Trong bài Đây thôn Vỹ Dạ, nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912- 1940) từng viết:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền (…)
Đúng rồi, phải về với Huế vào một sớm mai, khi nắng mới lên, xanh trên những hàng cau,trên những khu vườn mượt mà màu ngọc bích, nhìn ngắm cành trúc phất phơ nhành lá che ngang mấy bức bình phong hàng giậu chè tàu vuông vức chữ điền…ở phía trước các nhà vườn Huế mới có thể cảm nhận hết cái đẹp đặc biệt dịu dàng của Huế!
Ở đó, nơi thôn Vỹ Dạ tiếp giáp với thôn Tây Thượng trên đường lên phố, hay với thôn Nam Phổ trên đường xuống bãi biển Thuận An, mây gió thảnh thơi trên dòng trăng lấp lánh, đứng bên này bờ nam sông Hương, từ Bến Cạn nhìn qua bên kia Cồn Hến, nhành trúc phơ phất buồn thiu, hoa bắp lay động nỗi niềm…, khách đường xa dễ lạc vào cái cảm giác man mác thần tiên, khói sương huyền ảo…
Có dịp đọc lại bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn, tôi bất chợt nhớ về ngôi nhà cổ kính ba gian hai chái Chu Hương Viên cùng căn nhà khang trang rộng rãi Lộc Minh Đình với bao nhiêu cửa mở về hướng Đông ở thôn Vỹ Dạ, Huế xưa cùa thi sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị ( 1877- 1961), vị chủ súy của Hương Bình thi xã thuở nào mà tôi đã có dịp ghé thăm từ mấy chục năm trước.
Không rõ nhà thơ Hàn Mặc Tử xưa có biết, sau những ngôi nhà vườn mướt xanh màu lục lá kia, sau những bức bình phong chè tàu vuông vắn có nhành trúc vắt ngang lơ lửng thơ mộng kia, Vỹ Dạ thôn từng là nơi lưu dấu một thời vàng son của một thi nhân , tài tử ?
Vỹ Dạ thôn có lão vương tôn là Thúc Giạ
Ưng ca, ưng hát, ưng giã gạo hò khoan
Ham vui điệu cổ thi đàn
Nghe câu tuyệt xướng muôn vàng cũng mua !
Chỉ mấy câu dí dỏm tự trào thôi mà đã vẽ nên cốt cách, hình ảnh phong lưu của một nhà thơ luôn sống chan hòa với thiên nhiên, giữa vui vầy thôn xóm. Nhà thơ quý tộc mà dân dã Ưng Bình, một quốc lão đại thần, vương tôn triều Nguyễn, là cháu nội của vị hoàng tử thứ mười một con vua Minh Mạng – nhà thơ Tuy Lý Vương Miên Trinh, cùng với “ ông hoàng mười “ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, là những bạn thơ thân thiết của Chu Thần Cao Bá Quát.
Luôn cảm thông, gần gũi với dân nghèo, luôn khiêm cung từ tốn. Lúc đương quyền cũng như lúc về hưu, nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị lúc nào cũng sẵn sàng hòa đồng, chia sẻ buồn vui với mọi người, nhất là những ai có số phận hẩm hiu, bị người đời bỏ bê, hất hủi.
Vui nếp sống thanh cao, bình dị, không màng danh lợi phù hoa, với cụ Ưng Bình, thơ và nhạc đã trở thành thú tiêu khiển thanh tao, không thể thiếu. Chu Hương Viên, Lộc Minh Đình trở thành nơi gặp gỡ thường xuyên của người yêu thơ, của các thành viên Hương Bình thi xã. Đó là nơi đầu tiên cất lên lời ca, tiếng hát theo đủ điệu hò khoan, mái nhì, mái đẩy, lưu thủy, hành vân… các bài thơ của cụ Ưng Bình và các thi hữu trước khi được lưu truyền rộng rãi rồi hòa nhập vào kho tàng văn học dân gian. Như câu hò nổi tiếng, quen thuộc Chiều chiều trước bến Văn Lâu : Chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông? Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non…Hay câu ca Một vũng nước trong, mười dòng nước đục. Một trăm người tục một chục người thanh. Biết ai gan ruột với mình. Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân, mà không ít người không hề hay biết là của Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Thế nhưng , có thể nói bài thơ tâm đắc nhất của nhà thơ thôn Vỹ đươc bao người gật gù tán thưởng là một bài thơ thất ngôn Đường luật: bài Tự thuật năm bảy mươi mà cụ ngẫu hứng vào dịp sinh nhật lần thứ 70 vào năm Bính Tuất 1946 :
Ngưỡng mong ơn Phật với ơn Trời,
Tuổi thọ nay đà đến bảy mươi.
Rượu có mùi hương nên uống mãi,
Thơ là thuốc bổ cứ ngâm chơi !
Thuở ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi
Giở tấm gương vàng soi tóc bạc
Sương pha tuyết điểm lại càng tươi.
Bài thơ hàm súc bao ý chân thành của một ông quan thanh bạch, một nghệ sĩ ưu thời mẫn thế, thanh thản an bình nhìn lại bao chặng đời đã qua :
Biết đủ, dầu không chi cũng đủ
Nên lui, đã có dịp thì lui!
Hai câu thực đầy ý vị về rượu và thơ trong bốn món phong lưu cầm kỳ thi tửu. Đặc biệt là hai câu luận được rất nhiều người ngâm ngợi :
Thuở ra sân khấu không làm rộn,
Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi !
Có lẽ ai cũng hiểu , ngầm hiểu ra cái ý ở ngoài lời – ý tại ngôn ngoại – song cũng không ít người cắc cớ, giả vờ thắc mắc , hỏi nhà thơ rằng sao cụ không viết là chẳng hổ ngươi mà lại viết là ít hổ ngươi ? Nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị chỉ mỉm cười, nhẹ nhàng, từ tốn trả lời : Đã ra sân khấu thì không làm rộn nhiều cũng làm rộn ít, bởi thế cho nên tôi dùng chữ ít hổ ngươi xem ra phải chăng và có lý hơn !
Thật khiêm nhường và nghiêm cẩn biết bao cung cách sống nhàn nhã, liêm khiết mà phong lưu của nhà thơ thôn Vỹ Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Người đã ung dung đi vào cõi Vô Cùng từ ngày 19 tháng hai năm Tân Sửu 1961 .
Một số tác phẩm của Ưng Bình :
- Tuồng Lộ Địch,1936, tái bản 1959. Tuồng hát bội, phóng tác theo bi kịch Le Cid của kịch tác gia Pierre Corneille, Pháp.
- Bán buồn mua vui ( các điệu ca Huế ), 1954.
- Đời Thúc Giạ,thơ, 1961.
- Tiếng hát sông Hương,hò Huế, 1972, tái bản 2005.
- Thơ ca tuyển Ưng Bình Thúc Giạ Thị,1992.
- Lộc Minh Đình Thi Thảo ( thơ chữ Hán ).
- Tuồng Tào Lao, 21 điệu ca ngâm, hò hát Huế.
Ảnh : thôn Vỹ Dạ của socbay.com