha, ông bà cụ mới đi cưới cho bác Hai Đường người vợ khác, một cô gái cũng đẹp người đẹp nết, chẳng những giỏi dang chuyện bếp nút, may vá, thêu thùa mà còn là cô thợ cấy nổi tiếng ở xóm Bàu Dừa. Đó chính là bác gái bây giờ đang ngồi cạnh chúng tôi. Bác kể, trước khi làm đám hỏi, bác trai đã tâm sự hết mọi chuyện đã qua để bác cùng chia sẻ. Vì vậy mà khi về làm dâu, bác phải luôn luôn chăm chút cái bếp để vừa ý cha mẹ chồng, vừa phải cố gắng bù đắp lại những mất mát trong tình cảm của bác trai. Rồi bác nói vui : Nhờ vậy mà ổng không giữ cho tao còn nguyên để đem xuống xuồng chở về trả cho cha mẹ.
Bác trai cười ngượng ngùng rồi kể tiếp : Sau đồng khởi, xóm Bàu Dừa được chọn làm vùng căn cứ, cô Dung có trở lại đôi lần, nhưng bây giờ mọi sự đã đổi thay, ai cũng đã có chồng, có vợ và vợ chồng cô Dung trở thành em kết nghĩa của vợ chồng bác Hai Đường.
Rồi chồng cô Dung hy sinh, để lại ba đứa con, một trai hai gái. Sau giải phóng, cô về Bạc Liêu công tác, vừa nuôi con ăn học. Thỉnh thoảng, vợ chồng bác Hai Đường vượt cả trăm cây số lên thăm, mang gạo, mang dừa, mang khô bổi lên làm quà.
Tôi kể cho bác Hai nghe rằng hồi năm 1994, khi tôi làm bộ phim tài liệu Tấm lòng Đất Mũi thì cô Năm Dung là một nhân chứng của nhiều câu chuyện cảm động về sự hy sinh của người phụ nữ trong chiến tranh. Tôi có đến nhà cô hai lần để thu hình, ăn hai bửa cơm. Tôi còn nhớ cái bếp nhà cô cũng sạch đẹp và ngăn nắp giống như cái bếp nhà bác Hai Đường. Chỉ có khác là cô xài than đước, ba cái lò than lộng trong xô nhôm trắng bóng.
Một năm sau, tôi được tin cô năm Dung qua đời vì chứng bệnh ung thư gan, lúc ấy tôi đang ở xa nên không kịp về để tiễn cô, một người đã tận tình để lại trong bộ phim của tôi những khung hình vô giá . Bác Hai Đường kể rằng, ngày cô Dung lìa trần, bác và bác Hai gái đã trực tiếp đứng ra lo ma chay tống táng.
Kể cho chúng tôi nghe câu chuyện tình gần năm mươi năm ấy, trong đôi mắt trũng sâu của ông già vẫn còn đọng những ngấn nước long lanh. Bác Hai gái ngồi cạnh ông, bà buông một câu trong sự ngậm ngùi: Tội nghiệp mấy đứa nhỏ con cô Dung, cả năm rồi tôi không lên thăm tụi nó.
Trước lúc chia tay, tôi định hỏi bác gái rằng, việc bác cất cái nồi điện và cái bếp gas trong tủ để xài bếp củi có liên quan gì đến câu chuyện tình năm cũ của bác trai không. Nhưng ngẫm đi nghĩ lại rồi thôi, tôi không dám hỏi.
SÀI GÒN, THÁNG 12/2003