Ngày xuân ai chăng có chút say. Trước cảnh sắc tươi non, trong hương bay ngào ngạt, ai cũng nghĩ cảnh sắc ấy, hương thơm ấy là của vũ trụ ban tặng cho riêng mình. Ngập trong lời chúc của thân quyến, bạn bè, họ tự thưởng thêm cho mình một chút say.
Các thi sĩ là người sống hết mình, yêu hết mình và cũng say hết mình. Kể sao cho hết những áng thơ say tự cổ chí kim của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Petofi, Hainơ, Exênhin...
Trong lâu dài thơ mới của các thi nhân tiền chiến, có nhiều tài thơ còn lưu lại những áng thơ say trác tuyệt, ngân rung mãi trong lòng nhiều thế hệ Việt Nam.
Thơ say của Vũ Hoàng Chương dẫu có nhiều câu tuyệt bút nhưng tôi chỉ phục mà không thích. Đó là sự say của chàng "công tử Bạc Liêu", là sự say đập phá, bất cần đời, mang màu sắc triết lý Hiện sinh quá đà:
"... Say đi em cho nghiêng ngả ánh đèn
Say đi em cho điên rồ xác thịt..."
Lưu Trọng Lư có cái say của đấng tao nhân mặc khách. Một sự say thảng đến, chợt đi trên bước giang hồ, lữ thứ. Dưới cây bút tài hoa của Lưu Trọng Lư, nó như một tiếng đờn bầu bật lên ngân vọng giữa bao la trời đất:
"Ước gì ta có rượu say
Sông kia bên ấy, bên này của ta
Trời cao đất rộng bao la
Hiu hiu gió sậy, la đà dặm trăng.
Một mai bên quán ngập ngừng
Quẩy theo với rượu một vừng giai nhân..."
Nói đến thơ Nguyễn Bính, người đời thường ghi nhớ, truyền tụng nhiều bài thơ tình bất hủ của ông: Tương tư, Cô hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Lửa đò, Nhớ... Có lẽ ít ai biết bài thơ Cho tôi ly nữa. Bài thơ lúc đầu đăng trên báo "Tiểu thuyết thứ Năm", sau in trong tập "Tâm hồn tôi" (NXB Nguyễn Cường, 1940). Đó là sự say của một thi sĩ lớn, một tâm hồn lớn mang nặng nỗi đau đời. Cái hay, cái độc đáo là ở tứ thơ rất hồn nhiên, tình thơ phát triển theo từng cung bậc tâm sinh lý người say sau mỗi chén rượu. Lời thơ cứ nhẹ tênh tênh theo hơi men phảng phất mà sức chuyển tải tư tưởng rất nặng, rất đằm.
Bước vào cuộc say, thi sĩ còn rất tỉnh. Chàng nói lỡm cô chủ quán rằng, đừng nghĩ sớm, trưa, chiều, tối chàng có mặt là mê nàng, yêu nàng. Thi sĩ nói với cô và cũng tự nhủ, mình nghèo, có tiền bao nhiêu uống bấy nhiêu thôi:
"Chả biết là yêu hay chả yêu
Tình cô bán rượu sớm, trưa, chiều.
Tôi ưa say lắm, nhưng nghèo lắm
Có được bao nhiêu mua bấy nhiêu."
Vì rất tỉnh nên chàng bảo nàng rót một ly nhỏ thôi, để chàng trốn tránh giàu sang, tìm thú vui ở thiên nhiên muôn sắc, muôn hương, muôn âm thanh kỳ ảo:
"Cô bán cho tôi ly rượn nhỏ
Của người ẩn sĩ trốn giàu sang.
Tôi say mơ thấy trăm vườn cúc
Một sáng mùa xuân mở cánh vàng"
Khi rượn đã vào ngà ngà hơi men, thi sĩ không còn là ẩn sĩ mà thành cuồng sĩ ghét công danh, căm thói đời đen bạc, khao khát tình yêu...
"Hãy chuốc cho tôi ly rượu nữa
Của người cuồng sĩ ghét công danh.
Tôi say mơ thấy đời đen trắng
Bụi đỏ... Ai người đôi mắt xanh."
"Thư sinh bất khả tam bôi". Chén thứ ba đã làm thi sĩ say thật sự. Chàng quên mình chỉ là gã nghèo đến ở trọ Tràng An. Theo gót cụ Cao Bá Quát, chàng coi khinh tất cả, bất chấp tất cả, đặt mình trên cả vua chúa:
"Hãy chuốc cho tôi ly nhỏ nữa
Của người thi sĩ trọ Tràng Yên.
Tôi say mơ thấy vì tiên trích
Vua gọi mà không chịu xuống thuyền."
Khi đã say đến mức cùng của sự say là lúc thi sĩ khóc cười, cười khóc nhớ người yêu, nhớ đến mối tình tuyệt vọng của mình. (Có thể là với nàng Tố Uyên em gái nhà văn Nguyễn Đình Lạp ở phố Bạch Mai chăng?) Và thế là thi sĩ không tự chủ mình được nữa, uống hoài uống mãi. Không có tiền trả, nếu bị lột áo đã có "áo mùa xuân". Nhưng người say đâu có chịu rằng mình nghèo hèn. Chàng bảo chàng giàu lắm: Giàu hồn thơ - Giàu nhân ái- Giàu gió trăng - Giàu tình yêu - Giàu tình bạn... Bạc vàng nào sánh nổi sự giàu ấy của chàng? Và chàng gõ bát ca:
"Cho tôi ly nữa, thêm ly nữa
Uống thực say rồi nhớ cố nhân.
Rồi nếu tiền tôi không đủ trả
Lo gì, tôi có áo mùa xuân.
Đừng lo, cô nhé, tôi giàu lắm
Này áo khinh cừu, ngựa ngũ hoa.
Mất hết ngàn vàng tôi lại có
Cho tôi ly nữa để tôi ca."
Hỡi ôi ! Đến mức này đố ai ngăn được thi sĩ đừng uống. Đố ai khuyên được thi sĩ đừng say. Ước gì được cùng Nguyễn Bính say một lần giữa xuân Đinh Sửu.
Hà Nội, Xuân Đinh Sửu(2000)