Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
838
123.236.558
 
Bà cụ Tuần
Quý Thể

Có ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói :       

- Giang sơn của “bầy choa” (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ, tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt của cụ. Tội nghiệp… Tui sống ở chỗ ni và có chết cũng chết chỗ ni, không đi mô hết. Tôi ăn uống, ngủ, nghỉ ngơi, chỉ quanh quẩn lê lết trên tấm phản này. Nhà ở cạn mà như người ta sống trên đò. Nói xin bỏ quá tiểu, đại cũng  luôn ở đây. Trong cái bô, để dưới phản, nhờ con cháu đi đổ. Trời thương bọn già gần đất xa trời như tui, ba bốn ngày mới có một lần,  mình già rồi, ăn uống ít, cả ngày chỉ nằm ngồi một chỗ, không vận động chi cả nên lâu lâu mới đi một lần, bón uất kinh niên, mấy viên như phân dê, không hôi hám. Nói bỏ quá cho…       

 

Dân chúng quanh vùng ai cũng quen miệng gọi là “cụ Tuần”. Nghe tên thì rất sang. Dân làng thấy có người kêu như rứa cũng bắt chước nhau mà kêu. Người hiểu biết chút ít đến phẩm hàm quan lại ngày xưa nghe tên bà tưởng bà là quả phụ ông quan Tuần vũ (Tỉnh trưởng) đã thất lộc lâu rồi. Hay ít nữa anh cũng là vợ goá anh Trương Tuần nào đó (Trương Tuần là viên chức rất nhỏ trong làng, tuần tra canh gác coi ngó việc trị an, như công an xã bây giờ). Không phải, tên con gái của bà là Tôn Nữ Thị  Tuần. Cái tên này cũng sai với lối đặt tên trong Tôn nhơn phủ . Đã “Tôn nữ” thì không có thêm chữ “Thị” như hàng bá tánh  (là trăm họ thường dân, để phân biệt với người hoàng tộc ). Trong cấp bậc hoàng phái, về nữ, xuống đến hàng “Tôn nữ ” là chót, thấp nhất, không thể thấp hơn, giống như binh nhì trong lính, không còn xuống nữa. Tuy là hoàng phái cấp thấp nhất,  cái dòng máu Hoàng  tộc chảy đến đời bà cụ tám mươi tuổi này đã quá xa, quá phai nhạt, quá loãng, nhưng cái chất “Me” trong con người bà cụ vẫn còn đậm đặc. “Mệ ”là từ chỉ một hạng người rất đặc biệt. Rất khó mô tả tính chất “mệ ”, chỉ có thể nói ấy là một nhóm người trong hoàng tộc nhà Nguyễn, tính khí giống nhau và rất thất thường sống gần thì biết. Cuộc sống của bà cụ này quanh quẩn chỉ  ở trên bộ ván ngựa, ba tấm ván dày cả tấc tây, ghép lại, mặt tấm phản rộng thước rưỡi, có mộng ráp với nhau. Bà cụ nằm, ngồi, ăn ngủ, tiếp khách cùng mọi hoạt động linh tinh khác cũng chỉ xảy ra  nơi này. Ít khi bà chịu leo xuống xỏ đôi bàn chân nhỏ như bàn chân trẻ con ( Bàn chân nhỏ là  dấu hiệu sinh học rất rõ của người hoàng phái) vào đôi guốc gỗ, cũng ít khi quanh quẩn  trong nhà hay ra vườn và lại còn ít hơn nữa khi ra khỏi nhà. Cả  đời bà hình như chưa hề bước chân ra khỏi luỹ tre làng.

 

Nghe cụ nói chuyện tiểu tiện, đại tiện một cách tự nhiên, bình thường. Khách quen, khách lạ, ông to bà lớn gì cũng mặc kệ, chẳng sợ mất lòng . Khách không dám chấp, vì hầu hết khách đến thăm cụ thường là họ hàng bà con gần xa, bậc dưới. Ai đến bà cũng mời ngồi song không ai ngồi cả, phần tấm phản dày bụi bặm, có cả lọ nồi và chẳng mấy khi được lau chùi. Tới bữa ăn, chị Lài – con dâu, bê cái mâm tiện bằng gỗ mít dùng lâu quá  đã hết màu vàng, đựng om cơm lên. Thức ăn cụ đã có sẵn trong mấy cái trách, cái trả, treo trên chiếc gióng mây cỏn con. Ngày xưa người nhà quê thường không sắm nổi mâm đồng, loại mâm đúc bằng đồng thau có ba chân, cao chừng nửa gang tay, hoặc nhà khá giả có của đi nữa cũng không dám đem đồ đồng ra dùng, sợ ăn trộm và còn sợ thiên hạ quở. Ngày xưa đồ đồng, bộ tam sự, ngũ sự, chân đèn, lư hương đều cất trong rương xe, khoá lại, nằm lên trên thế mà không yên với bọn ăn trộm tài danh chuyên đào tường khoét vách. An trộm ngày trước khác bây giờ, trộm thời đó có nghề, có trường lớp bài bản hẳn hoi. Có người dạy, người học, thành ra có câu :”Một đêm  đi ăn trộm bằng ba năm làm giàu”. Nhưng chẳng may bị bắt được thì khổ chủ tự giải quyết, kiểu toà án nhân dân của CS ngày nay, Chẳng mất công xét xử luật lệ lôi thôi, chỉ việc cắt gân nơi gót, chỗ nhượng chân là hết đi hết chạy, vô hiệu hoá, hết trộm cắp được. Ngày thường trong nhà dùng đồ đất. Đồ đồng chỉ được đem ra dùng vào ngày tết nhất, cúng giỗ đãi đằng khách khứa sang trọng. Bữa ăn hàng ngày, có khi bưng trong rổ rá, vì thường chẳng có nhiều món. Bà cụ đã già ăn uống không còn gọn đổ tháo rất nhiều nên khách khứa lúc nào cũng nghe chỗ ở của cụ  thoang thoảng mùi mắm nước, mắm nêm, mắm ruốc, mắm dưa , mùi hành tỏi. Và lủng lẳng trên đầu khách là hai ba chiếc gióng cỏn con treo mấy cái trách đất đựng cá kho với xơ mít, cọng dưa môn, dưa hồng, dưa cải, thêm nải chuối tiêu chín rục, mùa hè này mấy con bồ hóng bay quanh. Món ăn ít thay đổi, một món ăn trong nhiều ngày, kho nhiều lửa, nên thường rất mặn. Mỗi lần khách đến hay đi cụ luôn luôn dặn, nhớ cẩn thận không đụng đầu mấy cái trách chứa đồ ăn riêng treo toòng teng của cụ. Có lần lão Sáu Vạn thợ mộc, vô ý đứng lên,  đội nguyên trách cá kho đổ bể trên đầu, tóc tai quần áo bê bết mắm muối, kêu trời không thấu, chạy ngay về nhà ra giếng xối nước ào ào. Tối lại chui vô mùng bị mụ vợ xô ra kêu còn hôi mắm muối quá. Thật ra con cháu không đứa nào muốn gần bà. Bọn trẻ con thì ham chơi, sợ bà sai bảo. Con cháu lớn  cũng chỉ đứng một lúc tìm cớ rút lui cho nhanh, ở lâu  thế nào cũng nghe bà ta thán về cô Lài, một đứa con dâu hư hỏng nhất trên đời, chuyện nhà cửa dột nát, nhất là dột chỗ mô không dột, nhè chỗ bàn thờ mà dột, con cháu thờ phụng ôn mệ như rứa làm răng mà ngóc đầu lên cho nổi? Đó là bài ca vô tận của bà cụ Tuần.

 

Chị Lài, nhà cha mẹ nghèo về làm dâu trong cảnh không môn đăng hộ đối, khổ lắm. Tuy là dâu út, nhưng lại được ở từ đường, đừng tưởng ấy là một ân huệ. Chị bị mấy ông anh chồng,  mấy mu o ( chị gái em gái của chồng, thường rất ác nên co thành ngư ”mụ o nhọn mồm” ) mấy người chị dâu xúm vô lừa phỉnh:” Em ở hầu mệ, ngày sau mệ về với Phật vợ chồng em được hưởng cái nhà từ đường với bốn sào ruộng hương hoả…” .Không phải chị Lài bị lừa và ham mấy thứ cửa nhà ấy đâu, chị đi lấy chồng, cha mẹ đẻ dặn : sống gởi nạc, thác gởi xương nhà chồng, không được quay về, nên phải ở lại nhà chồng chịu đựng cảnh làm dâu, hầu hạ mẹ chồng. Còn con trai, con gái, con dâu, con rể biết tính mẹ khó không ai dám gần, đủ lông đủ cánh thì liệu mà cao chạy xa bay.

 

Lúc mới về làm dâu, cụ kêu chị Lài dặn :       

- Mi nghe cho kỹ đây. Tau ăn như đàn bà đẻ, ăn mặn, ăn khô, không ăn canh như bọn mi, món canh ăn cuối cùng, húp một miếng như bọn Tây húp súp… Người ta lâu lâu mới nằm nơi (đẻ) một lần còn tau ngày nào cũng ăn như đàn bà nằm ổ. Bà cụ này có cái tính ăn uống kỳ dị lắm và có cái ý rất chướng, rất “mệ” . Bà không ăn cay được, kho cá bỏ tí ớt bột là bị chửi ngay. Không ăn ớt nhưng trên mâm luôn luôn phải có trái ớt cho bà ngó thấy ăn mới ngon. Có người hỏi để làm chi, bà nói :”Tau ăn bằng con mắt”, bánh bèo bánh hỏi thì ớt xanh, các món khác ớt đỏ, cá kho phải có dĩa ớt bột đặt cạnh, món tanh phải có mấy hạt tiêu sọ để một bên.  Thế nhưng đem lên làm sao bưng xuống vậy, ớt trái, ớt bột, tiêu sọ còn nguyên. Thế mà bưng mân lên,  liếc qua thấy thiếu một món bà cụ liền mát mẻ :”Mi ra chợ tơ tưởng thằng mô mà không mua tiêu, mua ớt?”. Thế là chị Lài phải vén hàng rào  chui qua hàng xóm xin ớt. Hàng xóm thấy chị ai cũng thương, giữ lại hỏi chuyện, chị nói :”Cho em về không mệ đang “tế” (chửi) ở nhà vì thiếu trái ớt trên mâm”. Hàng xóm biết chuyện, nói :”Con cái nhà ai hiền lành tử tế rơi vào làm dâu bà già cay nghiệt này? Giàu có sang trọng nhưng khổ nhục quá. Tôi mà cha mẹ con Lài, tôi kêu con tôi về, làm gì thì làm, kiện đâu thì theo  mẹ chồng gì mà hở ra một tí là nổi tam bành lục tặc, mở miệng ra thì đòi đào mồ cuốc mả  con nhà người ta ?’ Lão Sen làm thầy cúng nói:”Mụ già quá quắt này chết khổ chết sở cho mà coi, chết không nhắm mắt mô, trời hành thình lên thọp xuống nhiều lần mới đi được…” Thế nhưng cụ Tuần lại hay lên giọng nhân đức :       

-Mi kiếm khắp cái xứ ni không có bà mẹ chồng thứ hai mô như tau. Chưa ai dễ với con cháu bằng tau. Mi có phước lắm mới về làm dâu cái nhà ni…       

 

Nói là nói thế song làm dâu cái bà cụ này chẳng dễ tí nào. Riêng mái tóc của chị Lài cũng xảy ra mấy chuyện điêu đứng, cười ra nước mắt. Tóc chị rậm và dài lắm, chị nuôi mái tóc từ thời con gái mười một mườ hai đến khi về nhà chồng mái tóc dài quá mông, đẹp lắm, ai cũng khen. Lúc mới về làm dâu, thấy mái tóc con dâu, bà cụ nói :       

-Nhà ni có đủ chủi (chổi) rồi, chủi  đót xuốt trong nhà, chủi rành xuốt sân, chủi chà xuốt nơi mô dơ dáy, không cần chủi. Mi còn đem chủi về nhà ni mần chi nữa? (Ý nói mái tóc dài như cái chổi).       

 

Bị bà mẹ chồng nói cạnh nói khoé. Chị Lài ra chợ nhờ thợ cắt ngắn.       

 

Khi chị về nhà, bà cụ Tuần thấy mái tóc ngang vai liền lên giọng :        -  Mi lớn tuổi, chồng con rồi, còn yêu thương thằng mô nữa mà để tóc thề ngang vai?       

Lần này chị nhờ thợ cắt lên cao hơn nữa, nay gọi là cái mốt tóc tém, tưởng yên, không dè bà cụ thấy mái tóc con dâu, liền thét lên :       

- Trời ơi nhà tau có nợ nần chi mô mà con dâu tau ra chợ bị chủ nợ xởn tóc?…       

 

Ngày xưa đi làm dâu chẳng dễ. Bối tóc cũng chẳng phải chuyện tự do muốn bối cáh nào thì bối. Bối tóc để thòng quá gáy một chút, bước đi lọn tóc đong đưa, hiểu bối tóc này dành cho hạng phụ nữ phong lưu, không phải dân lao động. Dân lao động như mấy chị nông dân bối tóc thòng kiểu này, thêm chiếc áo cánh trăng trắng một chút, ra đồng bị chê trách liền, nói rất ác :”Học cái thói đĩ thoả ở mô mà đi cấy làm cỏ lúa ăn mặc tóc tai ngó như mấy con me Tây”. Bối tóc lên cao, kéo cái bối to như chiếc bánh ú, ló ra chùm tóc ngắn trên đỉnh đầu, thắt lại cho chặt, đó là cái mốt “Bối tóc ngược” kiểu tóc đánh ghen.       

 

Xuốt dà (quét nhà) với bà cụ cũng không đơn giản tí nào. Đối với bà cụ khôngphải quét sạch là được. Khó hơn nhiều. Trước tiên là bài học vỡ lòng về cách chọn và mua “chủi”. Bà sai chị Lài ra chợ Đông Ba mua cái chổi đót, trước khi đi bà dạy nhiều lần về cách lựa được cây chổi đót. Phải chọn chổi dày, màu đót còn hơi xanh, cán chổi quấn sợi dây mây cho chặt, quấn dây thép không mua. Nắn bóp không thấy cán chổi óp, nêm cây tre cũng không mua. Nắm đầu mấy cây đót kéo ra thử xem họ cột có chắc hay dối? Lựa đi lựa lại nhièu lần, qua nhiều hàng bị người bán mắng mỏ rất khổ cho cái thân chị Lài, suốt buổi như thế mới chọn được cái chổi. Đem về thì chị ta rất hồi hộp không biết bà mẹ chồng có chịu hay bắt đem đi trả lại thì  chết với mấy con mụ bán chổi. Chị Lài làm theo lời bà mẹ chồng, mấy người bán chổi rất bực mình :”Mua chổi về quét đôi ba tháng rồi vứt, để làm của gia bảo, để thờ hay răng mà kỹ rứa ?”       

 

Chị Lài đem chổi về, bà bảo đưa coi, sờ nắn bóp thử. Nói :”Thời tau…”. Bà tính nói thời của bà người ta làm chổi tốt hơn. Bà trao lại, chị Lài đựng cây chổi vào hốc nhà, bà thét :”Mi dựng chủi kiểu nớ ba bảy hai mươi mốt ngày đầu chủi cong lại quét tước chi được. Tiền mô mà mua ? Mi tưởng nhà ni in tiền được răng ?”. Chủi phải lấy dây cột treo lên để đầu chủi không bị cong. Còn làm biếng thì dựng ngược cán chủi xuống dưới”.       

 

Mỗi lần chị Lài quét nhà, bà già ngồi chò hõ trên ván như đứa bé, nhìn cô dâu quét nhà, nét mặt tỏ vẻ không ưng tí nào. Bà nói: - Mi xuốt dà kiểu nớ làm răng mà sạch? Thấy cái tay mi cầm chổi dúng thầy thông thầy phan bên toà khâm cầm bút  cầm ba-ton, không gọn gàng chi cả, ngó không sướng con mắt.  Mi đem cái chủi lại đây tau chỉ cho mà cầm. Rồi bà bảo chị đến gần chỉ cách cầm cán chổi ra sao. Thấy bà mẹ chồng chỉ cô con dâu cầm chổi, xem ra còn phức tạp  gấp mấy lần giáo sư nhạc dạy học trò nắm cần cây đàn violon. Mà thật, đối với bà quét nhà khó lắm, không học không quét được. Bà căn dặn : Mùa ni buổi sáng gió thổi từ núi Ngự xuống, mi mở cửa sau quét nhà từ sau ra trước,  dồn rác vô cái hố trồng chuối. Buổi chiều mùa ni gió nồm, thổi từ biển lên mi mở cửa trước quét từ trước ra sau dồn rác lại mấy cái gốc bầu bí làm phân, tưới nước cho có trái mà ăn. Xuốt nhẹ tay, moi móc trong mấy hóc kẹt. Mùa ni khô, trước khi xuốt sân phải tưới nước cho không bụi… Bà cụ già, người nhỏ lại như một đứa bé mười hai tuổi ngồi chồm hỗm trên tấm ván nhìn cô con dâu làm việc, cặp mắt không chút bằng lòng, mặc dù chị Lài một mực theo đúng lời căn dặn của mẹ chồng.       

 

Bà cụ dạy con dâu ra chợ mua cái om (nồi đất nhỏ) về nấu cơm, nấu bằng om đất lợi củi mà ngon cơm, để lâu không thiu, nấu nồi đồng để lâu teng đồng ra ăn vô độc lắm. Bà còn dặn: “ Om mới mua về phải hái đọt khoai lang chà xát trong ngoài một lớp sau đó mới dùng được bền hơn. Màu đất nung đỏ hoá thành màu xanh lá cây. Còn mua gạo cho tau ăn phải lựa gạo cũ, gạo mùa trước, ăn mới hiền, mau tiêu, mau đói”. Bà nói :”Gạo lúa mới tuy ngon, thơm nhưng độc lắm , lâu tiêu. Người đau mới dậy ăn lúa mới vào trở bệnh lại ngay, ôn mệ mình dạy chí lý lắm. Chị Lài là con dâu út, chồng chị đi làm xa, không mấy khi về nhà, chồng chị là con út, đựơc cưng  nhiều nhưng lại không được cha mẹ cho đi học tới nơi tới chốn, chỉ làm anh lính quèn gác cầu nơi xứ người, mỗi năm có mấy ngày phép về với vợ. Anh lính này rất sợ mẹ, không dám đi đứng, ngồi gần vợ, kể cả việc không dám xuống bếp khi vợ ngồi thổi cơm trong cái om đất vì sợ mẹ mắng là mê vợ hơn mê mẹ. Mấy bà chị dâu khác ở xa, hàng năm ngày giỗ ngày chạp về nhà đem chút quà chút tiền về biếu, họ như là khách, bà không nặng lời không sai bảo. Mọi việc lớn nhỏ trong nhà một tay chị Lài làm cả, còn bị bắt bẻ la lối đủ điều, có khi còn bị đánh. Bà đánh con dâu giống như thầy giáo đánh học trò, bắt nằm lên giường, quất bằng roi mây, đánh không cho khóc. Vừa nhịp nhịp con roi mây vưa nói, giọng rất dịu dàng:”Mạ quất mấy roi cho con nhớ, chớ nói suông con quên…”       

 

Một hôm bà cụ sai con dâu qua nhà lão Sáu Vạn mời lão. Lão bận việc đóng bàn ghế cho khách, chiều mới tới. Thấy mặt lão, bà cụ Tuần mát mẻ :       

- Chớ lão làm ông tham ông phán ở toà Khâm toà Sứ gì mà lo việc quan, mời cả buổi mới thấy vác mặt tới ? Lão là sáu Vạn chứ Mười Vạn nữa  choa cũng nói…       

 

Rồi bà cười :       

- Giỡn chơi với lão, đừng giận. Già rồi gần đất xa trời như tui hay tủi thân, cứ nghĩ mọi người khinh khi coi thường mình…       

 

Lão Sáu Vạn khúm núm :       

- Mệ dạy rứa chớ tui bậc con cháu mô dám, chỉ vì hồi sớm mai lo đóng bộ bàn ghế nhà Tư Tạo cho kịp rước dâu ngày mai. Nên hầu Mệ trễ…       

 - Thôi rồi, nói chơi, đừng bỏ bụng. Tui mời lão đến đây nhờ xẻ mấy tấm ván…       

 

Bà cụ cười, nụ cười không răng hồn nhiên giống như một đứa bé, vỗ vỗ lên mặt phản nói :  

-  Bộ ván ni, cái giang sơn cỏn con của tui đây nề.       

- Thưa mệ xẻ ra làm cái chi ? Rồi mệ ngự chỗ mô?       

- Làm chi thì kệ cha tui. Nghỉ ngơi chỗ mô cũng kệ tui.       

- Xẻ răng ?        - Cứ mỗi tấm xẻ đôi bào hai mặt cho đều, bào thiệt phẳng thiệt láng cho tui.       

- Ván ni có ba cái mộng, xẻ đôi mất mộng hết còn chi?       

- Ừ, cứ xẻ ra đi không cần mộng, khép lại cũng được, nó có chưn mô mà chạy ? Mộng mị chi cho bọn rệp có nơi làm tổ cắn mình?       

 

Lão Vạn ngập ngừng một lúc mới dám hỏi :”Chớ mệ đòi xẻ bộ phản ngựa này ra mần chi ?”       

Bà cụ tỏ vẻ bí mật, gắt :       

- Mần chi kệ cha tui.       

 

Lão Vạn tìm lời hỏi khéo :       

- Hay?…Mệ muốn may cái áo?…       

- Ao chi? Già rồi áo quần chưng diện với ai?       

 

Lấy hết can đảm lão thốt ra :       

- May cái “áo quan”!       

Lão tưởng nghe  xong bà già “tế” cho một trận về cái tội trông cho bà mau chết. Nhưng không, bà cười. Bà cười như trẻ con.       

- Tui chưa chết mô, may áo quan mần chi ? Thôi ta tính tiền công lao cưa xẻ gỗ đi. Lão ưng khoán hay ưng làm công nhật?       

- Bẫm mê, chi cũng được.       

- Công nhựt nghe? Tính răng?       

- Mệ cho bao nhiêu cũng được. Giúp mệ lấy cái đức, tính toán hơn thiệt so đo mần chi.       

Nói thế chớ không đơn giản. Mấy ngày đầu hai thầy trò lão ăn mạnh quá, mỗi bữa một người ăn hết cả bơ gạo. Lại còn thêm cái tật thợ mộc “sáng giũa cưa trưa mài đục”. Làm hai ba ngày chưa xong việc xẻ ba tấm ván. Bà cụ nóng ruột hối, lão nói :”Cái giống căm xe này để lâu năm cứng như đá, cưa đục mô chịu nổi. Mệ thấy thầy trò tui cứ mài đục với giũa cưa hoài đó không ?       

 

Bà cụ :       

- Ừ thôi cứ thủng thẳng mà làm nhưng bắt đầu từ ngày mai thì khoán, không  ăn lương công nhựt nữa, cơm nhà  lão ăn, làm xong tui trả hai đồng rưỡi. Ưng không ?       

- Thưa mệ mần cái chi ?       

 - Cưa xong bào láng hai mặt, làm đôi ngựa cỗ, gác lên thành một bộ phản ngựa nữa, công cán có nhiều nhặn, nặng nhọc chi mô ?       

 

Lão Vạn giờ đây mới vỡ lẽ cái ý của bà già đáo để này. Bà ta thấy tấm phản của mình dày quá, muốn xẻ đôi ra làm thêm một tấm nữa. Một mà được hai, lại thêm nhẹ nhàng dễ di chuyển. Nhưng làm cho ai nằm. Bà chỉ nằm một tấm thôi, mùa rét cũng như mùa nóng nực, cô Lài con dâu, tối khuya làm hết công việc lấy cây chổi đót quét chỗ hiên, trải chiếc chiếu manh ra nằm, có thấy cô nằm phản  nằm giường chi mô? Trong nhà còn ai mô? Hay làm xong bán ? Bà già này có của, bà cần chi tiền? Lão phân vân mãi cho đến một hôm công việc xong, hai bộ ván ngựa thành hình. Bà cụ Tuần hỏi :       

- Trong hai bộ lão ưng bộ mô?          

 

Lão Vạn ngắm nghía một lúc, lưỡng lự mãi, xong chỉ bộ kê dưới tán cây mít nói :       

- Thưa mệ tuy hai bộ ngó qua thì dúng (giống) nhau nhưng tui thích bộ ni hơn. Nó “ngon” hơn.       

 

Bà cụ :       

- Lão thấy ngon thì làm cho nó ngon thêm, bào lại cho kỹ lưỡng, ra phố mua chai véc ni màu cánh gián thứ tốt nhứt về đánh bóng, bộ kia cứ để gỗ trần cũng được. Thời gian thầy trò lão Sáu Vạn làm mộc, bà già thường sai chị Lài dìu ra xem, bà ngồi một bên nhìn xem, chỉ vẽ đủ thứ. Lão Vạn bực mình gắt :”Thôi mệ vô nhà nghỉ đi để thầy trò tui mần theo ý mệ. Thấy mệ ngồi đây ngắm nghía, chỉ chỏ khó mần lắm. Nói thế nhưng bà cụ  không chịu đi đâu. Bà ngồi chỉ, đến nỗi chỉ dẫn cả cái cách bào cưa đục cho thợ mộc làm. Bà còn nói chị Lài đem cái kiềng ba chân ra đặt nơi gốc mít, quét dăm bào nhóm lửa nấu nước cho thợ, nấu cơm cho bà. Bà nói : Đời tau đi làm dâu còn khổ gấp vạn lần mi. thời trước ở nhà vườn như mình đây không ai tốn tiền mua than củi. Nấu nướng đã có lá tre khô, lá mít khô, nhánh khô, thu vén lại nấu, đỡ tốn tiền củi mà còn lại sạch vườn. Ở nhà quê người ta đun nấu bằng rơm. Nấu được bữa cơm khói cay chảy bao nhiêu nước mắt. Khi nấu phải ngồi canh ông Táo suốt buổi, không sung sướng như bọn mi bây giờ nấu củi mô.       

 

Đến ngày hoàn thành bà cụ bảo thầy trò :           

- Khiêng vô nhà. Bộ xấu để chỗ cũ cho tui nằm. Bộ tốt đánh véc ni đặt ở chỗ nhà ngang, gần cửa sổ.           

 

Chị Lài không hiểu bộ ván ngựa mới  đẹp đẽ ấy bà già dành cho ai, chắc là vợ chồng anh con cả với thằng cháu nội đích tôn của bà. Song chị không dám hỏi .       

 

Buổi chiều khi chị Lài ngồi ngoài vườn quét dăm bào nấu cơm, nghe tiếng thét :”Con Lài mô? Lên đây!”. Tiếng kêu đầy vẻ quyền hành từ nhà trên vọng xuống. Chị không biết việc gì, lo sợ bỏ nồi cơm nấu dở chạy lên. Vòng tay thưa:       

- Bẩm mạ kêu con chi ?       

- Túi (tối) ni mi không nằm đất nữa nghe không ?       

- Dạ con nằm đất đã quen…Mạ biểu (bảo) con nằm mô?       

- Nằm nơi bộ ván ngựa mới làm đặt nơi nhà ngang. Tau làm cho mi !       

 

Chị Lài không biết mình có nghe lầm không. Hỏi lại :       

- Rứa mà con tưởng mạ đóng cho anh chị Hai với thằng Toàn cháu nội đích tôn họ nhà mình…       

 

Bà già cười :       

- Rứa lâu ni mi tưởng tau không thương mi răng ?       

- Thưa mạ con không dám nghỉ rứa. Con biết mạ hay la rầy con là mạ thương con. Thương cho roi cho vọt mà…       

 

Bà già :       

- Tau làm cho mi bộ phản mới, tau biết mi có công với tau hơn bọn kia. Bà nói, giọng hết sức êm đềm :”Mạ thương con. Mạ làm cho con nằm đó…” Không đúng như lão Sen làm thầy cúng nói năm nào :” Bà già độc ác chết không nhắm mắt”. Mùa đông nắm ấy bà cụ Tuần ra đi, bà ngủ một giấc dài không thức dậy nữa. Bà ra đi êm đềm  không chút quyến luyến trần tục. Bộ ván ngựa bà nằm giờ đây mới được thầy trò lão Sáu Vạn tháo ra làm ba mảnh bưng ra vườn, xẻ thành sáu tấm ván mỏng . Lần này thầy trò lão xúm “may” cái áo quan cho bà. Có điều lạ, người như bà hình như biết được mọi việc to lớn trong đời, trước đó một ngày, bà đã chuẩn bị tất cả cho chuyến viễn du lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong cuộc đời tám mươi năm lê lết trên tấm ván ngựa. Bà kêu chị Lài đến một bên nói :”Con mời thầy giáo Thị tới cho mạ nhờ chút”. Khi ông giáo tới, bà cụ nói :”Ông giáo lấy giấy viết giùm tôi tờ di chúc. Tôi để hết tài sản một đời tằn tiện dành dụm lại cho con Nguyễn Thị Lài”. Nửa khuya bà trở dậy, ho mấy tiếng, chị Lài chạy vô, vuốt ngực bà, bẩm :”Mạ uống nước sâm không con rót?”. “Tau không ho hen chi cả, tau ra giấu cho mi vô nói việc kín”, bà cụ kề tai chị nói nhỏ :”Dưới gốc cây mít ướt có tiền Đông Dương, bỏ trong cái chai đậy nút khằn kỹ lắm không mối mọt chi mô. Chồng con về nói nó đào lên, mạ cho vợ chồng con mua ruộng đất làm nhà. Nhớ sanh cho mạ đứa cháu”.

Quý Thể
Số lần đọc: 2748
Ngày đăng: 29.05.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ai cần phải xót thương - Nguyễn Lê Hồng Hưng
Bóng hạnh phúc** - Mang Viên Long
Bốn bức tranh - Phạm Ngọc Hiền
Trò chơi tiếp tục - Đà Linh
Cái chết của một nhà thơ - Quý Thể
Đàn bà & rắn độc - Nguyễn Sinh
Một tác phẩm nghệ thuật - Sâm Thương
Tóc rối - Trần Lệ Thường
Khám nghiệm tử thi - Georg Heym
Vợ trời đánh - Nguyễn Sinh
Cùng một tác giả
Cổ thụ lùn (truyện ngắn)
Bà cụ Tuần (truyện ngắn)
Chơi vơi tình buồn (truyện ngắn)
Cây hậu sự (truyện ngắn)
Cỏ xanh (truyện ngắn)
Của chìm của nổi (truyện ngắn)
Vàng ba con chín (truyện ngắn)
Khóa xuân (truyện ngắn)
Ê-va xóm cồn (truyện ngắn)
Đêm Khải Huyền (truyện ngắn)
Hảo Hán (truyện ngắn)
Hoa nở cho người (truyện ngắn)
Đêm Mưa (truyện ngắn)
Đi Với Ma (truyện ngắn)
Hai Người Mẹ (truyện ngắn)
Đêm Qua Hoa Chết (truyện ngắn)
Giáng Tiên (truyện ngắn)
Hoa Nghĩa Địa (truyện ngắn)
Cương Thổ Cô Liêu (truyện ngắn)
Kích cổ thôi hoa (truyện ngắn)
Lan huệ sầu ai (truyện ngắn)
Tuyệt Tình Ca (truyện ngắn)
Một Thuở Tạo Sơn (truyện ngắn)
Khách Thơ (truyện ngắn)
Mộng Bá Vương (truyện ngắn)