Những bài thơ chan chứa nỗi niềm của một con người đi gần xuyên thế kỷ 20, qua giao thừa hai thiên kỷ, bước vào thập niên đầu của thế kỷ 21, với bao câu hỏi lớn không lời đáp…Cao Quảng Văn
VẦNG TRĂNG ĐẠI NỘI
Một mảnh trăng khuya vượt Cấm Thành
Soi tìm bí sử dưới rêu xanh
Trắng đêm cung viện hồn hoa thức
Bướm rũ long sàng cánh mỏng manh
Chuông vàng khánh ngọc vẳng nơi đâu
Mà tượng trang nghiêm lạnh bóng chầu?
Nay điện Thái Hòa, mai Thế Miếu
Duy còn chín đỉnh với ngàn sau
Đại Nội từng khi trăng dõi soi
Biết gì vương đế thuở xa xôi ?
Mười ba triều đại – vòng hưng phế
Vẩy bút, thời gian xóa sạch rồi !
MỘNG KHIÊM LĂNG
Đây chốn quân vương chọn để nằm
Mặc đời thương ghét, kẻ thù căm
Đồi thông gió vỗ thiên trường mộng
Bến liễu trăng in bóng cổ cầm
Bao bước chân phàm hoen chín bệ
Một vườn thơ ngự ngát muôn năm
Khiêm lăng bàng bạc màu sương khói
Bia đá rêu phong ý lặng thầm …
CÁT, SẦU
Thử sánh đời thơ với kiếp hàu
Nuốt sầu, ngậm cát kém gì nhau
Cớ chi dưỡng cát, nuôi sầu lớn?
Cát hóa trân châu, sầu hóa … sầu?
LÀM QUAN, LÀM QUÁN
Ông đã làm quan nên biết rồi
Làm quan như bỡn, dễ như chơi
Bỏ quan ông trở ra làm quán
Làm quán ông than khó quá trời
Làm quan bổng lộc tự nhiên vào
Thiên hạ tìm quan đem của trao
Làm quán ông hầu trăm hạng khách
Đồng tiền vào quán hách làm sao
Ai dám chê quan dám trách quan
Coi chừng giọng thép với lời gang
Làm dâu trăm họ khi làm quán
Giả điếc ông nghe chúng chửi quàng
Làm quan làm quán thử cho quen
Làm quán làm quan ắt phải nên
Ai muốn làm quan làm quán đã
Hầu dân hầu khách vẹn đôi bên.