Với gần 40 bức tranh trong cuộc triển lãm ở số 4 Hoàng Hoa Thám - Huế, khai mạc 11 tháng 10 năm 2008 Võ Xuân Huy đã đặt người thưởng ngoạn trước một công trình tổng hợp từ 3 phạm trù sơn mài độc đáo.Sự nối kết truyền thống vào hiện đại nầy mang tầm vóc đặt để một nguyên lý, xứng đáng để giới bình luận lưu tâm và ghi nhận lâu dài.
Ở đây, mặt phẳng trong nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam đã không còn cố hữu.Vâng, mặt phẳng ấy còn có thể chủ động cho mòn khuyết đi, nức nẻ hoặc được vun cao lên một cách đa dạng bất thường.Hơn thế, vật liệu bên ngoài - đôi lúc - được gắn dính vào, tạo liên kết với không gian thực tế đang vận hành chung quanh một cách tự nhiên, sống động.
Nguyên thuỷ, sơn mài trải qua các công đoạn chính : Vẽ nét, phủ sơn và mài tranh để hoàn thành tác phẩm nghệ thuật.Qua đó, các hiện tượng thô ráp xuất hiện.Mặc nhiên, chúng được coi như những hệ quả thường tình, đặc trưng của bộ môn nghệ thuật nầy.Đấy là các tình trạng nức nẻ, nhẵn mòn và nhăn nhúm.
Thực ra đây là các thuộc tính chuyên biệt của kỹ thuật xử lý sơn mài. Sự dị biệt không mong đợi, ít nhiều gây chuyển biến vật lý lên bức tranh một cách ngẫu nhiên, thực tế.Và vì thế, ngoài quan tâm về phương diện kỹ thuật ra thì nhà sáng tạo không lấy đó làm các phạm trù nghiêm túc đưa vào trong sáng tác nghệ thuật.Chưa nói tới việc đi xa hơn, lạ hơn để tổng hợp chúng nhằm khai sinh một ngôn ngữ mới chuyển tải ý đồ, tư tưởng như Võ Xuân Huy.
Thành công của anh không ngẫu nhiên.Là thách đố thực sự, trải qua cuộc động biến lâu dài trong tâm thức dằng co.Cuối cùng, những nút chặn kiên cố được hoá giải.Vốn từ trong giới hạn của góc độ kỹ thuật mà tồn tại, các hiện tượng thô ráp thường tình được Võ Xuân Huy giải phóng, xử lý tổng hợp, nâng lên đưa vào trong phạm trù nghệ thuật.
Qua trực cảm của Võ Xuân Huy từ lâu các hiện tượng thô ráp nói trên đã trở nên ám ảnh trường kỳ.Những hiện tượng ấy mở đường, khai thị để góp phần xác lập các trường liên tưởng mới trong ý thức sáng tạo của anh. Hoạ sĩ sinh 1970 quê Vĩnh Linh, Quảng Trị tốt nghiệp 1995 ngành sơn mài tại đại học Nghệ thuật Huế - đang sinh sống và công tác giảng dạy tại nơi nầy.
Liên tưởng hay đường dẫn nào ? Đưa Võ Xuân Huy từ trực cảm tiếp cận ba hiện tượng thô ráp đầy ám ảnh kia tới ý thức sáng tạo nghệ thuật đã thành hình.Từ nức nẻ, nhẵn mòn và nhăn nhúm để đi tới kết hợp"Ba biến thể".Từ hỗn tạp, vô cảm để hiện thân thành thông điệp có chiều sâu, hằn rõ những lát cắt mang ý đồ tư tưởng ?
1* Nức nẻ : Từ trực cảm để liên tưởng tới mặt thoáng hằng trăm, hàng
hàng ngàn năm khô cằn dưới mặt trời nhiệt đới.Quê nhà và ruộng đồng mùa
hạ.Những vết nức chân chim bên gốc rạ thân tình.Của di tích rêu phong qua bao lần phế hưng, mưa nắng.Là nét phát gợi nhớ về ảnh tượng mênh mông, bước chân đi của tổ tiên người Việt.Là sự hiện hữu bằng chứng vượt lên đầy bi tráng giữa lịch sử, thời gian và bạt ngàn cam khổ.
Ẩn hiện chiều sâu ở nức nẻ như một thứ thông điệp lõm khuyết đang cất tiếng vọng trầm, luôn nhắc nhở.Rằng, nức nẻ hiển thị về độ căng từ thiếu hụt dưỡng sinh kết dính trong mệnh vận và môi trường đầy khắc nghiệt.Một cách khác, là hậu quả chênh lệch của hai phạm trù thuỷ, hoả.Ảnh hưởng vốn khốc liệt của cường lực nhiệt độ tạo khô cằn lên chất lỏng bốc hơi.Bức "Tự sự cố đô" rực lên một màu đỏ chói.
Lớp lớp liên tưởng...Cuối cùng cũng trở về trong đòi hỏi một hoà điệu thiêng liêng không thể tách rời Đất Nước.Đấy cũng là hai trong nhiều chất liệu chính thức hoá thân vào nghệ thuật sơn mài.Sự hoà điệu nhuần nhuyễn ấy như một loại thước đo cơ bản, ấn chứng lâu dài cho lịch sử suốt bốn ngàn năm văn hiến.Nức nẻ, phạm trù mãnh liệt nói lên khát vọng lấp đầy và xoá đi khoảng trống cách ngăn.
Khát vọng ấy không còn riêng Võ Xuân Huy.Anh đã bắt gặp và hoà đồng trong cội nguồn đại thể.Xa hơn, còn là khát vọng chung của tự mỗi nhân thân trong cộng đồng nhân loại.Đánh động sự sa-mạc-hoá vật thể lẫn tinh thần.
2* Nhăn nhúm : Từ trực cảm để liên tưởng tới vết nhăn khuôn mặt mẹ già, của tổ tiên khuất bóng.Những luống cày vồng lên trong ký ức Việt nam. Là những nếp gấp dựng dậy từ núi non, sơn hà và lục địa.Sóng biển.Của lớp lớp thời gian đang dồn xô, đập vỗ.Là biểu trưng uất súc những năng lượng vô bờ còn trong cõi đi hoang.Của gom tụ, dư thừa nhưng chưa bao giờ được khai phóng, thăng hoa.
Ẩn hiện độ dày, gồ cộm trong nhăn nhúm ở đây như một thông điệp lý giải về sự co cụm, nghẹn tắt trong âm thanh đông cứng, cô đơn.Rằng, phạm trù nhăn nhúm hiển thị cho quánh đặc, dư thừa song thiếu hụt dung môi để có thể lan chảy hài hoà.Một cách khác, nói lên khát vọng hoà nhập để hiến dâng và cung ứng.Khát vọng về xử lý đường dẫn tinh hoa và năng lượng.
Ngay ở đây, tính biện chứng giữa nức nẻ và nhăn nhúm phơi bày.Sự tương tác giữa hai phạm trù dư thừa và thiếu hụt tự nó đã nói lên liệu pháp dung hoà."Bổ bất túc, tổn hữu dư" , Võ Xuân Huy gặp lại minh triết phương Đông.Vâng, bớt chỗ dư thừa, lấy đó thêm vào nơi thiếu hụt.Ta nhận thấy có cả rác thải công nghệ - vỏ bia lon - được đính cứng, gồ cộm lên trong bức tranh sơn mài hết sức đặc biệt"Hoá thạch đương đại".
3* Nhẵn mòn : Từ trực cảm để liên tưởng tới cuốc, cày bóng nhẫy chất mồ hôi.Những tấm áo sờn vai, mong manh bạc mầu vì sương nắng.Của mọi lối trâu đi bên vệ cỏ đường làng.Là âm bản phim để phóng ảnh những cật lực tận tuỵ nuôi sống con người.Sự hy sinh nhân thân để hậu duệ tựu thành ước vọng văn minh.Là bậc cấp nhẵn mòn, chỗ đặt chân thấp nhất, đầu tiên trên từng chiếc thang danh vọng.
Ẩn hiện độ lép, sự chà mài trong nhẵn mòn ở đây như một thứ thông điệp trực tiếp cắt nghĩa tại sao ? Do đâu ? Toàn cục được ngời lên vẻ bóng lộn tinh khôi.Rằng, phạm trù nhẵn mòn hiển thị cho cạn kiệt về năng lượng sống.Sự trả giá - hy sinh nhiều thế hệ - cho thành tựu và phúc lợi văn minh hôm nay mà không hẳn ai đều thụ hưởng như nhau.
Một cách khác, bức "Những mẫu tự chết" đã tự kỷ ám thị với nền văn minh mà chính nó là biểu tượng.Xơ hoá chữ nghĩa.Ta nhìn thấy hình tượng các mẫu tự bị lộn ngược, nhạt mờ và tơi tả.Bắt gặp ở đây, sự cảnh báo trên phạm vi toàn thế giới về độ mòn nhẵn, trơ lỳ các hệ thống ẩn sau vinh danh tư tưởng tiến bộ của con người.
Mặc dù đã qua nhiều cuộc triển lãm quốc nội, nước ngoài.Song, với "Ba biến thể" mới là lần thứ nhất.Chưa đáp ứng thời gian để Võ Xuân Huy khai triển đủ và đầy những trường liên tưởng phong phú như bản tâm ấp ủ, hướng về...
Vẫn có thể nhận ra rằng, cấp độ ngôn ngữ trừu tượng được sử dụng nơi đây chừng mực, không tìm cầu sắc sảo.Nhưng bên cạnh - một cách công bình và quan trọng hơn - cần thấy rằng, đấy chưa phải là sinh điểm của "Ba biến thể".Hơn thế, chính nó còn mở ra khả năng kết hợp một số ngôn ngữ khác, kể cả ngôn ngữ trừu tượng vào trong nó...Chắc rằng sự đột phá để khai quang một con đường như Võ Xuân Huy, hẳn là điều mang ý nghĩa nhiều hơn.
Rất bất ngờ, nhưng không thể phủ nhận anh đã chứng tỏ chúng - "Ba biến thể" - như cặp cánh tân kỳ, có thể chuyển tải thứ nghệ thuật sơn mài đầy kinh viện vào một cõi xa hơn, mới hơn nhưng - ít nhất qua các trường liên tưởng Võ Xuân Huy chủ động thiết lập - tranh của anh vẫn chưa hề rời xa truyền thống.Tất nhiên, dù "biến thể" đến đâu, hoá thân ba phạm trù nức nẻ, nhẵn mòn và nhăn nhúm vẫn tồn tại căn cơ, là thoát thai đích thực từ bản sắc nguyên thuỷ.
Vâng, "Ba biến thể" trong tranh sơn mài của Võ Xuân Huy đủ để nói lên giá trị độc sáng một con đường.Sự lập ngôn đầy táo bạo, và là dự báo thực tiễn có cơ sở về tín hiệu lạc quan mở rộng thêm giá trị nghệ thuật cho vùng sơn mài phủ sóng...
Ảnh bức tranh sơn mài của Võ Xuân Huy : Tự sự cố đô
(thành nội - Huế.10/2008)