Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.043
123.235.248
 
Chế Lan Viên – Trong hồi quang của ký ức
Đông La

Vào một buổi sáng cách đây tám năm, khi đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên, tôi thấy ông mừng như chưa bao giờ mừng như thế. Ông nói với tôi:

- Hú vía, cứ tưởng bị bệnh gì nặng lắm nào ngờ bác sĩ ở  Bệnh viện Thống Nhất lại hỏi mình đã tẩy giun chưa?

 

Ông cười thật khoái chí. Ông mới đi khám bệnh hôm trước. Nhưng rồi cả ông, cả gia đình, và tôi cũng không ngờ rằng, đó chính là niềm vui trọn vẹn cuối cùng của ông ở cõi đời này. Bởi sau đó sẽ lại là bệnh viện, là tràn ngập thất vọng xen lẫn những hy vọng mong manh; sẽ là mổ xẻ, là di căn; rồi cuối cùng ông đã đi về “xứ không mầu”, về “Bầu trời khác cũng đầy hoa”.

 

Ông không bị bệnh đơn giản như thế. Sau đó vài ngày, tôi đã cầm thư tay của ông đến văn phòng Hội

Nhà Văn TPHCM xin giấy giới thiệu để ông đi an dưỡng tại Bệnh viện Chợ rẫy, nơi có Bác sĩ Dinh, chồng nhà thơ Anh Thơ, bạn ông. Lúc tôi đi, ông còn nói với theo: “Ông nhớ nói nó ghi tôi chuyên viên 8 nhé”. Và rồi chính ở Chợ Rẫy, người ta đã phát hiện ra khối u ác trong phổi ông.

 

Thoắt cái đã tám năm trôi qua rồi. Thân thể ông đã biến thành một bọc tro than rải xuống sông Sài Gòn và một bình tro xương đặt tại Chùa Vĩnh Nghiêm. Nhưng tinh thần ông, tư tưởng ông, thơ ca ông thì vẫn vẹn nguyên, vẫn sống động như thuở nào.

 

Như một quà tặng của số mệnh, với khoảng cách 35 năm tuổi tác (ông còn lớn hơn cha tôi hai tuổi) và đỉnh cao của một tên tuổi lừng danh, tôi đâu có ngờ, sau khi đọc có 5 bài thơ mà tôi dự thi ở cuộc thi thơ của Hội Nhà Văn TPHCM năm 1986, ông đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Nhưng mọi chuyện không phải tự nhiên xảy ra mà có những duyên cớ dích dắc của nó. Trước đó, sau một thời gian được nhà thơ Anh Thơ “phát hiện” và “thử tài”, một hôm bà bảo tôi rằng:

- Nếu một đứa học trò như cháu mà được một ông thầy như ông Chế Lan Viên giúp đỡ thì chắc chắn sẽ thành danh.

 

Nhưng bà còn nói gặp được ông khó lắm, không phải ai ông cũng tiếp. Rồi bà bầy mưu, đưa cho tôi một chai rượu thuốc mang đến nhà biếu ông, có dịp thì đưa thơ cho ông coi, nếu ông thấy được thì coi như thành công. Tôi đã lên nhà và lần đầu thấy thần tượng của mình là một ông già cởi trần (khi cởi trần trông ông rất già, còn khi mặc mấy cái áo ca-rô trông ông lại rất trẻ) đang ngồi viết ở cái bàn nhỏ kê chỗ cửa sổ phòng khách. Biết tôi là “người của bà Anh Thơ” ông chỉ gật đầu chào rồi viết tiếp, vợ ông, nhà văn Vũ Thị Thường tiếp tôi. Bà hỏi và khi biết tôi đang là cán bộ nghiên cứu tại Viện Công Nghiệp Dược, Bộ Y tế (giờ không còn), bà bảo tốt quá rồi, dính vào Văn Chương làm gì, con cái bà rồi cho học Y hết (lúc này Thắm, con lớn của bà học Nha khoa, còn Vàng Anh đang học cấp III, sau này cũng học Y).

 

Khi tôi đưa tờ báo Văn Nghệ TPHCM đăng truyện ngắn đầu tay của tôi (“Chuyện về hai người” viết ngay về Viện tôi, cũng được đọc ngay trên cả đài TW và TPHCM, làm cả ngành um lên một hồi), bà đi lấy một cây bút chì bảo có gì bà sửa ngay vào tờ báo nhá. Tôi hồi hộp vì đó là lần đầu tiên một nhà văn đọc góp ý cho văn của mình. Không ngờ, đọc xong bà bảo “viết được đấy”, thái độ của bà cũng có khác đi, và bà cũng không phải dùng đến cây bút chì. Nhưng mục đích chính của tôi là được gặp và nhờ Chế Lan Viên góp ý cho thơ cơ, liền đưa chùm thơ nhờ cô (tôi gọi nhà văn Vũ Thị Thường và nhà thơ Anh Thơ như vậy) Thường đưa giúp. Bà cầm đọc một lúc rồi bảo tôi chỉ biết viết truyện thôi, không biết làm thơ, với lại “ông nhà tôi bận lắm!”.

 

Tôi tiu nghỉu ra về. Nhưng vốn là cán bộ nghiên cứu KHTN, khi làm thí nghiệm phải nhận biết và lý giải hết các dấu hiệu xảy ra, tôi nhận ngay ra một điều “phi logic”: có hai bà, đều từng ở Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam, tức có vị trí nhất định; bà nhà thơ thì nói tôi chỉ biết làm thơ, còn có thể “hậu sinh khả uý” nữa; còn bà nhà văn thì lại bảo chỉ biết viết văn thôi! Vậy ai đúng ai sai đây? Sau này tôi tích lũy tri thức, đi sâu tìm hiểu lý luận, rồi viết nhiều phê bình, khởi đầu chính là vì muốn trả lời được cái câu hỏi về cái điều “phi lo-gic” trên, và muốn mình có đủ cơ sở để tự đánh giá đúng về mình. Đến tận giờ thì riêng lĩnh vực phê bình, tôi thấy những người tôi quen không một ai chê cả; Đại tá nhà thơ Anh Ngọc có lần bảo: “Vừa ăn vừa đọc bài của ông (bài viết về cuốn Ngày văn học lên ngôi của Đỗ Minh Tuấn), hay quá, rơi cả đũa!”; còn Nhà văn Nguyễn Trung, cựu Đại sứ, nguyên Thư ký Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lần tôi nhận được điện thoại của ông nói là đã đọc bài viết về cuốn “Biên độ của trí tưởng tượng” trên báo (do Nguyễn Hữu Sơn ở Viện Văn học viết), đã bỏ một buổi chiều đi khắp Hà Nội mua mà không được, hỏi được số điện thoại nhà tôi ông gọi để xin một cuốn và cũng muốn tặng tôi một cuốn của ông nhờ tôi góp ý để ông viết một bộ tiểu thuyết để đời;… Còn văn, thơ thì vẫn giống tình trạng trên, người thì thích văn, người thì thích thơ. Văn thì đến nhà văn Nguyễn Khải khi đọc tập truyện “Những dấu vết không phai” bảo tính đọc để đi ngủ nào ngờ đọc xong rồi còn muốn đọc lại lần nữa, riêng truyện “Lễ tưởng niệm” ông bảo cả đời may ra mới viết được vài cái như thế; còn thơ thì có anh bạn Dung, tiến sĩ ở trường KHXH & NV TPHCM bảo: “Đọc thơ anh rồi, không đọc được thơ của người khác nữa vì thấy nó nhạt”; còn nhà thơ Hải Như mà tôi không được quen thân lắm, khi đọc chùm thơ của tôi dự thi trên Văn Nghệ, đã gọi điện thoại tự giới thiệu ông từng giới thiệu ông Vũ Tú Nam, Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn VN, vào Hội Nhà Văn, rồi bảo, nếu có quyền ông sẽ cho tôi giải nhất, vì thơ tôi đã đạt được cái “hiện đại một cách giản dị!”…

 

Và còn nhiều nữa, cả người quen và không quen, người nổi tiếng và  những độc giả vô danh, như Giáo sư Trần Đình Sử thì tôi đã vài lần gặp; còn nhà văn Vũ Ngọc Tiến mới chỉ tâm giao trên mạng và Giáo sư Trần Chung Ngọc tận bên Mỹ thì tôi chưa một lần gặp mặt… Một vài lần tôi từng viết trong truyện ngắn là văn chương với tôi tuy không được tích sự gì, còn làm khổ tôi và gia đình nữa, nhưng tôi vẫn viết vì nó cũng đã mang lại tôi không ít niềm vui, chính là vì có những sự đồng cảm trên đây, dù rằng có thể họ cảm nhận sai về tôi. Còn việc nhiều người thích tôi viết phê bình hơn thì tôi thấy đó chính là do bản tính con người đa phần thích được giảng giải, nếu ai đủ tinh nhậy và có trình độ sẽ dễ làm thỏa mãn người đọc, còn tự thưởng thức các tác phẩm văn chương, nhất là văn chương hiện đại, người đọc có phần giống như phải giải toán, phải tự tìm kiếm cái hay, cái đẹp, cái sâu xa mà tác giả “cài đặt” trong tác phẩm, nếu thấy thì “hay” còn không thấy thì là “dở”, nên tùy theo khả năng và “gu” mỗi người, sẽ cảm nhận về tác phẩm khác nhau, mãi mãi sẽ còn là như thế. Còn tôi, tôi không sợ mình thiếu khả năng, mà cần một thứ, đó chính không gian sáng tạo thoáng đãng để trí tuệ có thể vùng vẫy được. Thực ra đến giờ tôi mới viết ra được một phần nhỏ những suy tư của mình.

 

Quay lại với Chế Lan Viên, nghe nhà văn Vũ Thị Thường nói vậy tôi cũng buồn, nhưng hồi ấy văn chương với tôi còn là thơ mộng và thiêng liêng lắm. Không hiểu sao tôi đinh ninh là, với cái đầu của Chế Lan Viên, nhất định ông sẽ thấy cái hay của thơ tôi, chỉ cần làm sao thơ tôi đến được tay ông mà thôi, nên tôi vẫn kiên trì “phục kích”. Rồi phải mấy tháng trời, đến tận khi Hội Nhà Văn TPHCM ra cuộc thi thơ mà ông chấm chung khảo, tôi mới có dịp nhờ cô Thường đưa thơ của tôi cho ông coi. Bà nói với ông:

- Anh Hoan (tên ông) ơi, cậu này cũng có làm thơ, cậu ấy có chùm dự thi đây này, anh coi giúp xem.

- Ông (ông thường gọi tôi vậy, còn tôi gọi ông là “chú” xưng “cháu”) cũng có làm thơ à? - Rồi sau khi đọc xong, ông reo lên: - Ô, ông làm được đấy, ông  sẽ được giải đấy!

 

Tôi ngạc nhiên đến độ không còn biết đến vui mừng nữa vì không hiểu “được giải” nghĩa là thế nào? Sao ông lại cho giải ngay tại nhà ông? Rồi ông tiếp: “Tôi có thể cho ông giải cao nhất cũng được, nhưng ông chưa có lực khéo người ta giết ông đấy! Thôi, tôi cho ông đứng đầu giải 3!” Nói xong, ông còn vào trong buồng, bê ra một chồng vở khổ lớn ra khoe với tôi một cách hồn nhiên như khoe một người bạn tâm giao vậy:

- Ông biết tôi làm thơ như thế nào không? Khi nào nghĩ ra được một câu hay tôi chép vào quyển đầu này, khi nào có tứ sẽ phác thảo vào cuốn thứ hai, tôi đánh mục lục đàng hoàng để hoàn thiện dần.

 

Bấy giờ Vàng Anh còn nhỏ có thể không để ý đến “chuyện riêng” của tôi với cha cô; còn cô Thường có thể cô không nhớ, mà cô nhớ làm gì chuyện một người làm thơ trẻ đến gặp ông, vì người ta từng đến quá đông. Nhưng với tôi thì ngược lại, một người tập tẹ làm thơ lại được chính Chế Lan Viên khen, còn cho giải nữa, thì không thể là chuyện bình thường được. Tuy nhiên tôi cũng không đến nỗi quá phởn chí bỏ hết các thứ để lao vào thơ ca, vì lúc đó tôi đã là chủ nhiệm đề tài nghiên cứu chiết xuất chất Vinblastine, một loại thuốc chống ung thư, từ cây dừa cạn, tôi không dễ ngây ngô bỏ mồi bắt bóng. Nhưng quả thực tôi vẫn muốn được Chế Lan Viên xác nhận lại khả năng của mình một lần nữa để tôi còn “liệu” cho tương lai của mình, nhưng tôi ngại không dám hỏi. Phải đến lần ông nói với tôi:

- Ông nên có một chỗ sinh hoạt. Để tôi bảo Nguyễn Quang Sáng ghi tên vào Hội thành phố trước đã. - Ngẫm nghĩ một lát ông tiếp: - Thôi, bây giờ ông lên văn phòng xin một bộ hồ sơ rồi nói với anh Chim Trắng là tôi nhờ anh ấy cùng tôi đứng tên giới thiệu ông vào Hội.

 

Tôi quá ngạc nhiên và quá xúc động, quả thực đời tôi chưa có một người dưng nào lại quan tâm tới mình như thế, lúc ấy tôi cảm thấy ông như cha của mình vậy và nhanh trí thừa dịp hỏi luôn:

- Thế… cháu làm thơ có được không chú?

Ông cáu, nhưng sự phật ý này của ông đã mang lại đời tôi một trong những niềm vui lớn nhất, ông trả lời tôi hơi gắt:

- Ông tưởng tôi cho ông giải vì tình cảm riêng hở! Ông nên nhớ, trước ông đến nhà tôi đã có hàng vạn người rồi, nếu vì tình cảm mà cho giải thì bao nhiêu cho đủ?!

 

Từ đó, sau chính câu nói này của ông, tôi không còn băn khoăn đến điều mình có khả năng hay không nữa và xác định một thái độ nghiêm túc đối với việc viết lách, và noi gương ông, trước khi đặt bút viết, tôi phải tự trả lời được câu hỏi: “tại sao lại viết thế?”, nên đã tiếp cận sâu vào lý luận. Tôi có tham vọng muốn đến được tận cùng cái nguyên lý mà từ đó người ta đã xây nên những quan điểm về cái hay, cái đẹp, cái giá trị của tác phẩm nghệ thuật.

 

Tôi đã mở được cánh cửa đến với “Không gian Chế Lan Viên” là như thế. Từ đó tôi đã thành người thân của gia đình, được nghe ông nói nhiều về thơ, về những điều rất tinh tế, rất cao sâu. Ông không răn dậy, chỉ bảo mà thường chỉ bộc bạch, giãi bầy những suy tư trăn trở. Với những thành tựu đã đạt được, người khác chắc không ai đắn đo như ông: “Tôi đi giữa nét vằn và dáng ngựa/ Phối hợp hai cực hai đằng dễ đẻ ra văn”; ông cũng từng viết mà tôi chỉ nhớ ý: “Chỗ này sâu ư?/ Không phải, chỉ vì nước đục!/ Chỗ này nông ư?/ Không phải, vì nước trong nên ta nhìn thấy đáy./ Cái sâu cạn trong thơ là thế đấy!”. Ông cũng nói rất cụ thể với tôi:

- Thế nào là thơ hay? Thơ hay bắt đầu từ chữ hay, rồi đến câu hay, đoạn hay, toàn bài hay. Nhưng thế nào là hay? Cái hay là sự sáng tạo ra cái mới lạ, cái độc đáo, là ở độ khó để làm ra chúng. Nhưng tất cả những cái đó lại phải có ý nghĩa, có giá trị.

 

Rồi ông đọc hai câu ca dao: “Tay trồng cây cửu lý hương/ Ba năm hai lá người thương dịt đầu”. Ông bảo phải trồng đến ba năm mới được hai lá để dành cho người thương quả là kỳ công thật, đúng là yêu nhau thật!

 

Giờ ngồi nhớ lại mối quan hệ với một nhà thơ lớn mà cứ như nhớ về một giấc mơ, một câu chuyện cổ tích. Sau khi đề nghị trao giải cho tôi, giới thiệu tôi vào Hội, ông còn đến báo Văn Nghệ TPHCM gởi gắm tôi, rồi còn xin cho tôi đi làm ở một tờ báo… Quả thật, ông đã quan tâm đến tôi như sự quan tâm của một người cha. Sau khi ông mất, một thời gian tôi đã tự đặt cho mình bổn phận phải “góp giỗ”, tiếc là đến nay không còn nữa, phần lỗi là do tôi chắc quá chấp vặt chăng?

 

Hồi nhỏ, tôi vốn học khá những môn tự nhiên, luôn có ước mơ trở thành một nhà phát minh, nên thần tượng không phải là những nhà văn nhà thơ mà là những nhà bác học trán dồ và râu dài. Tôi không một mảy may quan tâm đến văn chương. Thế mà không hiểu sao tôi lại nhớ thơ Chế Lan Viên. Năm 1974, năm đầu vào chiến trường, một đêm dưới mái lá trung quân, tòng teng trên cánh võng, trong tiếng rì rầm của sóng sông Đồng Nai vỗ nhẹ vào bờ đá, tôi đã hứng chí đọc bài “Người đi tìm hình của nước” của ông, mà tôi được học trong sách giáo khoa, cho đồng đội nghe với một sự đắc ý về sự hiểu biết của mình.

 

Nhà Thơ Anh Thơ một lần đã tặng tôi một tuyển tập thơ, trong đó tôi lại rất thích những bài: Con cò; Tình ca ban mai; Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể của Chế Lan Viên. Thế là lần thứ hai, từ sự hồn nhiên, tôi đã yêu mến thơ ông. Riêng bài Con cò, khi quen ông, tôi còn dám bình trước ông nữa, không sợ gì chuyện múa rìu qua mắt thợ cả:

- Cháu rất thích hai câu: “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ/ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Lấy cánh cò thực đắp cho đứa bé đã là lạ rồi. Còn cánh cò ở đây lại ở tận trong lời ru cơ!

Nghe xong, ông có vẻ xúc động, ông bảo:

- Con Thắm đấy, con Thắm đấy!

 

Với bài Con cò, ông đã thể hiện được một phần quan trọng trong đời sống tình cảm của mình. Bên cạnh những mối quan tâm lớn lao đến thi ca, đến mọi mặt cuộc sống, ông luôn có đam mê chăm sóc con cái bằng những việc li ti thường nhật. Còn hai bài: Tình ca ban mai Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, tôi thấy là hai bài điển hình cho hai phong cách ngôn ngữ của thơ ông: ngôn ngữ có yếu tố tượng trưng và ngôn ngữ có yếu tố siêu thực.

 

Lối tư duy bằng hình tượng, diễn tả ý tưởng bằng những hình ảnh tượng trưng là một thao tác được ông dùng thường xuyên. Khác với nhiều tác giả khác làm thơ tình, thơ lãng mạn, với sự giãi bầy, thổ lộ, kể lể, tán dụng… quá chi li cụ thể, gây cho người đọc thông minh một sự ngán do cái rõ ràng thừa mứa. Tình ca ban mai không thế. Chế Lan Viên đã để chừa một khoảng im lặng cho độc giả tự xúc cảm. Bài thơ đã được thiết kế một bộ khung thơ lãng mạn, các yếu tố tượng trưng được đính lên đó để thể hiện những ý tưởng, cảm xúc. Như vậy nó không lãnh đạm như tượng trưng của chủ nghĩa Tượng trưng, người đọc phải xúc cảm thông qua những ám thị trước những hình ảnh, mà tình cảm đã chan hòa ở tất cả các dòng thơ. Thế nhưng ý tứ cụ thể thế nào thì ông diễn tả theo đúng như Mallarmé, một trong những ông tổ của thơ Tượng trưng, từng nói: “Từng bước gọi ra một vật thể, và như thế phơi bầy một tình cảm”. Tất cả những sự chia ly, gặp gỡ, nỗi buồn, niềm vui… đều được ông thể hiện bằng những hình ảnh chiều đi, chim vườn, mai về, rừng non, trời trưa, nắng sáng

 

Em đi như chiều đi

Gọi chim vườn bay hết

Em về tựa mai về

Rừng non xanh lộc biếc…

 

Ta thử phân tích một câu đầu. Ở đây sự xa cách, nỗi buồn đã được thể hiện bằng hình ảnh chiều đi. Chiều đi là hoàng hôn về, rồi đêm xuống, tắt nắng, vắng lặng, rồi buồn, rồi cô đơn… Như vậy, từ hình ảnh gốc, nếu sử dụng đắc địa, phù hợp, nó sẽ có khả năng gợi mở, tạo ra một chuỗi những liên tưởng, giống như sự bắn phá của hạt nơtron sơ cấp vào một hạt nhân, sẽ tạo ra vô vàn hạt thứ cấp và các mảnh vỡ, dẫn đến hình thành một năng lượng khổng lồ. Có lẽ, sự thưởng thức, rung động trước một tác phẩm thi ca cũng từa tựa như thế.

 

Về yếu tố siêu thực trong thơ Chế Lan Viên, còn rất ít sự phân tích. Việc nhận dạng tính siêu thực trong hội họa, trong văn chương cũng đã nói nhiều, nhưng còn mù mờ và mâu thuẫn nhau, kể cả những nhân vật có tiếng tăm. Người thì cho siêu thực là cao siêu, người thì cho là mờ ảo… Thực ra siêu thực là một quan niệm sáng tác, có cơ sở lý luận riêng, đã trở thành một chủ nghĩa trong văn học nghệ thuật, đặc biệt là trong Hội họa và Thơ ca. Riêng Chế Lan Viên đã sớm viết về nó. Ông từng viết: “Siêu thực là gì: là romantisme jusq’au bout (lãng mạn đến tột cùng)… Người Trung Quốc gọi là kỳ, tânmới thì chưa đủ, sau tân còn phải kỳ (lạ) nữa…”. Khi bàn về cái lạ của ngôn ngữ thơ ca, ông từng trích những câu: “Mái nhà dài như một tiếng chiêng” (Trường ca Đam San); rồi “Anh về mua lụa bọc trời” (Ca dao);…

 

Như vậy, tính siêu thực của ngôn ngữ thơ ca chính là tính bất thường khi thể hiện những sự vật, hiện tượng bình thường, với một sự tưởng tượng, liên tưởng cao nhất, để thấy một hiện thực khác trong tâm tưởng, nó phong phú, kỳ lạ, ấn tượng hơn với những ví von, ghán ghép đầy bất ngờ, tạo ra những chiều kích, hình dạng và những tính chất khác mà bản thân hiện thực tĩnh không có.

 

Chế Lan Viên không chấp nhận và không làm thơ siêu thực thuần túy, ông không chấp nhận quan điểm thơ “đứng ngoài mọi thiên kiến thẩm mỹ hay đạo đức” của Chủ nghĩa Siêu thực; không chấp nhận thơ ca quá xa lạ với bản năng thích cái hay, cái đẹp hồn nhiên của con người. Thơ ông không có những hình ảnh siêu thực kỳ dị theo đúng tính chất ngẫu nhiên, sự gán ghép kỳ lạ của nó: “Đẹp như một gặp tình cờ của một cái máy may với một cây dù trên bàn mổ” (Lautréamont); hay như Breton mô tả hình dáng người đàn bà vừa như đồng hồ cát lại như con rái cá: “Vợ tôi… có vóc hình của đồng hồ cát… có vóc hình con rái cá trong hàm răng con hổ” (Tự do kết hợp, Quỳnh Thư Hiên dịch). Ông chỉ chấp nhận tính kỳ lạ trong thơ mà hình như ông là người đầu tiên gọi là “yếu tố siêu thực” bởi ít nhiều nó có nét tương đồng. Ông coi nó như một chuyện tất nhiên trong sáng tạo, như một phần rượu trong một bữa cơm, là cách để “tăng năng suất ý”. Ông viết bài Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể:

 

Cái rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa

Một đắp cho em ở vùng sóng bể

Một đắp cho mình ở phía không em.

 

Đây là bài thơ đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh. Chính tính bất thường của ngôn ngữ đã gây ra cái ấn tượng ấy. Chỉ một tấm chăn thôi mà đã đắp cho mình rồi còn đắp được cho người yêu tận nơi chân trời góc bể nữa. Cũng lạ như thế, hai câu trong bài Con cò mà tôi đã nói:

 

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi

 

Khi viết về Côn Sơn, ông đã thấy mùi hoa đại thơm từ tận thời của Nguyễn Trãi:

 

Côn Sơn thơm mùi hoa đại

Thơm từ thời Nguyễn Trãi đến thời ta

 

Và khi đến với thiên nhiên, ông cũng nhận ra được một tính chất khác, một khả năng khác của nó:

 

Mỗi lần đau anh lại đến Tây Hồ

Chữa lành anh là bông súng tím

 

Trong tập Điêu tàn mà ông viết từ thuở thiếu thời, tôi không chú ý lắm đến những đầu lâu, xương cốt, tháp Chàm lở lói… bởi chúng là những cái lạ lồ lộ, ai cũng thấy. Tôi lại chú ý đến những câu ông có cách diễn đạt lạ nhiều hơn:

 

Ta cùng nàng nhìn nhau không tiếng nói

Sợ lời than lay đổ cả đêm thâu

 

Một động tác (lời than) lại có thể lay đổ được cả thời gian (đêm thâu). Lạ lùng biết bao nhưng cũng có lý biết bao! Khi người ta quá yêu nhau, đòi hỏi một sự hoàn thiện; khi trái tim quá nhạy cảm thì chỉ cần một dấu vết của sự không hoàn thiện thôi cũng có thể dẫn đến sự đổ vỡ, một lời than có thể làm hỏng mất cả cái đêm yêu đương huyền diệu kia. Đọc những câu thơ của ông, ta thấy được cái im lặng vô cùng của không gian, nhưng lại là cái im lặng trước một cơn bão, trước cái khoảnh khắc mà những dòng nham thạch của ngọn núi lửa đang lịm ngủ, chuẩn bị trào sôi!

 

Thế đó, tôi đã yêu thơ Chế Lan Viên từ khi chưa có mảy may nào bận tâm về văn chương, chưa từng biết mặt ông. Có lẽ vì người ta thường đồng cảm với những gì gần gũi với mình. Sau này làm thơ rồi khi xem kỹ thơ mình, tôi ngạc nhiên thấy mình cũng có khá nhiều câu thơ ngồ ngộ, kiểu như: “Anh xa em gần nửa vòng trái đất/ Nỗi nhớ cũng cong theo dáng Địa cầu”; rồi ; “Con lại đến với ngôi trường sơ tán/ bốn bờ tường như bốn ụ đất lom khom/ Cô vá lại cho con cái ước mơ rách nát/”… Khi cầm bút viết phê bình, tôi nhận ra những câu thơ lạ đó không phải là độc quyền của riêng ai mà chúng chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, tức “hồn thơ” của mỗi thi sĩ. Chính trí tưởng tượng của nhà thơ đã tạo ra sự lạ hóa cách thức biểu đạt, từ đó mới tạo ra được những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhiều cái bình thường sẽ có một diện mạo mới, khả năng chinh phục mới, làm nên ấn tượng, sức truyền cảm trong lòng người đọc. Nếu Chế Lan Viên có thể chia chăn đắp được cho người yêu tận chân trời góc bể, thì Hữu Thỉnh cũng có khả năng nhìn thấy được cái ranh giới chuyển mùa từ Hạ sang Thu: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”; Nguyễn Duy cũng thấy được tuổi của giọt nước mắt: “Giọt nước mắt cũng đã già như tuổi”, còn trái tim của Xuân Quỳnh cũng “biết yêu anh cả khi chết đi rồi”; Lưu Quang Vũ tả mái tóc người yêu: “Tóc em dài như một ngày mỏi mệt”; và Phùng Khắc Bắc: “Con số 8 như vòng tròn vặn mình/ Giống như người đang quay ngoái lại”…

 

Từ khi được quen thân với Chế Lan Viên, tôi đọc ông kỹ hơn, những tác phẩm chính tay ông đề tặng, gia đình ông đề tặng, và tôi cũng tự đi tìm kiếm, tôi đã đồng cảm với ông rất nhiều. Tôi nhớ một lần ông nói: “Tôi muốn làm được loại thơ có thể đọc được từ trên xuống, cũng có thể đọc được từ dưới lên”. Tôi nhận thấy thơ ông gần như đã bao trùm hết cả. Từ những ngõ ngách, tầng cao, tầng thấp của cuộc sống tinh thần con người, đến những mối liên hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên. Và ông quan tâm nhiều đến sứ mệnh của thơ; ông làm nhiều thơ về thơ, muốn khám phá cái cơ sở triết lý hình thành nên thơ ca và sự tồn tại của nó theo thời gian.

 

Cùng là những người yêu thơ ông, nhưng người ta yêu cũng khác nhau, người thích bài này, người thích bài kia; người đánh giá giai đoạn này cao hơn giai đoạn kia… Còn tôi, giống như số đông, tôi thích tập “Ánh sáng và phù sa”. Có giai đoạn thơ ông nghiêng về tính chính luận, tính thời sự; giai đoạn cuối (phần di cảo) thơ ông nghiêng nhiều hơn về tính suy tư, về cái tôi. Ánh sáng và Phù sa đã hòa quyện tất cả những gì ông có. Nó có tất cả vẻ đẹp của thơ. Ông đã viết nên nó ở giai đoạn chín nhất, sung sức nhất của khả năng tư duy (khi ông 35- 40 tuổi). Ở đấy sự thông minh đã hòa tan vào tình cảm; mỗi trang thơ đều thấm đẫm cảnh sắc của thiên nhiên nguyên thủy, có hổn hển hơi thở ấm áp và nhịp đập rạo rực của cuộc sống. Ở đó có những bài thơ rất nổi tiếng, là những bài thơ tiêu biểu cho cả một giai đoạn văn chương: Người đi tìm hình của nước; Tiếng hát con tàu; Giữa tết trồng cây; Tình ca ban mai… Có những câu thơ được thuộc nằm lòng trong các thế hệ độc giả:

 

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

 

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương

(Tiếng hát con tàu)

 

Nếu ai đã từng xa Tổ quốc, thấy mình thành dân thiểu số ở xứ người, khi cái tôi bị nhấn chìm trong sự xa lạ, sẽ rất thấm thía câu thơ của ông:

 

Tổ quốc thân yêu như quả tim thầm

Ở giữa lòng ta nào ta có biết

Trong xa cách bỗng à ơi giọng Việt

Ru lòng tôi qua ngàn dặm quê xuân

(Ý nghĩ mùa xuân)

 

Còn đây là tình cảm của ông đối với Đảng - Người đã thay đổi toàn bộ cuộc đời ông; từ một chú bé chỉ thấy những điêu tàn đổ vỡ, đến mùa xuân cũng chẳng thiết: “Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân lại gợi thêm sầu/ Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau” (Xuân), lại trở thành một chiến sĩ cách mạng, đầm mình trong gian khổ, rồi làm thơ yêu đến rưng rưng từng gốc cây, ngọn cỏ:

 

Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác

Những vật vô tri cũng làm rưng rưng nước mắt

Đá sỏi, cây cằn sao bỗng thấy thiêng liêng

(Kết nạp Đảng trên quê mẹ)

 

Còn đây là những câu thơ tả cảnh tuyệt đẹp của ông:

 

Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc

Nơi bốn mùa đã hóa thành thu

Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ

Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài

(Cành phong lan bể)

 

Và đây là những câu thơ ông viết về tình yêu cuộc sống:

 

Cởi giày ra cho chân anh giẫm lên cỏ xanh non

Có phải đất này từ lúc nhân dân tôi làm chủ

Cái sống ngọt ngào trong từng ngọn cỏ

Một cành hoa cũng muốn giục môi hôn

(Tàu đến)

 

Quả thực, nếu ai chưa trải qua đắng cay, sẽ khó thấy hết ý nghĩa của ngọt bùi, Chế Lan Viên từng phải vượt qua những thách đố lớn của cuộc sống, những con đèo hiểm trở chắn ngang đường đời ông. Hiểu được cuộc đời lắm gian truân của ông, ta mới thấy tình yêu thơ ca của ông lớn biết bao nhiêu! Mới thấy hết cái nghị lực phi thường ở thi sĩ ấy:

 

Ta lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng

Lấn bệnh tật mà đi, máu đỏ lấn da xanh

Rồi:

 

Tôi nhặt từng hạt vàng sức khỏe rơi đi

Như mẹ già nhặt hạt thóc vàng đã đổ

Nhặt từng hạt máu mặt trời vứt bỏ

Từng giọt thi tài rơi vãi dưới chân đi

 

Có một phần rất quan trọng làm nên tính cách Chế Lan Viên mà hồi đó trước ông, vì ở một thế hệ khác, tôi giống như một đứa con ngoan ít khi để ý những chuyện rắc rối của bậc cha mẹ, ngay cả khi ông dặn tôi câu sau mà tôi cũng không chú ý lắm: “Đi đâu ông đừng nói thân với tôi nhá, người ta sẽ ghét ông lắm đó!”. Khi biết tôi quen Chế Lan Viên, một số người từng biết ông giai đoạn trước bảo, ngày xưa còn quyền lực ông “ác” lắm; ông có lối đối đáp truy sát không cho người đối thoại “ngóc đầu dậy” được. Như chuyện một nhà thơ từng bị ông loại thơ thế nào ấy nói: “Anh cậy có quyền dìm tôi”; Chế Lan Viên trả lời ngay: “Anh có nổi bao giờ đâu mà tôi phải dìm!”. Tôi cũng được nghe một số người kể chuyện xét Phan Quang vào Hội Nhà Văn; Ban Chấp hành họp xem có nên duyệt không, đợi ý Chế Lan Viên, nhưng ông còn bận đi đái, đái xong vào ông bảo: “Thằng Thép Mới còn được ở Ban Chấp Hành xét người ta thì thằng Phan Quang làm gì không được vào Hội!”. Chuyện này cũng có trong Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn viết về Nguyễn Khải; theo Nguyễn Khải: “Chế Lan Viên một thời dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm… Họp Ban chấp hành ý Chế Lan Viên là quyết định…Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên… Ai cũng gọi là thằng tuốt, thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài…”. Riêng chuyện gọi “thằng” này thì quả thực khi có ý giới thiệu tôi vào Hội Nhà Văn TPHCM, ông bảo: “Để tôi nói thằng Nguyễn Quang Sáng nó ghi tên vào Hội”, nhưng khi kể lại tôi đã sửa cho “mềm” đi. Tôi cũng chứng kiến cảnh ông với nhà văn Anh Đức bàn nhau (khi ông đang ở BV Chợ Rẫy) xem nên đưa Nguyễn Khải hay Nguyễn Khoa Điềm lên làm Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn VN (sau thì Vũ Tú Nam trúng). Cũng theo Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, Tô Hoài gọi Chế Lan Viên là “thằng nặc nô của Đảng”…

 

Tôi cho rằng những điều trên đây hoàn toàn là có thật và rất đúng về Chế Lan Viên, ở gần ông, cũng có lần tôi chứng kiến ông cáu với người thân, gần như ông gầm lên: “Con mụ này!”. Có điều, tất cả những “nết” vừa kể trên đây, tôi không cho là ghê ghớm, chúng không phải là những cái xấu, cái ác thực sự như: cướp của, giết người, gian manh, đểu cáng, vu oan giá họa… mà chỉ là những cái tật thường tình của mỗi con người. Loài người từ trước tới nay có được mấy người toàn thiện, toàn mỹ? Trong một tính cách mãnh liệt của một tài năng lớn, cái “tài” thường kèm theo cái “tật”. Còn những tham vọng, những đấu đá, tranh đoạt của ông, nếu có cũng là sản phẩm tất yếu của một thời bao cấp, người ta chỉ có một con đuờng phấn đấu duy nhất là làm cán bộ, có ai nằm ngoài được cái vòng xoáy ấy đâu. Trong cuộc tranh đoạt ấy, tất có người thành công, kẻ thất bại; và người thành công sẽ hể hả, còn người thất bại sẽ cay cú. Có nhiều sự cay cú, bản chất là tầm thường, nhưng sau này lại được sơn phết một cách có chủ ý một lớp sơn sang trọng là: đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ. Còn Chế Lan Viên, có thể nói ông thuộc phe thành công, nhưng tôi thấy với tài năng của ông, ông hoàn toàn xứng đáng có được những vị trí đã có, thậm chí còn phải cao hơn nhiều nữa, vì thực tế sau ông có những người tài đức còn kém ông xa, đã leo lên được những chức cao chót vót! Nếu không bị hạ bệ thì không biết sẽ còn lên tới tận đâu nữa kia?!

 

Cuộc đời ai cũng có mặt tốt mặt xấu, Chế Lan Viên cũng vậy, nhưng những thành tựu ông đạt được trong văn chương đủ sức trùm lấp lên những điều vặt vãnh. Thật tiếc là ở ta đã xuất hiện một số cuốn hồi ký viết theo phương pháp “ngồi lê đôi mách”, mà chủ nhân của những câu chuyện chỉ dám nói nhỏ với những người “cùng giuộc”, chứ có cho “ăn kẹo” cũng không dám viết công khai. Vậy mà đã có những người mang danh nhà văn, giáo sư văn học này nọ, chỉ tách riêng những nét không hay dựng lên chân dung những nhân vật tên tuổi, trong đó có Chế Lan Viên. Việc lấy toàn những chuyện người ta tếu táo với nhau lúc trà dư tửu hậu, những lời nhận xét chê bai nhau đầy cảm tính ích kỷ, đầy thành kiến méo mó, đầy đố kỵ nhỏ nhen… thành tác phẩm để đời, thật là một hành động phi khoa học và vô văn hóa!

 

Còn được gần Chế Lan Viên, tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận thấy ở ông có một tấm lòng nhân hậu đến hồn nhiên. Ông bảo vì quý Yến Lan nên ông đã đặt bút danh mình có chữ Lan. Là một nhà thơ lớn nhưng ông không khụng khiệng kiểu cách mà giản dị như những người bình thường, ông làm tất cả các việc vặt, từ đun nước tắm cho con, tưới cây, cho gà, cho lợn ăn, đào ao thả cá… Đặc biệt ông rất chung thủy, yêu thương và lo cho sự nghiệp của bạn bè, ông lo viết tựa giới thiệu thơ cho người này người nọ (hồi tôi gặp, ông viết cho Hàn Mặc Tử, Hoàng Trung Thông và Trần Nhật Thu…). Ông lo in tuyển tập cho người bạn thơ ông rất quý là Hàn Mặc Tử, chính tôi đã chở ông bằng xe đạp đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, Tân Bình để chép tập Gái quê đưa vào tuyển tập. Hôm ấy ngồi chép, tôi rất cảm động khi nhìn Mộng Tuyết và Chế Lan Viên ngồi uống trà đàm đạo, để được vậy, tình bạn thơ của họ đã vượt qua cả một khoảng thời gian mấy chục năm và qua cả một cuộc chiến đầy máu lửa. Ông cũng là người rất trân trọng người viết trẻ, những cái mới. Hồi ấy ông quý tôi và anh Nguyễn Thái Sơn về thơ, ông quý Nhật Chiêu dịch thơ Hai-cu Nhật, quý người bạn cũ là Khổng Đức dịch Từ Tống và những người khác mà tôi không biết.

 

Một điều nữa về Chế Lan Viên cũng cần phải nói đến, đó là gần đây những người chống chế độ đã nhân việc Chế Lan Viên làm mấy bài: Bánh vẽ; Trừ đi; Ai? Tôi? (1) đã cho ông là sám hối, quay lại chống Đảng, chống Nhà nước. Thơ ca vốn đa nghĩa, nhất là thơ của một trí tuệ cỡ Chế Lan Viên, lại viết bằng ngôn ngữ tượng trưng, không nói cụ thể điều gì mà chỉ gợi. Nên việc lái ý thơ Chế Lan Viên thành chống đối không khó. Có điều, việc làm trên đã không chỉ hạ thấp nhân cách mà còn hạ thấp cả văn chương Chế Lan Viên. Bởi một thi sĩ lớn như ông nói riêng và những nhà sáng tác chân chính nói chung, người ta viết vì một sứ mệnh lớn lao mang tính nhân bản, nhân văn và vì sự tiến bộ của loài người nói chung, chứ đâu có lại biến tác phẩm của mình thành thứ công cụ xỏ xiên tầm thường! Có kẻ, cả “phe ta”, còn định đôn cô gái cưng của ông, nhà văn Vàng Anh, thành “ngọn cờ đổi mới”, chống lại chính ông nữa. Riêng tôi, đọc những bài thơ “chống đối” trên, lại thấy yêu mến ông trọn vẹn hơn, thấy ông đúng là một thi sĩ chân chính, đã không viết một chiều, không tô son trát phấn cho những sai trái, những mục ruỗng mà cuộc sống của con người, vì không phải là Thiên Đường, nên không thể không có. Ông đã viết chân thực mà một thời, vì cái chung lớn lao hơn cả văn chương là sự thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến, thế hệ ông chưa thể viết được…

 

Nói chung về thơ Chế Lan Viên, mỗi giai đoạn ông đều có những bài đỉnh điểm. Ngoài những bài đã nhắc trong Ánh sáng và phù sa còn có: Sao chiến thắng; Con cò; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?; Ngày vĩ đại; Thần chiến thắng… và giai đoạn sau ông có Từ thế chi ca

 

Nói đến cái chết của ông, trong tôi lại hiện về biết bao tình cảm. Những lời nói, những hình ảnh của ông trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên. Ông thường bảo tôi đi dự những buổi ông nói chuyện, khi ở Trường Tổng hợp, khi ở Phát hành sách… Trong đêm thơ của ông ở nhà Văn hóa Phú Nhuận, khi Thúy Vinh ngâm xong bài Con cò, mọi người vỗ tay như sấm, ông nói nhỏ với tôi: “Thì ra mấy người nổi tiếng lại ngâm không hay bằng cô này”. Trong đám cưới Thắm, con gái ông, ông mời không nhiều, vậy mà ông cũng mời vợ chồng tôi; còn tôi thì coi như người nhà có nhiệm vụ khuân bia hơi từ ngoài đường vào nơi làm đám cưới là Thư viện Thành phố HCM. Một lần chở nhà thơ Anh Thơ lên thăm ông, thấy ông đang cởi trần bắt cá ở cái ao nhỏ sắp cạn trong vườn. Ông chỉ bắt được những con đã ngắc ngoải hoặc đã chết. Tôi liền xuống bắt cá cùng ông. Hai chú cháu một hồi bắt sạch cả ao cá…

Thế rồi sau cái buổi sáng ông đi an dưỡng ở Bệnh viện Chợ Rẫy đó, tôi đã đau đớn chứng kiến toàn bộ bao nỗi hy vọng thất vọng đan xen nhau, bóp nghẹt tim ông, làm âu lo và buốt đau bao trái tim những người thân yêu, những đồng nghiệp, và những độc giả. Tôi đã được chứng kiến giây phút người ta đưa ông ra khỏi phòng mổ, sau một một cuộc đại phẫu, ông nằm bất động, mặt sưng vù, nặng nhọc thở với phần phổi còn lại. Tôi cũng chứng kiến chứng di căn quái ác đã gặm mòn cơ thể, làm méo dần và cuối cùng làm mất hẳn tư duy ông. Câu cuối cùng tôi được nghe ông nói với tôi là về chuyện bắt cá: “Tôi vẫn nhớ tôi với ông cùng bắt cóc (ý ông nói bắt cá). Tôi đã làm cho ông một hũ mắm mà ông không lấy”. Khi ấy tôi đang làm chủ nhiệm đề tài chiết xuất thuốc chống ung thư, biết bệnh ông đã ở giai đoạn không thuốc nào chữa được, nhưng tôi vẫn lấy trộm một chai dịch chiết thuốc đưa cho cô Thường. Người ta còn mách cô cho ông uống phương thuốc bột than xác một loại rắn. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Lần cuối cùng tôi chở anh Hoài Anh lên thăm ông. Lúc này, từ đỉnh cao thông minh, ông đã thành người vô thức. Ông ngồi, hai tay giơ trước mặt trong tư thế đọc báo ngày xưa. Vàng Anh nhét vào tay ông tờ báo. Ông ngơ ngác đọc theo phản xạ mà không đọc gì cả. Rồi đến một chiều, đang ăn cơm, tôi chợt thấy hình ông trên màn hình ti-vi, bát cơm trên tay tôi rơi xuống, tôi nói với vợ cái tin hệ trọng: “Chú Chế Lan Viên mất rồi!”. Trong ngày liệm, tôi vội vàng đến phòng tang lễ Bệnh viện Thống nhất để nhìn mặt ông lần cuối. Khi người ta mang thi thể ông ra khỏi ngăn lạnh, tôi thấy mặt ông quắt lại như già đi cả ngàn tuổi. Người ta đã trải cho ông một tấm nệm rất dầy, rất êm bằng trà và bông gòn trong chiếc quan tài tốt. Ông nằm trong quan tài mà như nằm trong mây ở tận chín tầng trời. Nhìn ông, tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ của Hàn Mặc Tử mà ông đã trích dẫn, mở đầu cho bài tựa mà ông đã viết:

 

Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương anh nằm chết như trăng

 

Tôi chưa được thấy những câu thơ viết về cái chết lại đẹp đẽ sang trọng như thế bao giờ!

Lúc này tôi thấy những hạt nước đóng băng trên trán ông đã chảy ra trông như những giọt mồ hôi, những giọt mồ hôi của cả một đời lao lực. Để viết nên những câu thơ đẹp nhất, ông đã một đời tha hương, vượt qua nỗi buồn, qua máu lửa, qua gian khó, qua bệnh tật, qua những mối quan hệ lắm rắc rối của người đời. Tôi đã vĩnh biệt ông bằng cách lau đi trên trán ông những giọt lao lực ấy!

Trong lễ hỏa táng, tôi đứng trước cửa lò, bên phải là Thắm đang lom khom coi và kêu lên khi thấy lò bên cạnh rừng rực lửa. Còn bên này tôi cũng thấy ngọn lửa trùm lên quan tài ông. Tôi như thấy linh hồn ông bay lên theo ngọn lửa, vĩnh biệt cái cõi thế có lắm đam mê, lắm niềm vui, nhưng cũng nhiều đau khổ và cực nhọc này!

 

(1)

Bánh vẽ

http://vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=5878&LOAIID=30&LOAIREF=1&TGID=1188

 

Ai? Tôi!

 

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó ?
Tôi!

Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ

Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính là tôi!

Người lính cần một câu thơ
giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong

Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

 

Bình Thạnh 1997-Viết thêm 31-12-2008

Đông La
Số lần đọc: 3960
Ngày đăng: 02.01.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc Cõi Trú của Thiên Hà : xanh trong nét bút trắng ngần đôi tay - Đoàn Vị Thượng
Lê Khánh Mai– Định mệnh thi ca - Hồ Thế Hà
Những ám thị phố trong thơ Châu - Liêu Thái
Lê Khánh Mai – Đẹp , buồn và trong suốt như sương - Inrasara
Đồng hồ một kim của Phan Trung Thành : Sự Khuyết Tật Bản Nguyên - Lê Huỳnh Lâm
Đọc sách Địa chí Làng Đức Phổ ( Quảng Bình ) của Đặng Thị Kim Liên - Nguyễn Văn Hoa
Bình luận về tài liệu của Spencer Wells . - Hà văn Thùy
Theo Vết chân dã tràng - Lê Viết Thọ
Lê Khánh Mai – Người mang nỗi buồn đẹp, buồn và trong suốt như sương - Chu Thị Thơm
Trường phái hình thức Nga gợi mở chiều hướng khác - Inrasara
Cùng một tác giả
Đêm hoang (truyện ngắn)
Bài toán (truyện ngắn)
Lễ tưởng niệm (truyện ngắn)
Ân nhân (truyện ngắn)
Lang thang (truyện ngắn)
Ngôn ngữ thơ (tiểu luận)
Họa vô đơn chí (truyện ngắn)