Cái chái bếp mà tôi muốn đến giờ đây chỉ còn trong ký ức. Vào khoản hơn 30 năm trước, khi đó tôi mới lên chín, lên mười, mỗi bận đi làm đồng, hay giăng lưới, cắm câu xa, chiều trèo xuồng về gần đến, thấy cái chái bếp nhà mình lừng lửng khói cơm chiều trên cái nền trời tím sậm là lòng tôi thấy ấm lại. Ở đó má tôi rồi chị tôi và sau nửa là em gái tôi đang cặm cụi kho cá, nấu cơm. Rồi bữa cơm chiều khi đã đỏ đèn dọn ra, chỉ là mắm đồng, ba khía, cả nhà quây quần vừa ăn vừa nói chuyện râm rang. Vậy mà tôi ăn một bữa cơm ngon lành. An xong thì mệt nhọc trôi tuột hết. Mười bảy tuổi tôi bắt đầu xa quê đó là một chuyến đi dài đến tận bây giờ, thỉnh thoảng mới về thăm quê cũ. Sau này khi má tôi qua đời, chị Hai tôi bị máy bay Mỹ bắn chết, còn em gái tôi thì đi lấy chồng xa, mỗi lần về thăm quê, nhìn cái chái bếp lạnh tanh những hình bóng cũ, lòng tôi cứ bùi ngùi, xốn xang đến ứa nước mắt. Khi đó tôi mới ngộ ra rằng, cái chái bếp chính là không gian của nhiều thế hệ phụ nữ nối tiếp nhau thắp lên một ngọn lửa tình cảm gia đình, làm nên cái hồn gia đình trong mỗi cuộc đời chúng ta.
Làng tôi được những lưu dân khẩn hoang từ miệt Tiền Giang kéo về đây lập ra khá lâu đời. Thế nhưng hàng trăm năm qua nó vẫn là một xóm nhỏ nghèo xơ xác và buồn hiu hắc. Xóm nằm trên bờ sông Bạc Liêu nhưng lại là khúc sông buồn, khúc sông lượng như con rắn với những voi những vịnh. Ven bờ, bầu, mắm, lá dừa nước… mọc trúc đầu xuống sông như liễu rủ. Chiều xuống, nước những lớn, tiếng bìm bịp dội rền rền mặt sông, nghe âm u và trầm uất đến lạ. Xóm có hơn 200 nóc gia và toàn là bằng cột cây rừng và lớp lá dừa nước. Nhà cất một kiểu giống nhau, một giang nhà lớn 3 căn và đeo bên hông nó là một giang nhà nhỏ liền kề, mà nông dân gọi nôm na là cái chái bếp. Dân ở đây xem trọng việc xây dựng chái bếp bằng với ngôi nhà chính, theo quan niệm : nếu ngôi nhà lớn cất nhằm ngày tốt, hướng tốt… thì học hành đổ đạt, mùa màng và công việc làm ăn… sẽ "thuận bườm xuôi gió", còn nếu chái bếp tốt thì gia đạo sẽ thuận hòa, đầm ấm. Thế cho nên khi cất chái bếp ai cũng đi nhờ thầy coi ngày lành, hướng đặt miệng lò. Khi chụm bếp lửa đầu tiên là phải cúng bái bằng trái cây hoặc chè, xôi. Đến 25 tháng chạp âm lịch là lễ đưa ông táo về trờ, tập quán của người dân quê tôi là cúng chè, xôi… đưa ông táo. Sau đó thì rửa rái, dọn dẹp sạch sẽ bàn thờ ông táo, dán liễng mới. Đến 30 Tết gia chủ lại làm lễ cúng bái để rước ông bà, trong đó có rước ông táo. Người dân quê tôi xem trọng ông táo cho nên mấy cái lò nặn bằng đất sét đó họ gọi một cách trân trọng là "ông lò".
Trong những câu chuyện của ông bà, cha mẹ tôi kể về cái thuở mới đến đây dựng nghiệp giúp tôi hình dung được cái bếp lò thời khẩn hoan. Hoi ông bà tôi đến xứ Bạc Liêu để khẩn hoang đã dựng một căn chòi lá cặp bờ sông làm chỗ trú mưa nắng để chặt cây dọn rừng. Và họ chọn một góc chòi để làm bếp. Bếp lúc bấy giờ là ba cục đất sét nặn giống như con cờ vua rồi xếp chụm đầu vào. Trên đầu đặt xoang, chảo, dưới đất đặt củi đốt lò. Vật liệu đốt lò gồm bất cứ thứ gì dễ cháy như : cành cây khô, lá khô. Thậm chí có gia đình lười biếng cứ chất một đống rơm cạnh nhà, hễ tới bữa thì ra rút rơm vào nấu quanh năm. Bếp lửa nhà đó nổi lên thì khói bay mù mịt. Người nấu cơm mắt, mũi chảy nước… vậy mà rồi quá ra hay, khói đã xua được bầy muỗi đói vốn rất nhiều đến phát sợ, đến phải đặt vè : " Muỗi kêu như sáo thổi".
Người khẩn hoang xưa khi đi dọn rừng phát ruộng xa chòi thường mang theo một bếp lò di động. Cũng gọn nhẹ thôi, họ sách 3 ông táo hay một cái lò nặn bằng đất sét, có đáy, nung chín, bỏ xuống mũi xuồng, đến nơi làm, chọn một chỗ khô ráo rồi đặt lò và nhặt cành cây khô nổi lửa lên. Đầu tiên là để xua muỗi mồng, sau đó thì dọn rừng phát ruộng gặp cua, vọp, ốc, rùa, rắn… thì bỏ vào nướng. Có lẻ thứ bếp di động này đã góp phần quan trọng vào nền văn hóa ẩm thực của đất phương Nam mà cho đến bây giờ khi nhắc đến những món ăn đó ta còn thèm chảy nước miếng, đó là : cá lóc nướng chui, rắn nướng lào, rùa rang muối, ốc nướng tiêu…
Trở lại cái bếp di động của những người khẩn hoang, đến buổi nghỉ trưa thì họ do gạo, bắt nồi cơm lên và thức ăn thì đã có sẵn. Thế là bửa cơm được dọn ra giữa cái không gian rừng rậm hoang du hay chốn đồng không mông hoạnh, người ta ăn đến 5 - 7 chén cơm vì lao động cực nhọc vì thức ăn là đặc sản ngon tuyệt trần.
Đất đai ở quê tôi nhiễm mặn ,ưu niên, cuối mùa gặt thường lúa bị háp xoay qua trắng nên dân xứ này xoay qua chất chà, văng lưới hoặc đăng cá tôm trên sông Bạc Liêu kiếm sống. Mỗi lần họ đi đánh cá đều sách theo một chiếc lò đất nung dùng để un khói xua muỗi và khi đói thì cho mũi xuồng ghéo vào một lùm cây khuất gió rồi nổi lửa lên nấu cơm, cũng có khi là nấu trà để uống. Một hình ảnh mà lúc nhỏ tôi thường gặp là một ông lão văng câu ngồi trên sạp một chiếc xuồng con, trong một đêm sông chở đầy trăng, đầy đom đóm lập lòe trên rặng bầu, giữa xuồng là cái lò lửa cháy bập bùng, nồi nước sôi réo, ông ngồi bên một bình trà để trong hộp sọ dừa… vừa uống trà, vừa ngâm nga mấy câu hò sông Hậu : " Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy/ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa/ Gởi thư thăm hết mọi nhà/ Trước là thăm mẹ sau là thăm em". Câu ca miêu tả tâm trạng của những người ở Tiền Giang đi tha phương cầu thực, nhớ quê và hình ảnh hông già bên bếp lò di động đó đã miêu tả một phần cáo thẩm sâu của nền văn minh sông nước Nam Bộ.
Đến thời tôi biết thì chái bếp của mỗi gia đình ở quê tôi được xây cất gọn gàng, tươm tất hơn. Tươm tất, gọn gàng theo kiểu thời đó. Người ta đóng cái bếp bằng cây rừng, hình chữ nhật, ngang khoảng 8 tấc, dài khoảng 1,2m, dưới chân thì đóng 2 cái cây, vừa có tác dụng làm các khung vừa để chất củi khô. Mặt giàng bếp được làm bằng đất bùn trộn rơm rồi phơi đến khô cứng. Trên mặt giàng bếp là chỗ để 2 - 3 chiếc lò và trên nửa là cái trang nho nhỏ đóng lên một cột nhà để thờ ông táo. Trên nóc chái bếp bao giờ mạng nhện và lá cũng đen mung vì khói bếp lâu ngày. Gần cái giàng bếp thường một bên là một cái "cự" củi thật to, một bên là một cái giàng chén được đóng bằng cây rừng, tre hay đơn giản hơn là sóng lá dừa nước. Trên mặt giàng chén thì úp chén, tô, dĩa và mấy chai, lon đựng mỡ, tỏi, ớt… Dưới chân giàng chén thì đặt mấy cái "cà bịch" đựng muối, gạo… "Cà bịch" được đang bằng lá dừa nước. Không gian còn lại thì dùng làm chỗ ăn cơm. Có gia đình thì đóng bàn ăn cơm bằng tre, có gia đình hễ tới bửa ăn là chải chiếc đệm ra rồi cả nhà quây quần, họ ăn trong lúc lũ gia súc nhao nháo đòi ăn, có khi gà, vịt, chó nhảy vào mâm cơm…
Các gia đình nhà quê rất ít khi mua thức ăn, ngoại trừ mua nước mắm, mỡ… có gia đình cũng chẳng cần mua nước mắm, họ "ao" sẵn một hủ nước mắm để trong giàng bếp, khi cần là múc ra dùng. Thức ăn thì "mùa nào của ấy". Nước rong thì canh chua cá kèo, tép đất chấm với dấm ớt đưa cơm. Hoi đó tép ran mặn với muối cục là món ăn để lâu ngày, phòng khi không có thức ăn. Nhà nào cũng ran cả thúng tép rồi treo lên chái bếp, hễ không có đồ ăn thì lấy ra. Lũ trẻ con thời đó thấy tép ran là sợ. Đến mùa sa mưa, nước đồng lểnh lảng, không bắt cá tôm được thì gia đình nhà quê vở hủ mắm trong chái bếp ra chưng, ăn kèm với bí rợ hầm dừa. Tháng chạp hoặc ra giêng là mùa tát đìa nhà nào cũng làm mắm, làm khô dự trữ… Chái bếp nực nồng mùi mắm, mùi khô.
Hồi xưa chái bếp nhà tôi rất rộng, được ngăn làm đôi. Một phần là dùng làm để buồng ngủ, một phần dùng để nấu ăn. Đầu tiên thì má tôi ngủ, khi chị Hai tôi lớn lên thì má tôi lên nhà trên nhường phòng cho chị Hai, khi chị Hai tôi chết thì căn phòng ấp lại nhường cho em gái tôi. Cái phòng ngủ rất đơn giản, gồm 1 chiếc giường tre, một cái gương "đựng" quần áo … cửa buồng ăn thông ra khu bếp. Hễ ai ngủ ở căn phòng ấy là làm chủ cái "giang san" chái bếp. Và thời của người nào, tuy cuộc sống gia đình lam lũ quanh năm nhưng, tôi đều thấy cái chái bếp sạch sẽ, ngăn nắp. Mùa hạn là má tôi đi chặt củi về phơi khô cả một khoản sân lớn, sau đó thì chất đầy một "cự" củi dài đến 5m, cao 2m. So củi này đủ cho gia đình đốt lò quanh năm kể cả giỗ chạp, Tết nhất. Những nhà không biết lo xa, đến mùa mưa pjơi củi không được phải chạy nháu nàu chứ nhà tôi thì không đời nào. Còn chị Hai tôi thì giật tàu dừa khô rồi chặt lá bó lại hàng trăm bó, gát trên nóc chái bếp để dành nhóm lửa (thời đó xài dầu lửa nhóm lửa là hoang phí) hay những lúc cần nấu nhanh như nấu nước pha trà khi có khách…
Ở quê tôi mỗi lần đi xem mắt dâu là bà già chồng tương lai hay ra dò xét cái chái bếp, nghĩa là cái hiếu hạnh của người phụ nữ được phơi bày trong cái chái bếp. Hễ bếp núc gọn gàng, sạch sẽ là bà mẹ chồng tương lai cho một điểm rất cao trong những căn cứ để kén dâu.
Cái chái bếp nhà tôi là gian sau, là nơi vương vất nhất của bốn người phụ nữ thân yêu của đời tôi : má tôi, chị Hai tôi và hai đứa em gái tôi. Tôi nhớ những buổi trưa hè má tôi ngồi ngạch cửa chái bếp chảy tóc cho chị Hai tôi, chị Hai tôi lại sức dầu dừa chảy tóc tôi và 2 đức em gái tôi trong những buổi chiều 30 Tết. Nhớ những trưa hè oi ả, má tôi ngồi xay bột nặn bánh lá, chị Hai tôi hấp bánh rồi cả nhà súm sít quây quần vừa chan vừa húp xoàn xoạt. Đó là cái thuở khổ, đói bánh, đói trái… nên chiếc bánh đơn giản làm từ bột gạo đó tôi ăn vào và nghe ngon ngọt đến tuyệt trần. Những năm tháng lớn lên đi xa, được ngồi trước những bữa tiệc đầy cao lương mỹ vị mà tôi vẫn cảm thấy không ngon bằng chiếc bánh của má tôi và chị Hai tôi làm ngày đó.
Cái chái bếp nhà tôi thật sự rộn ràng và vui đến nức lòng là khi nhà có giỗ chạp, Tết nhất. Buổi chiều mấy chị em hàng xóm, bạn của chị Hai tôi, kéo đến cười nói râm rang, kẻ xay bột,người đánh trứng, sau đó thì ngồi nướng bánh bông lan hay "sên" mức dừa … chuẩn bị cho ngày mai đám giỗ. Tối đến, các chị đùa giỡn trong phòng chị Hai tôi rất khuya.
Ngày Tết đến còn vui hơn nữa. Từ 25 Tết, má và chị Hai tôi đã sửa sang giàng bếp cho sạch, đẹp, rồi lo bánh trái, khô… Đến ngày 30 Tết thì dần đổi công gói bánh tét, bánh ít. Chiều 30 Tết má tôi kế 3 ông lò ở nhà bếp và đêm đó nếu bánh đến giao thừa. Lũ trẻ con nhà nghèo đói ăn, chúng tôi thức canh nồi bánh chín để nghe má kể chuyện đời xưa và để khi bánh chín thì được cho ăn.
Hơn 30 năm sau, tức là bây giờ, ngôi nhà xưa, chái bếp cũ đã thay ngôi đổi chủ. Cái "giang san" đó giờ đây em dâu tôi làm chủ. Người cũ đã không còn, không gian thì mất hết. Sau những vụ trúng tôm em trai tôi đã xây cái nhà bếp bằng gạch, giàng bếp được làm bằng gạch men sáng choang. Mỗi lần tôi về cứ cảm thấy cái chái bếp ấy lạnh tanh, ăn những bữa cơm không còn ngon như ngày cũ. Hóa ra cái chái bếp đó đã không có cái hồn xưa.
Năm tháng cứ trôi qua, càng lúc càng xa thăm thẳm nhưng trong góc lòn tôi vẫn còn đó tươi nguyên một chái bếp lừng lửng khói cơm chiều. Cái chái bếp ấy đã từng tạo ra tình cảm gia đình trong tôi và bây giờ nó vẫn tiếp tục gợi thương, gợi nhớ. Thương nhớ đến xót xa, bùi ngùi một gia đình nhà quê đã rời khỏi đời sống tôi từ lâu lắm.