Thi sĩ tạo ra Bến My Lăng giữa cuộc đời mơ mơ , thực thực : Bến My Lăng nằm không , thuyền đợi khách – rượu hết rồi , ông lái chẳng buông câu – trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách – ông lái buồn để gió lén mơn râu … Bến My Lăng là Bến Thơ để thi sĩ neo hồn mình suốt bao năm trần thế .
Trên Bến My Lăng ấy , có con đò nhỏ , có trăng màu áo ngọc lưu ly … Và có khế chua chị nấu lá mồng tơi – em ước cùng ăn đến trọn đời – tang mẹ mãn rồi , bà mối giục – chị đi bát đũa cũng mồ côi … Vị chua ấy lại ngùi ngùi trong một ngày đầy ân nghĩa : Em gọt khế cuối mùa – anh cắn từng lát nhỏ – ôi , quả thường vị chua – mà mọng nhiều thương nhớ … để rồi thi sĩ phải thốt lên : Tôi nợ đời rau trái tôi ăn … - nợ em cài bên cửa một vầng trăng .
Trên Bến My Lăng ấy , thi sĩ sáng đọc Nam Hoa Kinh – tối nằm không hoá bướm – mừng mình chủ được mình – dậy thổi nồi khoai sớm … Còn gì hạnh phúc hơn mình chủ được mình ! Mình chủ được mình để xao xuyến bâng khuâng : Em đến xin hồng , hồng mới nụ – đêm nay hồng nở , bóng em xa – cầm em bữa trước em không ở – giờ biết làm sao cầm được hoa ; để cảm nhận hết tình thân : mở mắt nhìn qua ai đến thăm – thì ra bạn cũ đã mười năm – câu thơ ngày ấy nhoà mưa hạ - còn nửa vầng trăng cứ khuyết thầm …
Cho dù tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén – năm tháng còn trên mấy đốt tay … thi sĩ vẫn thiết tha : Thu đã đêm sâu nổi tiếng gà – tưởng chừng chốc lát sẽ đi xa – tình còn lưu chút mùi nhân thế – lay lắt hoàng hôn một gốc hoa … Giờ thi sĩ đang ngao du trên chín tầng trời với bạn bè trong Trường Thơ Loạn nhưng đâu đây trên cõi bờ nhân thế nầy còn vang vọng : Bến My Lăng còn lạnh , Bến My Lăng …
Ghi chú :Những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Yến Lan