V. Các phạm vi triết học được bài này đề cập
Hai vấn nạn nền tảng
Có hai vấn nạn căn bản liên quan tới triết học, đó là:
1. Bản tính của thực tại là gì? Thế giới chúng ta đang sống có cấu trúc ra sao? Những vấn nạn ấy dính líu tới siêu hình học: những câu hỏi sâu xa và tổng quát ấy nằm bên dưới loại chứng cớ mà khoa học có khả năng khảo sát. Thuật ngữ bản tính (nature) được dùng tới trong sách này có thể hiểu là thực tính, thực chất hay bản chất; phẩm chất và đặc tính tự nhiên hay điển hình của người, của vật hay của một vấn đề.
2. Chúng ta có thể biết chắc chắn những gì? Cái gì lập thành chứng cớ có cơ sở? Có chân lý nào tuyệt đối không? Ðây là thuật ngữ nói theo tri thức luận, tức lý thuyết về sự am hiểu.
Thêm vấn nạn thứ ba
Cùng với hai vấn nạn cơ bản trên là vấn nạn đang tiếp diễn về ngôn ngữ. Không những dùng tới ngôn ngữ, triết học còn bị buộc phải phân tích nó, thách đố nó và thăm dò cả những giới hạn của nó lẫn cách thức chứng minh một lời phát biểu là đúng hoặc sai. Luận lý học hình thức là lãnh vực mà bạn, người đang học triết, phải biết tới; ít nhất là nhìn thoáng qua cách thức sắp xếp các lập luận của mỗi luận cứ, để bạn tiến hành cuộc tranh luận một cách thuận lý.
Các chủ đề khoa học, tâm trí và tôn giáo đều có tính cách trung tâm đối với bất cứ việc học hỏi nghiêm chỉnh nào về triết học, và chúng minh họa cách thức áp dụng các vấn nạn triết lý cơ bản về ngôn ngữ và ý nghĩa vào các chủ đề cá biệt.
Còn có các lãnh vực khác
Nhưng loài người vốn không chỉ tìm cách hiểu rõ thế giới của mình mà còn sống trong thế giới ấy, chọn lựa trong thế giới ấy và tự tổ chức mình thành xã hội. Do đó triết học trình bày hai lãnh vực thực tiễn của cuộc đời: đạo đức học và chính trị học. Cả hai sẽ được xem xét trong chương 7 và chương 8.
Tới chương 9, chúng ta sẽ lướt nhìn truyền thống triết học lục địa ở châu Âu kể từ thế kỷ 20 trở về trước, gồm hiện tượng luận và chủ nghĩa hiện sinh, cùng các lãnh vực khác của triết học châu Âu hiện đại trong khoảng ba mươi năm nay, thí dụ thuyết giải cấu trúc hoặc chủ nghĩa hậu hiện đại, vốn có hàm ý dành cho kiến trúc, mỹ thuật, văn chương cũng như triết học.
Sang chương 10, chúng ta sẽ đề cập một cách đại cương ba ngành triết học để có thể "nếm trải" thêm đôi chút những gì đang có sẵn. Mỹ học xem xét nghệ thuật, đặc biệt các bộ môn nghệ thuật, và cố gắng xác định những gì chúng ta có ý nói qua cái đẹp; triết học lịch sử nhìn cách chúng ta mô tả quá khứ; và triết học giáo dục khảo sát công tác và chức năng của tiến trình giáo dục.
Sau cùng, trong chương chúng 11, chúng ta sẽ nhìn chức năng và toàn bộ các lãnh vực được triết học vào đầu thế kỷ 21 này bao gồm, và tính đại chúng tương đối của nó.
VI. Tiếp cận triết học Ðông phương
Một nhận xét chưa đúng
Triết học không bị giới hạn trong cương giới của một nền văn hóa nào hoặc một lục địa nào. Nội dung triết học được giới thiệu trong sách này và được giảng dạy tại các khoa triết ở hầu hết các trường đại học trên thế giới, đặc biệt tại châu Âu, và Bắc Mỹ, là triết học Tây phương. Tuy thế, đó mới chỉ là phần cơ bản nhỏ bé trong truyền thống triết học lớn rộng hơn rất nhiều.
Nói chung, triết học Ðông phương bao gồm các hệ thống triết lý và tôn giáo chủ yếu tại Ấn Ðộ, gồm các truyền thống đa dạng được gom chung thành Ấn giáo, cùng với triết học Phật giáo và Kỳ na giáo, và tại á đông gồm Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản với tư tưởng của Nho giáo và Ðạo học cùng những phát triển về sau của Phật giáo.
Người ta thường nói tới sự khác biệt sâu rộng giữa triết học Ðông phương và triết học Tây phương, rằng triết học Ðông phương có tính tôn giáo; nó quan tâm cực độ và đồng đều tới cả cứu độ lẫn tri thức, trong khi đó triết học Tây phương có tính thế tục, được nhiều người xem gần như một chọn lựa thay cho tôn giáo. Nhận xét ấy không hoàn toàn đúng.
Tinh thần vô phân biệt
Tại Tây phương, Kitô giáo, Do Thái giáo, đạo Islam (Hồi giáo) ảnh hưởng sâu xa lên tư tưởng triết học, và triết học của tôn giáo tiếp tục đóng vai trò quan trọng, làm thành một khía cạnh của triết học. Tại Ðông phương, dù triết học được xem là vấn đề quan trọng đối với thực tiễn và tâm linh, nhưng quá trình lập thuyếtù và tranh luận có thể được xem xét trong tự thân nó, hoàn toàn tách biệt với bất cứ nội hàm tôn giáo nào. Người ta cũng có thể xuyên tạc hoặc làm méo mó tư tưởng Ðông phương để rút tỉa cho ra sự phân biệt giữa tôn giáo và triết học: thí dụ, Phật giáo xem con đường chế ngự khổ não có liên quan tới sự am hiểu các chân lý nền tảng của cuộc đời.
Vấn đề không phải là tách biệt học thuyết tôn giáo ở mé bên này và tư tưởng thế tục ở mé bên kia – nghĩa là xem xét nó bằng việc sử dụng lối phân biệt ấy, mang tính cách Tây phương và hoàn toàn không thích đáng, đặc biệt khi xem xét tư tưởng Ðông phương. Bởi thế với số trang khiêm tốn của cuốn sách này, chúng tôi dành phần lớn nội dung để giới thiệu các lãnh vực của triết học Tây phương. Chúng tôi xin để phần nói tới triết học Ðông phương với những nỗ lực thăm dò và trình bày nó cho cuốn Ðại cương triết học Ðông phương trong tủ sách triết học tổng quát này.
VII. Các truyền thống tư tưởng Tây phương
Thế hệ đi sau được xây dựng trên các ý tưởng và các giá trị của thế hệ đi trước, đôi khi bằng cách bác bỏ và thay đổi chúng, đôi khi bằng cách chấp thuận và triển khai chúng. Dù theo cách nào đi nữa, ngôn ngữ và tư tưởng của bạn không thể không chịu ảnh hưởng của các thế hệ tư tưởng gia Tây phương, trong trường hợp thí dụ bạn đang sống ở châu Âu hay châu Mỹ, hoặc chỉ sang du học hoặc thường xuyên đọc sách báo của họ. Sự nhận biết di sản của loài người, cái là nền tảng cho các tư tưởng và các định chế, cùng sự nhạy cảm đối với cách thức chúng tăng trưởng và triển khai, giúp chúng ta nhận thức sâu xa nền văn hóa chung của thế giới, nghĩa là của con người – dù nhận thức ấy đưa tới hành động chỉ trích hoặc chấp nhận toàn bộ ý tưởng ấy hay chỉ chấp nhận đôi chút.
Hai cách tiếp cận
Ta có thể tiếp cận triết học từ một số góc cạnh khác nhau. Cách thứ nhất là liệt kê các vấn đề chính có liên quan tới triết học; kế đó, nhìn vào cách thức được các triết gia khác nhau sử dụng để xem xét chúng. Cách thứ hai là nghiên cứu tổng quát lịch sử. So với các cách khác, cách thứ hai được đa số tán thưởng, vì nó vén lộ những quan tâm của mỗi thời kỳ lịch sử. Nó cho thấy cách thức mà các tiền giả định của các nhà tư tưởng phát sinh từ bối cảnh xã hội cá biệt của mỗi người.
Hơn nữa, cách thứ hai còn vén lộ một điều khác. Mỗi thế hệ, dù đang ở trên quá trình tiến triển về triết học, trong khi học hỏi các thế hệ đi trước mình, vẫn thường có nhiều cơ hội khác nhau để quay trở lại quá khứ gần gũi hoặc xa xăm nhằm thẩm tra thêm nhiều lần các nan đề chính, tức là các vấn nạn nan giải, tới lui đều khó giải quyết.
Trong lời dẫn vào cuốn sách tổng quan triết học Tây phương của mình có nhan đề Philosophy and philosophers (Triết học và triết gia), Penguin, 1994, trang ix, John Shand viết:
"Tính cách đặc biệt của triết học là quay trở lại nơi bắt đầu các chủ đề khác biệt nhất, rồi thăm dò và thẩm tra chúng sâu xa hơn. Triết học thảo luận các vấn đề lâu dài, phát sinh từ đời sống tư tưởng. Một trong những nét hấp dẫn nhất của triết học là nó nối kết các nhà tư tưởng sống trong những thời đại tư tưởng khác nhau và tìm thấy nơi họ các đề tài có cơ sở giống nhau."
Hiểu theo ý nghĩa nào đó, ý kiến trên có thể làm ta nãn lòng. Tại sao tới hôm nay, một sinh viên ngồi trong một giảng đường nào đó ở Việt Nam vẫn phải học về Plato ở mãi thời cổ đại Hi Lạp? Tại sao lại mất thì giờ cho một học trình khảo sát các chủ đề mà phần chủ yếu của chúng bị khống chế bởi những kẻ đã chết từ lâu như Plato, Aristotle, Descartes, Hume? Và tại sao lại phải mày mò tìm đọc các văn bản thế kỷ 20 này của Russell, Ryle hoặc Ayer, mà nội dung của chúng chỉ xoáy sâu vào các đề tài cũ rích?
Không có đề tài nào lỗi thời
Ðiều quan trọng là nhận ra, như Shand tiếp tục trình bày trong cuốn sách đáng đọc của ông, rằng viễn cảnh lịch sử vén lên nhiều "tầng tầng lớp lớp" tư tưởng vẫn còn thích đáng đối với các vấn đề đang được triết học quan tâm. Quan điểm của Plato về xã hội hoặc cách thức am hiểu của ông về bản tính của thực tại; ý tưởng của Aristotle về quan hệ nhân quả; cuộc truy lùng của Descartes về cái chắc chắn – hết thảy những đề tài ấy vẫn còn thích đáng dù ngày nay thuật ngữ được dùng để trình bày chúng không còn giống với thuật ngữ của các triết gia ngày xưa.
Triết học dò sâu vào các tiền giả định của bất cứ lập luận nào hoặc bất cứ lời tuyên bố nào. Nó nhìn bối cảnh của các giả định, kế đó, nó lục lọi nền tảng xuất phát của từng cái cùng nội hàm của nó và các luận cứ biện minh cho nóù. Các đề tài về chân lý không bao giờ bị giới hạn về phương diện lịch sử. Cái hình như có giá trị ở một thời điểm nhất định vì đã được chứng minh bằng những luận cứ chắc nịch vẫn có thể không đúng theo ý nghĩa tuyệt đối hoặc thường trực. Thế nhưng, ngược lại, ta không nên gạt bỏ một luận cử chỉ vì nó được đề ra trong một bối cảnh văn hóa với ngôn ngữ được sử dụng rất khác với bối cảnh văn hóa và lối nói của chúng ta ngày nay.
Phải sai mới đúng
Karl Popper (1902-1994), một triết gia thế kỷ 20, trong khi khảo sát cách khoa học đạt được tiến bộ, đã nhấn mạnh sự kiện rằng một lý thuyết nếu quả thật có tính khoa học, nó phải có khả năng bị chứng minh là sai hoặc lệch. Người ta đạt được tiến bộ không phải nhờ vào việc bố trí một chuỗi liên tục các thí nghiệm thành công và chứng minh lý thuyết ấy đúng, nhưng do bởi việc tìm thấy các thí dụ ở những chỗ nó thất bại. Sự thất bại của một lý thuyết làm sản sinh lý thuyết kế tiếp – và đối với triết học, quá trình thành tựu cũng y hệt như thế. Mỗi thế hệ triết gia thẩm tra các ý tưởng đã được kiến lập, và bằng việc chứng minh những giới hạn của chúng, họ có khả năng đề ra những thuyết mới.
Ðối với kẻ khao khát có được câu trả lời dứt khoát, triết học dường như tỏ ra nó là nguồn chán nãn triền miên. Ðối với kẻ triền miên đặt câu hỏi, sẵn sàng xem xét và sửa đổi quan điểm của mình, triết học là nguồn hấp dẫn và là phương tiện mài dũa khả năng phê phán.
Cuộc sống là đối tượng chính
Suốt nửa đầu thế kỷ 20, phần lớn triết học được giảng dạy tại Anh và Bắc Mỹ bị khống chế bởi một quan điểm có tính hạn chế chức năng của nó. Tại đó, hầu như triết học không đưa ra nội dung của chính nó. Người ta xem công tác chủ yếu của nó là phân tích và làm sáng tỏ những phát biểu được các trường phái khác lập thành hoặc do đại chúng đưa ra. Triết học tại các xứ nói tiếng Anh thời ấy không có bước nhảy vọt của trực giác để có thể mở ra các viễn cảnh và các triển vọng mới, ngoại trừ việc tìm kiếm một vai trò hỗ trợ càng chi tiết càng tốt.
Một viễn cảnh lịch sử và một thoáng nhìn phạm vi của các đề tài được đề cập suốt trong nhiều thế kỷ sẽ cho thấy triết học có khả năng to lớn hơn nhiều trong ứng phó của nó và rộng rãi hơn nhiều trong thẩm tra của nó.
Phạm vi truyền thống của các chủ đề khảo sát bao gồm các bộ môn như siêu hình học, về bản tính của thực tại; tri thức luận, lý thuyết về nhận thức; đạo đức học; triết học tôn giáo, triết học tâm trí, triết học khoa học, triết học chính trị, triết học nghệ thuật. Hết thảy những bộ môn ấy đều xứng đáng chứng minh cho cung cách ứng xử rộng rãi hơn của các công trình triết học và sự thích đáng của triết học đối với cuộc sống đời thường.
Ðã tới lúc con người có thể nghĩ tới triết học như một hành động chiếm lĩnh các không gian còn lại trong tri thức của loài người sau khi khoa học, xã hội học, tâm lý học, kinh tế học – như chúng ta hiểu chúng cho tới hôm nay – nói cho chúng ta biết những gì mà chúng có thể nói về thế giới.
Lợi thế của người đi sau
Không khác bọt biển trên đầu sóng, cuốn sách nhỏ này được đưa đẩy bởi toàn bộ chuyển động của tư tưởng kéo dài từ ít nhất 2.500 năm trước. Trong khi hiểu rõ những giới hạn trên bề mặt và dưới chiều sâu của mình, chúng tôi chỉ dám trình bày về thực tại của triền sóng ấy và chiều hướng tổng quát của con nước bên dưới. Một xã hội không triết học sẽ bị cắt đứt với cội rễ của nó. Sống trong một xã hội như thế, con người, đặc biệt các bạn trẻ, hẳn phải bắt đầu từ thời hồng hoang và phải lặp đi lặp lại nhiều lần, để chọn lọc các giá trị cho mình và để am hiểu chính mình.
Với triết học, quá trình chọn lọc ấy được bộc lộ trong các viễn cảnh luận lý và lịch sử của nó. Với triết học, bạn ở tư thế thượng phong; bạn bắt đầu nhìn vấn đề với lợi thế vì bản thân bạn đã có thể thu thập ít nhiều kiến thức từ kho tàng minh triết được tích lũy bởi một số nhà tư tưởng kiệt xuất trong cả hai nền văn hóa Tây phương lẫn Ðông phương, và chúng ngày càng được giao lưu nhiều hơn để lập thành nền văn hóa chung của con người trong thiên niên kỷ thứ ba.
VIII. Có đáng để chịu chết không?
Trong lịch sử triết học Tây phương, nếu Thales là triết gia đầu tiên vì ông bắt đầu nhìn ra thế giới thì Socrates là triết gia và là hiền giả vĩ đại nhất vì ông bắt đầu nhìn vào con người. Ông là kẻ đầu tiên tiêu diệt ý thức huyền thoại và xây dựng lý tính.
Với Socrates, cỏ cây, sông núi, trăng sao và toàn bộ thế giới bên ngoài đều không quí trọng bằng con người. Nỗ lực của con người nhằm tự biết mình là quan trọng nhất. "Người ơi, hãy tự biết mình". Sau đó mới tới việc tìm biết những vấn đề của con người. Thứ nhất: tôi là ai. Rồi mới tới thứ hai: con người là gì và con người đi về đâu. Và đối tượng đứng hàng thứ ba của tri thức có lẽ là các vấn đề tự nhiên, v.v.
Tìm chân lý hoặc chết
Thế rồi, phút giây đặc biệt và cảm động nhất trong lịch sử triết học Tây phương là khi Socrates chấp nhận cái chết và nâng chén thuốc độc lên môi vào một buổi sáng năm 399 trước CN. Biến cố ấy được ghi lại bởi Plato, kẻ tôn kính sư phụ mình tới độ về sau, ông trình bày các luận cứ triết học của mình theo hình thức những cuộc đối thoại hùng hồn trong đó Socrates là kẻ phát ngôn và là nhân vật chủ chốt.
Bị cáo buộc có thái độ cũng như có những lời giảng dạy vừa bất kính thần linh vừa làm hư hoại thanh niên thành quốc Athens, những kẻ hằng ngày lắng nghe ông, tôn kính ông làm đấng hiền giả đại sư phụ qua động thái của ông liên tục chủ động thách thức các niềm tin của người khác và các qui ước của xã hội. Tòa án Athens kết án tử hình Socrates. Theo Plato, Socrates từ khước lời đề nghị chọn một hình phạt khác thay thế; ông cũng không chịu bỏ trốn khỏi Athens để sang sống bình yên tại một thành phố khác, cũng tọa lạc trong không gian văn hóa Hi Lạp. Chấp nhận cái chết để chứng minh cho niềm tin và tư tưởng triết học của mình, Socrates sẵn sàng uống chén thuốc độc hành quyết.
Tự do tư tưởng là tối thượng
Ðối với Plato, lý trí và tự do của cá nhân được quyền sống phù hợp với bản thân mình, chiếm địa vị cao hơn trật tự xã hội và chính trị. Trong công cuộc truy tầm chân lý, Socrates không buông bỏ quyền tự do của ông hoặc chấp nhận một hình thức thỏa hiệp nào đó, dù dưới mắt nhìn phán xét của chính quyền, công cuộc ấy mang tính khuynh đảo và nguy hiểm. Thật thế, như về sau Plato mô tả chi tiết trong cuốn Republic, sự công bình và các định chế của quốc gia phải đặt căn bản trên lý trí, và nhà cầm quyền nên là các triết gia, những kẻ có ý muốn và có khả năng áp dụng lý trí với thái độ khách quan và vô vị lợi.
Ðối với Socrates, triết gia không tiến hành công việc của mình bên lề cuộc sống mà ở ngay tâm điểm của nó. Việc thôi không còn tra vấn và thách thức các khái niệm đã được người đời chấp nhận là một hành động không đáng cho ta nghĩ tới. Socrates chấp nhận thà chết còn hơn nộp phạt hoặc đi khỏi Athens. Và Plato, người thanh niên môn sinh kính yêu ông, đã cho hậu thế biết rõ vị sư phụ của mình là một người trầm tĩnh, có lý tính và có phẩm cách tuyệt đối.
Cái giá của việc làm triết học
Sau Socrates với chén thuốc độc, ta còn có dịp đọc thấy rất nhiều triết gia tiếp tục noi theo tấm gương xác tín và dũng cảm ông. Suốt hơn hai ngàn năm qua, không thiếu các nhà tư tưởng bị đày biệt xứ, bỏ mình trên giàn hỏa, trên đài xử giảo hoặc trong ngục tối hay trại tập trung vì công trình triết học của họ.
Xưa nay, triết học có thể là môn học làm nãn lòng. Ðôi khi nó có vẻ khô khan và xa rời cuộc sống. Ðôi khi nó đóng vai trò người hầu hẻ hạ của ngữ học với nhiệm vụ duy nhâát là làm sáng tỏ những thuật ngữ được các môn học khác sử dụng, còn bản thân nó chẳng cống hiến được điều gì chắc chắn cho kho tàng tri thức của loài người. Ðôi khi có những triết gia cứ nhất định ghi ghi chép chép tư tưởng của mình bằng một bút pháp mù mờ thay vì viết ra một cách sáng sủa. Nhưng từ thời này sang thời khác, dường như người ta cứ bị thôi thúc, quyến dụ phải nêu vấn nạn, phải đặt câu hỏi rằng:
"Có đúng vậy không? Tại sao người ta không ổn định một lần cho xong các tư tưởng, các giá trị đã được thiết lập, dù chỉ là ổn định ở bề mặt? Tại sao lại làm cho cuộc sống thêm phần rắc rối và khó khăn bằng cách cứ phải triền miên phân tích? Hoặc trong trường hợp các triết gia bị thảm sát, đặc biệt Socrates, chén thuốc độc ấy có đáng để uống không?"
Khởi sự tìm hiểu triết học, cũng là lúc tâm trí của bạn bắt đầu vương vấn các câu hỏi ấy, và chính bạn là người sẽ tự trả lời cho mình. Dù năng nổ hay thụ động, con đường đi vào triết học chỉ mở một chiều thẳng tới phía trước. Và đi trên con đường đó nghĩa là bạn trở thành kẻ duy nhất giúp mình tự định nghĩa thực tại của bản thân và cuộc đời.