Quảng Trị có cả một dòng sông tình sử, hay nói một cách khác, có một tình sử buồn thương mang tên một dòng sông quê mẹ dấu yêu, đó là “tình sử Ô Lâu”. Dòng sông Ô Lâu nằm ở cực Nam huyện Hải Lăng xưa là nơi “đưa duyên” cho mối tình giữa chàng thư sinh xứ Nghệ với cô lái đò trên sông này nảy nở nhân một chuyến chàng “qua sông luỵ đò” để vào Kinh ứng thí. Sau khi thi đỗ trạng nguyên xong, chàng về tìm lại bến sông xưa thì mới biết, người yêu đã qua đời trong tương tư mòn mỏi, để lại mối hận tình thảm thiết trong cổ tích và ca dao:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa...
Lâu nay, người ta những tưởng đó là “tình sử Ô Lâu” duy nhất. Nào ngờ, bên dòng Ô Lâu còn có một cuộc “lỗi hẹn” trăm năm buồn thảm hơn nữa giữa vua Thành Thái với bà Dương Thị Ngọt ở thôn Hội Kỳ, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, một người con gái đẹp như thể được sinh ra từ nguồn nước Ô Lâu ngọt mát.
Trong quá trình điền dã để lần theo dấu vết cuộc tình này, một cuộc tình chưa thấy được viết ra trong các sách kể chuyện “thâm cung bí sử” triều Nguyễn, chúng tôi may mắn được ông Dương Quang Diêu ở Hội Kỳ, người cháu họ của bà Ngọt ở đời thứ 3 (nếu tính từ đời bà) cung cấp một số tài liệu xưa và những lời kể “mật truyền” trong gia tộc để ít nhiều dựng lại được cuộc tình này.
Bà Dương Thị Ngọt là con gái của ông Dương Quang Xứng, một vị quan trải qua nhiều đời vua triều Nguyễn. Trong gia phả của gia tộc họ Dương tại nhà ông Dương Quang Diêu, hiện còn cất kèm một tờ sắc của vua Đồng Khánh và một văn bản của Bộ Lại, thời vua Thành Thái ban cấp cho ông Dương Quang Xứng, cho biết ông Xứng từng giữ chức Viên ngoại lang ở Nha thương trường (tức kho lương thực), tiếp đó, vào năm 1885, niên hiệu Đồng Khánh được thăng chức Lang trung, đến năm Thành Thái thứ 6 (1894) được thăng chức Thái bộc tự khanh, rồi đến chức Bố chính tỉnh Khánh Hoà (chức quan trông coi việc tài chính ở tỉnh). Cùng với con đường thăng tiến của ông Xứng, bà Ngọt từ một cô thôn nữ “quê mùa” bỗng trở thành một “bà vua” là chuyện dễ hiểu.
Bà Ngọt được chọn làm bà phi thứ 9 của vua Thành Thái. Bia mộ trong lăng của bà đặt tại thôn Hội Kỳ, Hải Chánh đã ghi rõ điều đó: “Hoàng triều cửu giai tài nhân thuỵ Thục Thuận Dương Thị chi tẩm, Thành Thái thập tam niên bát nguyệt cát nhật tạo”, dịch là: Lăng của bà họ Dương, bà phi của nhà vua được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, có tên thuỵ (tên đặt cho người có địa vị sau khi chết, dưới thời phong kiến) là Thục Thuận, lăng được dựng vào ngày lành, tháng 8, năm Thành Thái thứ 13 (tức năm 1901). Ta biết rằng, trong nội cung triều Nguyễn, kể từ đời vua Minh Mạng trở về sau, các bà phi được xếp hạng theo 9 bậc thứ tự gồm: nhất giai phi, nhị giai phi, tam giai tần, tứ giai tần, ngũ giai tần, lục giai tiệp dư, thất giai quý nhân, bát giai mỹ nhân và cửu giai tài nhân. Bà Ngọt được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, bậc 9, được hưởng lương 180 quan tiền và 48 vuông gạo. Bà sinh được một hoàng nam nhưng bị đau chết, khi mới một tuổi. Là một bà vua nhưng bà Ngọt có số phận hết sức bi đát, do bởi bà đã được sinh ra bên dòng sông “tình sử Ô Lâu” định mệnh kia chăng?
Ông Dương Quang Diêu đã 70 tuổi, tuổi “cổ lai hy” mà vẫn còn minh mẫn nhớ như in những lời “mật truyền” trong gia tộc về cái chết oan khốc của bà Ngọt: “Vua Thành Thái không để tóc dài như các vua khác mà đã cắt tóc ngắn. Một hôm, sau khi đã cắt tóc ngắn xong, vua dạo một lượt qua các bà phi, hỏi xem có đẹp không. Bà nào cũng khen đầu vua đẹp. Chỉ riêng bà Ngọt đã không khen lại còn buột miệng bảo: “Trông giống như kẻ cướp ấy”. Vua nổi giận, liền đem bỏ bà Ngọt vào nấu trong vạc dầu”. Lời kể của ông Diêu về tình tiết dẫn đến cái chết của bà Ngọt có thể chưa sát với sự tình (thời nhà Nguyễn không có chuyện dùng vạc dầu để trị người phạm tội) nhưng rõ ràng là bà Ngọt đã phạm tôi khi quân (tội khinh vua), phải chuốc lấy cái chết. Còn nhớ, dười thời vua Minh Mạng, có một bà phi vào chầu vua 5 năm rồi mà chưa được chung chăn gối, một hôm, nhân vua ngủ trưa bèn liều hôn trộm vua một cái, vua còn xử tử ngay, huống nữa là trường hợp của bà Ngọt.
Dù bà Ngọt bị buộc tội chết, vua vẫn lo cho lễ mai táng bà chu đáo, theo đúng nghi thức xứng với một “bà vua”. Chính thế mà khi thuật lại đám tang của bà Ngọt với chúng tôi, ông Diêu đã thoát ra ngoài cái giọng trầm đục vì nặng nỗi bi thương để cất cao giọng pha chút tự mãn: “Đám tang bà Ngọt được đưa từ Huế về Quảng Trị bằng đò theo đường sông Ô Lâu, về cập bến chợ Hôm, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Từ chợ Hôm, người ta gánh bộ quan tài bà Ngọt đi trên chiếu hoa rải cho đến tận thôn Hội Kỳ. Chi phí mai táng, xây dựng lăng tẩm, nhà vua phải chịu. Vua còn cấp cho 4 người từ phu coi lăng, mỗi người được cấp 3 sào ruộng miễn thuế và ngoài ra còn được miễn các thứ sưu dịch”.
Đến đây, có một điều nghi vấn đặt ra: nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc của bà Ngọt có liên quan sâu xa gì đến tâm sự u uất của vua Thành Thái không? Ông vua yêu nước Thành Thái đã từng giả điên để che giấu mưu đồ chống Pháp (bởi thế mà ông từng được mệnh danh là “vua điên”). Quyền hành nhà vua bị thực dân Pháp thu hẹp dần, mọi cải cách nhà vua đưa ra đều bị cản trở. Cả đến những cử chỉ “duy tân” của nhà vua như tự lái xe hơi, lái xuồng máy, cắt tóc ngắn...cũng bị khâm sứ Pháp và bọn bồi Tây dò xét, nghi ngại. Thậm chí, chúng còn phao tin nhà vua điên thật để kiếm cớ truất phế. Vậy cái chết của bà Ngọt có liên quan gì đến chuyện “giả điên” của vua Thành Thái không, có liên quan gì đến một khúc quanh của lịch sử không? Mọi uẩn khúc này hy vọng sẽ được thời gian soi xét.