Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
645
123.242.110
 
Bảy lời của Đức Maria & đời sống linh mục -2
Vũ Duy Thống

KINH MAGNIFICAT

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng

vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-55)

 

Lời thứ tư của Đức Maria là một lời đặc biệt.

Đặc biệt trước hết vì vị trí trọng yếu của lời này trong toàn bộ bảy lời. Nếu ba lời trước được xem như những thái cử với mình, với bề trên, với bằng hữu và ba lời sau sẽ được nhìn như những hình thái trách vụ, thì lời thứ tư không theo những cách nhìn ấy, mà là lời trung tâm mang tính định hướng. Đặc trong hình kim tự tháp với triền đi lên gồm ba lời và triền đi xuống gồm ba lời còn lại thì lời thứ tư chính là chóp đỉnh bao trùm và toả sáng trên tất cả những lời của Đức Maria. Độc đáo.

Đặc biệt sau nữa là lời này vượt xa các lời khác của Đức Maria về độ dài và nội dung. Lời thứ tư dài nhất trong bảy lời và nội dung phong phú nhất bao gồm nhiều góc nhìn đến độ kinh ngạc, từ góc nhìn cá nhân tới góc nhìn tập thể, từ góc nhìn lịch sử đến góc nhìn nội tâm, từ góc nhìn mầu nhiệm tới góc nhìn sứ vụ. Bao la.

 

Nhưng cũng đặc biệt không kém vì lời này mang một hình thức của một bài ca đầy dẫy tâm tình, đồng thời cũng chan hoà sức mạnh của Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã nên Đấng cứu độ của mọi người và của mỗi người. Vì thế lời thứ tư này đã được phụng vụ các giờ kinh chọn làm thánh ca tin mừng Magnificat cho giờ kinh chiều hằng ngày.

 

Và còn đặc biệt hơn nữa vì Đức Maria vốn nhẹ nhàng kiệm lời đối với sứ vụ của Chúa Giêsu, lại bỗng dưng qua lời thứ tư này, trở thành người mạnh mẽ nhiều lời để công bố cuộc cách mạng lịch sử mà Chúa Giêsu đã khởi đầu khi đến với thế giới trong kiếp sống nhân sinh.

 

Chính vì những nét đặc biệt nêu trên, ta sẽ tuần tự đi tìm ý nghĩa của lời này qua các nhãn giới thay đổi kiểu ống kính vạn hoa, để xem Đức Maria đã ngợi khen ra sao trong lời kinh Magnificat, và khởi đi từ gợi hứng đó, thử xem linh mục có thể ngợi khen Chúa thế nào bằng cuộc sống nhất là bằng sứ vụ của mình.

 

I. KINH MAGNIFICAT CỦA ĐỨC MARIA

 

1. Nhã giới mầu nhiệm

 

Được xướng lên tại ngưỡng cửa nhà Dacaria, ngay trước mặt Êlisabét trong ngày thăm viếng, kinh Magnificat hình thức là một lời hồi đáp của Đức Maria đối với lời tán tụng của bà chị họ thân yêu.

 

Nếu trong lời bà Êlisabét, yếu tố hạnh phúc và niềm vui mừng được lặp đi lặp lại như điệp khúc, thì trong lời Đức Maria cả hai yếu tố ấy cũng hiện diện, vừa được hoạ lại vừa được nêu cao để trở thành chủ điểm của bài ca bất hủ. Các nhà chú giải đã có công nêu lên những nét tương đương giữa lời khen ngợi của bà Êlisabét với lời ca tụng trong sách Giuđít 13, 18-19 với những yếu tố song đối về hạnh phúc, nhưng hạnh phúc trong bài kinh Magnificat là hạnh phúc đặc biệt chỉ có người trong cuộc dấn thân mới có thể cảm nghiệm để cao hứng thốt lên. Khi lòng tràn đầy thì miệng tự nhiên thoát ra, có kìm lại cũng chẳng được. Khi ý tứ đã sống từ thuở nào thì chẳng cần sắp xếp, bài kinh rất tự nhiên hình thành. Đức Maria cảm nhận hoàn toàn hồng ân Thiên Chúa trong ngày truyền tin và ôm ấp sâu kín niềm hạnh phúc khôn vời ấy để giờ này trước lời cảm kích của bà chị họ, đã cảm tác hát lên bài kinh ca ngợi ngợp choáng niềm vui và hạnh phúc. Như nước vỡ bờ, lời kinh tuôn chảy.

Nếu trong lời bà Êlisabét, nơi nhận lời tán tụng là cô em yêu dấu thì ngược lại trong lời thứ tư này, địa chỉ kinh ngợi khen của Đức Maria lại là chính Thiên Chúa Đấng cứu độ, Đấng Toàn Năng. Gián tiếp Mẹ như điều chỉnh lại hướng nhìn của bà chị họ từ lúc gặp gỡ đến giờ cứ dán vào Mẹ, và trực tiếp Mẹ như công khai hoá hướng nhìn của mình vào Thiên Chúa. Bằng ngôn ngữ thường ngày, ta có thể diễn nghĩa tâm tình của Đức Maria: Không dám đâu, em chỉ là người được Chúa chúc phúc thôi, thay vì ca ngợi em, chị hãy hợp ý với em để ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chúc phúc cho em, chị nhá.

 

Nhưng nội dung của kinh Magnificat chính là tâm tình reo vui của Đức Maria ngợi khen tình thương của Thiên Chúa đã đậu lại trên cuộc đời Mẹ cách mầu nhiệm và quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ những điều lạ lùng. “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn”.

 

Chỉ cần rảo nhanh một lần qua bốn câu đầu bài kinh, người ta cũng dễ dàng nhận ra tính chủ vị không thể lẫn vào đâu được, chủ từ là ngôi thứ nhất số ít như khẳng định lại một lần nữa rằng: đơn giản tôi là Maria, tôi hát lên bài kinh này với tất cả con người của tôi, linh hồn tôi phần thâm sâu nhất, thần trí tôi phần cao tôn nhất, phận đời tôi phần sát sườn nhất, tình cảm tôi giờ vui mừng nhất, và đường đời tôi giờ hạnh phúc nhất, tất cả là một thể duy nhất và chính từ thể duy nhất ấy, tôi cất lời ngợi khen. Chính tính chủ vị này là yếu tố độc sáng phân biệt bài kinh với lời của bà Êlisabét, và cũng cho thấy bà Êlisabét, dẫu đầy tràn Thánh Thần cũng không thể hát được như vậy. “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”.

Trước khi đặt mình vào những cương vị khác trong tương lai, Đức Maria biết rất rõ về mình trong tương quan với Thiên Chúa như trong buổi truyền tin Mẹ đã từng khẳng định: chỉ là phận nữ tỳ hèn mọn. Nhưng chính khi khiêm nhường biết mình chỉ có thế, Đức Maria đã cất lời ngợi khen tình thương Thiên Chúa trong những nét chân xác nhất. Nghe trong lời ngợi khen có tâm sự sâu lắng: tôi xác đất vật hèn, chẳng có công lênh gì, chỉ nhờ Chúa đoái thương nhìn tới tôi mới được hạnh phúc, hạnh phúc hôm nay và hạnh phúc muôn đời. Tôi chỉ là nữ tỳ chân lấm tay bùn một nắng hai sương tối tăm phận số, có chi đâu có chi đâu, nhưng chỉ vì tình thương Chúa bao bọc, từ nay hết mọi đời tôi mới được ca ngợi là diễm phúc trong chức vụ cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa. Tất cả là hồng ân và tình thương, vì thế lời đầu tiên của tôi xin dâng để ngợi khen tình thương ấy, một tình thương đã cúi xuống để thi ân cứu độ. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.

 

Nhưng Đấng cứu độ giàu lòng thương xót cũng là Thiên Chúa toàn năng sáng tạo và thống trị hoàn vũ muôn loài. Trong lịch sử dân thánh, Ngài đã chọn gọi những người cộng tác để thực thi chương trình cứu độ. Mỗi lần chọn gọi là một lần thi thố quyền năng và mỗi lần con người đáp trả tích cực lại là một mặt khác của quyền năng ấy, vì Thiên Chúa có ép buộc ai bao giờ, dẫu Ngài quyền năng không gì không làm được. Ngài đề nghị và người ta có hoàn toàn tự do để chấp nhận hay không, thế nên mỗi lời đáp xin vâng phải được xem như một phép lạ của quyền năng Thiên Chúa. Nghe trong lời ngợi khen của Đức Maria có cảm nhận thật tình: để là hòn đất cất lên là bụt, phận tôi hòn đất bẩm sinh giữa chợ đời nhân gian, nhưng hôm nay tôi được là gì cho ai thì đó là do quyền năng của Chúa cất nhắc đó. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn”.

 

Danh xưng Thiên Chúa, Đấng cứu độ và Đấng Toàn Năng được nêu lên trong kinh ngợi khen chính là những danh xưng tiêu biểu nói lên tình thương và hoạt động giải cứu của Thiên Chúa đối với con người, thế nên nêu lên những danh xưng ấy trong cùng một tâm tình, kinh Magnificat cũng là lời tuyên xưng đức tin của Đức Maria trong những nét xác quyết đậm sâu nhất và cũng đi liền với kinh nghiệm bản thân nhất. Bà Êlisabét trong lời ca tụng ghi nhận Mẹ hạnh phúc vì Mẹ đã tin, còn ở đây, chừng như Mẹ muốn đi xa hơn để xác định: Mẹ còn tin hơn nữa và Mẹ đã hạnh phúc, dù sau này những điều kiện của hạnh phúc có khác. Nghe trong hình thức ngợi khen có âm vang nội dung tuyên tín: tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng hằng thương xót.

 

2. Nhãn giới sứ vụ

 

Không dừng lại trong nhãn giới mầu nhiệm, kinh Magnificat còn dẫn người ta bước sang nhãn giới sứ vụ, là một nhãn giới vô cùng mới mẻ và mạnh mẽ trong cuộc đời của Đức Maria.

 

Thực vậy, nếu với nhãn giới mầu nhiệm, Đức Maria ở đỉnh cao vui mừng đối chiếu đời mình với hồng ân Thiên Chúa, để đã cảm nghiệm đầy đủ trong ngày truyền tin giờ được lặp lại giữa khi thăm viếng, làm thành lời kinh ngợi khen ngất ngây hạnh phúc, thì với nhãn giới sứ vụ, một chân trời mới đã mở ra, rất mới mẻ bất ngờ. Không chỉ là hồng ân thủ đắc cá nhân nữa mà là hồng ân Chúa ban cho mọi người, không chỉ là tình thương dành cho một người nữa mà là tình thương cho tất cả những ai có lòng kính sợ Thiên Chúa, không chỉ là lòng lân mẫn thể hiện trong một tình huống đặc biệt mà còn là lòng lân mẫn muôn đời vẫn còn có và sẽ có biểu tỏ mãi mãi ngàn đời. “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.

 

Là thiếu nữ Sion tiêu biểu, Đức Maria chắc không lạ gì với lời ngợi ca tình thương Chúa qua các Thánh Vịnh cầu nguyện tụng ca, nhưng với cảm xúc cá nhân đầy tràn sóng sánh trong trường hợp ơn gọi đặc biệt, Mẹ thấy đời mình không còn thuộc về riêng mình nữa, mà từ nay đã thuộc về Đấng mình đang cưu mang để sẵn sàng liên kết với sứ vụ của Đấng ấy trên hành trình cứu độ. Đây là một cảm thức mới mẻ khiến Đức Maria không thể không nhắc đến trong bài kinh ngợi khen. Có lẽ khi Mẹ biết thai nhi Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong dạ bà Êlisabét, Mẹ cũng nhận ra sứ vụ mới mẻ của mình là dấn thân trên đường sứ vụ mà đem Chúa cùng với ơn cứu độ của Người đến cho tất cả mọi người. Mỗi người là một cành hoa cùng đem về đây góp gió; mỗi người là một phương tiện hữu hiệu Chúa dùng để lòng thương xót của Người đến được với tha nhân.

 

Sứ vụ ấy thật mới mẻ và, theo ngôn từ của kinh Magnificat, sứ vụ ấy được thực hiện một cách mạnh mẽ không khoan nhượng bằng những hành động cụ thể của cánh tay Thiên Chúa.

 

Đó là cánh tay tràn đầy sức mạnh được vận dụng để “dẹp tan phường lòng trí kiêu căng, để hạ bệ những ai quyền thế, và để đuổi người giàu có ra về trắng tay”. Những hình ảnh và ngôn từ mạnh mẽ này có thể được mượn trong truyền thống Thánh Kinh, nhưng một khi được thốt lên qua môi miệng Đức Maria “phận nữ tỳ hèn mọn” giữa lòng bài kinh phấn khởi ngợi khen, đã để lại một ấn tượng mạnh mẽ vô cùng. Thực ra trong Cựu Ước không thiếu gì trường hợp Thiên Chúa biểu dương sức hùng qua chinh chiến hoặc qua chinh phạt để trừ gian diệt ác, để trừng phạt sự bất trung, để sửa trị sự bất chính trong đời sống của dân lòng chai dạ đá, nhưng hạ bệ tam đầu chế đầu sỏ “danh lợi thú” như ở đây quả là mạnh mẽ cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến gần trong không gian và đã gần đến trong thời gian. Không chần chừ nữa, nếu Thiên Chúa đã chính thức khai mở một triều đại mới đua nở hoa công lý, thì tất cả những ai là tôi trung tớ nữ hèn mọn của Người cũng phải chung tay gánh vác giang sơn bằng một tinh thần mới với một nhiệt tình mới. Cánh tay Thiên Chúa hùng mạnh không gì không làm được, nhưng Người lại thích gọi đến sự góp công góp sức của những cánh tay nhân loại, để niềm vui chiến thắng vốn là hồng ân Người ban, một cách nào đó cũng được hiểu rộng như là chiến công của con người.

 

Nhưng cánh tay Thiên Chúa cũng còn là cánh tay yêu thương băng bó chữa lành vỗ về nâng đỡ dắt dìu thi ân, cách chung cho những ai biết kính sợ Chúa, nhưng cách riêng ưu tiên cho những người khố rách áo ôm thấp cổ bé miệng bị gạt sang bên lề xã hội. Như nước chảy về chỗ trũng, tình thương Thiên Chúa sẽ cúi xuống với những kẻ thấp hèn để đổ đầy đời sống họ những phúc lộc. “Người khiêm nhường Chúa ra tay nâng dậy, kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư”. Đây là điểm mạnh trong kinh Magnificat, cũng là điểm mạnh trong toàn bộ Phúc Âm Luca. Khi để cho những người dưới đáy xã hội có một chỗ đứng bề thế trong tình thương cứu độ, và tự xếp mình ngang hàng với họ, Đức Maria đã thể hiện mình là một người khiêm nhường trắng tay (anawim) chỉ còn biết trông chờ Thiên Chúa là nguồn hy vọng duy nhất trong đời, và đồng thời theo mạch kinh Magnificat, Mẹ trở thành người tiên phong dấn bước trong sứ vụ bảo vệ những người cùng khốn.

 

Như thế, trong nhãn giới sứ vụ, kinh Magnificat cho thấy chân dung của một vì Thiên Chúa sẵn lòng đứng ra bênh vực người yếu thế cô thân để trả lại cho họ phẩm giá làm người, và phương thế hành động của vì Thiên Chúa ấy là thích chọn những thụ tạo yếu đuối thấp hèn để thi thố quyền năng và tình thương. Đồng thời trong bài kinh ngợi khen cũng phác vẽ lên những tâm tình sứ vụ của Đức Maria và tranh thủ sự đồng tình của mọi kẻ tin, để những gì được nhen nhúm lên trong lòng sẽ tìm được sức mạnh thực thi: bênh người kính sợ; đỡ kẻ khiêm nhường; thương người nghèo khổ.

 

3. Nhãn giới hiệp thông

 

Bài kinh ngợi khen được kết thúc bằng nhãn giới hiệp thông chan hòa ký ức về tình đất nước con người tan chảy trong lòng thương xót của Chúa. Thật khéo nếu kết thúc là lúc khép lại, nhưng thật đẹp nếu kết thúc lại là dịp mở ra. Kinh Magnificat có một kết thúc vừa khéo vừa đẹp. Khéo vì cô đọng lại trên niềm tin vào lòng người thương xót Chúa muôn đời tồn tại và đẹp vì mở ra nhãn giới hiệp thông mênh mông trong đó Chúa trở nên Đấng cứu độ cho mọi người.

 

Hiệp thông dễ thấy nhất là hiệp thông thời gian lịch sử trong lòng thương xót của Chúa. Trong Cựu Ước, bao giờ cũng thế, khi nói “Thiên Chúa nhớ lại” thì thánh ký không chỉ nói đến một ký ức nhạy bén qua đó Chúa nhận ra người này người khác trong mối liên hệ tình thương, mà hơn thế, còn gợi lại những hành động can thiệp đáp cứu Chúa thực hiện để giải thoát người ta khỏi tình trạng quẫn bách sầu đau hoặc đem lại sự sống cho loài người. Khi Đức Maria nói lên việc “Chúa nhớ lại lòng thương xót”, Mẹ đã vận dụng tất cả những yếu tố lịch sử hành động quá khứ, đem vào hiệp thông trong hiện tại lời kinh mà mở ra hy vọng lòng thương xót đến muôn đời.

 

Hiệp thông rõ hơn là hiệp thông những biến cố thuộc về lịch sử dân thánh trong cùng một lời hứa cứu độ. Không phải vô tình mà danh xưng tổ phụ Abraham và danh xưng Israel tôi tớ Chúa được nêu lên trong phần cuối lời kinh ngợi khen, mà chắc chắn có dụng ý một mặt minh chứng cho thấy Thiên Chúa là Đấng trung tín, đã hứa là luôn luôn ghi nhớ và đã hứa là mãi mãi giữ lời, và mặt khác cũng minh họa cho thấy những tên tuổi thừa hưởng lời hứa cứu độ không chỉ là những cá nhân cộng lại, mà là cả một đại gia đình hàng hàng lớp lớp từ thế hệ cha ông đến những thế hệ con cháu sau này. Đức Maria không đứng bên ngoài nhưng có mặt bên trong đại gia đình được Thiên Chúa yêu thương độ trì này để tình hiệp thông được lung linh tỏa sáng.

 

Có thể nói đến một góc nhìn hiệp thông nữa là hiệp thông hiện thực sinh động của tất cả những ai cùng Đức Maria hát lên kinh ngợi khen này, bất luận hôm nay họ là ai và làm gì trong cuộc đời gắn liền với vận mạng cứu độ. Nếu trong nhãn giới mầu nhiệm Đức Maria hát kinh ngợi khen bằng cảm nghiệm cá nhân ở ngôi thứ nhất số ít “của tôi”, thì trong nhãn giới hiệp thông, Mẹ đã nhẹ nhàng chuyển sang cảm thức tập thể ở ngôi thứ nhất số nhiều “của chúng ta”, là một cách tế nhị mở lối hiệp thông và kín đáo gọi mời mọi người hãy bước tới hòa lời và hòa mình trong tâm tình ngợi khen Chúa. Chính trong nhãn giới này, người ta nghĩ có thể lúc này là điệp khúc năm xưa của Đức Maria và bà Êlisabét cùng chung tiếng và ngàn sau cả nhân loại cùng góp lời. Hiệp thông kêu gọi hiệp thông, để với hiệp thông mới, hiệp thông đã có sẽ được củng cố lớn mạnh thêm.

 

Cũng ghi nhận rằng trong bài ca không có một lời cầu khẩn nào, chỉ là những tiếng ngợi khen tiếp nối ngợi khen, vì hai động lực minh nhiên: của cá nhân Đức Maria “vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” và của tập thể nhân loại “vì Chúa nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”. Như vậy, kinh Magnificat đích thực là kinh ngợi khen kiểu mẫu của mọi người dâng lên Thiên Chúa.

 

II. KINH MAGNIFICAT TRONG ĐỜI LINH MỤC

 

Với ba nhãn giới mầu nhiệm, sứ vụ và hiệp thông như ba góc nhìn của ống kính vạn hoa được vận dụng để đi vào kinh Magnificat, cũng là lời thứ tư của Đức Maria, chúng ta đã thấy sáng lên ý nghĩa của tâm tình ngợi khen: ngợi khen không chỉ bằng lời, mà còn bằng cả một đời hiến dâng; ngợi khen không chỉ cá nhân, mà còn mở rộng đến dân Chúa này; ngợi khen cất tiếng hôm nay, sẽ còn vang mãi tương lại cuộc đời. Ngợi khen nào hãy hòa lời, linh mục của Chúa người người ngợi khen.

 

1. Ngợi khen bằng đời sống linh mục đích thực

 

Tất nhiên, trọn đời linh mục là “một bài hát kinh ca ngợi”, mượn lời một ca khúc về Đức Maria của Lm. Dao Kim, nhưng kinh ca ngợi ấy được hát lên thế nào mới là điều đáng nói. Có kinh ca ngợi được hát lên với niềm vui tươi phấn khởi dấu hiệu của một đời hiến dâng hạnh phúc; có kinh ca ngợi cũng được hát đấy, nhưng buồn ngủ dấu hiệu của đời linh mục gặp khó khăn; và cũng có kinh ca ngợi chỉ được hát cách hời hợt bộc lộ niềm hiến dâng không trọn vẹn. Mỗi cách hát mỗi cuộc đời và chỉ có cách hát với cả tâm tình mới là lời ngợi khen đích thực của người linh mục đích thực.

 

Dựa xa gần trên kinh Magnificat của Đức Maria, linh mục có thể ngợi khen Chúa trước hết bằng đời sống thống nhất của mình. Nếu Đức Maria đã ngợi khen Chúa với linh hồn với lý trí với phận số với ơn gọi, thì mỗi linh mục cũng theo đường ấy để thực hiện khúc ngợi khen đời mình. Đời sống là một thể thống nhất. Khi lý trí đã nhận thức đầy đủ, tình cảm đã thuận chiều mộ mến thì đời sống cũng phải thể hiện khít khao trùng khớp. Ngược lại, khi lý trí không vuông tròn vai trò nhận thức và tình cảm lại theo chiều ngược lại thì đừng mong có sự thống nhất đời sống. Trong căn tính, linh mục hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, nếu vì lý do gì hữu ý hay vô tình, linh mục không để mình thuộc về Chúa Kitô một cách trọn vẹn nữa, thì rõ ràng không còn sự thống nhất trong đời hiến dâng. Làm việc có thể bán thời, nhưng thuộc về Chúa Kitô phải là toàn thời; làm gì mỏi mệt cũng phải nghỉ ngơi, nhưng làm linh mục mỏi mệt không được rời xa căn tính của mình. Nghỉ làm việc tay chân năm phút có thể bù đắp lại, nhưng nghỉ làm linh mục năm phút có khi đã sa chân vướng mắc không còn vớt vát được nữa, nếu không muốn nói đã không còn là linh mục nữa rồi.

 

Cách đây hơn 20 năm tại Học viện Công giáo Lyon có cuộc hội thảo về sự thống nhât đời sống linh mục, trong đó có câu hỏi buồn cười là “khi ngủ, linh mục có còn là linh mục hay không?” và cuộc thảo luận đã dẫn đến tranh cãi khó phân định trả lời. Cuối cùng hội nghị đã dừng lại với phát biểu của một linh mục triết gia: nếu là người khi ngủ tôi vẫn là người, thì là linh mục tận căn thuộc về Đức Kitô khi ngủ tôi vẫn là linh mục thuộc về Đức Kitô. Có thể bên ngoài linh mục ngủ cũng ngáy kho kho như bao người khác, nhưng bên trong căn tính thường hằng, linh mục ngủ cũng vẫn là linh mục như khi cử hành các bí tích, có điều là khi thực hiện hành vi bí tích, linh mục ở dạng hiện thể của vị thế “in personna Christi Capitis”, còn khi ngủ ở dạng khả thể thôi. Lý thuyết là thế, nhưng thực hành chỉ muốn nói: làm gì thì linh mục luôn luôn nhớ mình là linh mục có đời sống thống nhất không thể phân chia. Làm được như thế, đời sống linh mục đã trở thành bài hát ngợi khen Chúa.

 

Nhưng lời ngợi khen đích thực của đời sống linh mục còn được thoát tỏa ra qua cách sống hạnh phúc thường ngày. Hạnh phúc không phải là nguyên nhân nhưng đúng ra là hiệu quả nhãn tiền của đời sống thống nhất. Càng thấy mình hạnh phúc bao nhiêu trong đời linh mục, càng là dấu cho thấy sự thống nhất đời sống nơi mình khít khao bấy nhiêu; ngược lại, càng thấy mình chao đảo bao nhiêu giữa trách vụ hàng ngày, càng là dấu cho thấy những kẽ hở trong đời sống hiến dâng của mình bấy nhiêu. Một chiếc xe gắn máy nổ ngọt ga vọt chạy êm nhiều khi không phải là xe mới, mà là xe được cân chỉnh gió và ga một cách hoàn hảo. Những phút tĩnh lặng hồi tâm cuối ngày có thể được xem như sự cân chỉnh những thể hiện thống nhất của đời sống linh mục.

 

Xin đừng quên linh đạo của linh mục triều là nên thánh bằng các việc mục vụ. Càng chu toàn những việc mục vụ với ý thức cao nhất, và càng chăm chút sao cho những việc ấy mang lại kết quả nơi dân Chúa, càng cảm nhận được hạnh phúc linh thiêng, cho dẫu thân xác có thấm mệt và sức khỏe có hao mòn. Xét cho cùng, hạnh phúc của đời linh mục xem ra không có gì phức tạp, và việc nên thánh của linh mục cũng chẳng có gì cầu kỳ, chỉ là điểm đến tất yếu của lẽ hiến dâng khi linh mục quan tâm xây dựng đời sống thống nhất trung thành với căn tính của mình. Bởi lẽ, càng nỗ lực thuộc về Chúa Kitô trọn vẹn bao nhiêu, linh mục càng được thánh hóa để trở nên đồng hình đồng dạng với Người bấy nhiêu.

 

Đời sống linh mục đích thực với việc thống nhất đời sống, như thế, là một lời ngợi khen đích thực dâng lên Thiên Chúa. Có đời sống nội tâm thống nhất, linh mục thể hiện là một linh mục đích thực; Thiếu đời sống nội tâm thống nhất, linh mục không còn chứng minh được tính đích thực nơi mình nữa. Vì thế, hiện diện một linh mục đích thực là một hồng ân to lớn và ngược lại, vắng bóng một linh mục đích thực chính lại là “một thảm họa không tên” (Madeleine Delbrêl).

 

2. Ngợi khen bằng đời sống linh mục gương mẫu

 

Lời ngợi khen Thiên Chúa, bên trong linh mục ca lên bằng niềm hạnh phúc với bản lĩnh của cuộc sống thống nhất, nhưng bên ngoài linh mục thể hiện cách cụ thể qua những gương mẫu đời sống. Ở châu Á, cách riêng tại Việt Nam, linh mục trong mắt nhìn của người đương thời phải là hiện thân của những giá trị cao vượt vừa để lại những dấu ấn thánh thiêng tiêu biểu khiến người ngoài có thể nhận ra, vừa chan hòa những hành vi nhân sinh khiến người khác có thể nhìn vào. Chính ở góc nhìn nhạy cảm này, mỗi linh mục âm thầm hát lên lời kinh ngợi khen Chúa.

 

người của linh thánh, khi linh mục chu toàn những nhiệm vụ đời sống thiêng liêng một cách sốt sắng và chu tất những việc mục vụ hằng ngày một cách mau mắn sẵn sàng, và đã để lại cho giáo dân một hình mẫu yêu thương phục vụ không thể quên được, lúc ấy linh mục đang ngợi khen Chúa bằng đời sống gương mẫu của mình đó. Có thể đối với cá nhân linh mục, chỉ là những việc phải làm của người đầy tớ vô dụng theo quan điểm Phúc Âm, nhưng đối với giáo dân, lại là những điểm sáng thiết yếu thiết thân và thiết thực đi liền với sự hiện diện của linh mục tai một nơi. Có bà cụ tự hào kể với chúng tôi rằng: cha sở chúng con đạo đức lắm, chiều nào khi chúng con đi lễ cũng thấy cha ngồi giải tội và khi tan lễ chúng con về thấy cha vẫn một mình trong nhà thờ đọc sách nguyện sách kinh. Rõ ràng chỉ là chu toàn phận vụ, nhưng đã trở thành gương sáng có sức tỏa chiếu đem lại niềm vui cho người xung quanh.

 

Xây dựng một công trình kiến trúc, phải cần nhiều yếu tố tốn kém, nhưng xây dựng một công trình tâm hồn, nhiều khi chỉ cần một gương sáng khơi lên. Cha thánh Gioan Vianey, bổn mạng các cha sở, hồi mới được bổ nhiệm làm cha sở họ Ars, đã chọn cho mình giải pháp cho đến hôm nay vẫn chưa mất tính thời sự, đó là cải hóa các tâm hồn bằng gương sáng đạo đức của mình. Kiên trì ngài thực hiện. Kiên tâm ngài khuyên nhủ. Kiên nhẫn ngài chờ đợi. Và phép lạ đã xảy ra. Giáo dân tại chỗ hoán cải, giáo dân nơi khác tìm đến xin ơn thánh hóa, và kết cục, giáo xứ trở thành điểm hẹn đón nhận hồng ân Chúa. Cha sở họ Ars như thế đã ngợi khen Chúa bằng đời sống gương mẫu đạo đức. Trong một chuyến hành hương, được đích thân cầu nguyện trong ngôi giáo đường họ Ars và được ngồi vào tòa giải tội năm xưa của thánh nhân, chúng tôi đã hiểu đời sống đạo đức của một linh mục có tầm ảnh hưởng thế nào trên nếp sống của giáo xứ.

 

Nhưng linh mục cũng còn là người của nhân sinh, nên nhất cử nhất động của linh mục, từ những cách cư xử với giáo dân đến những mối giao tiếp với người ngoài, tất cả đều để lại những âm hưởng đa chiều. Đời sống linh mục có trở thành lời ngợi khen Chúa hay không xem ra tùy thuộc rất nhiều vào những biểu tỏ cụ thể này. Lời nói lung lay gương bày lôi kéo. Một linh mục giảng hay mà không minh họa được những điều hay bằng cuộc sống của mình, thì lời giảng sẽ thành phản cảm mất tác dụng liền, nếu không muốn nói là phản chứng với những hậu quả khó lường. Một linh mục giảng còn nhiều khó khăn nhưng đời sống lại bao dung bác ái chan hòa, đã trở thành một tượng đàisống cho mọi kẻ trong người ngoài quý mến. Có lẽ cũng vì muốn nhấn mạnh đến khía cạnh nêu gương này trong đời sống linh mục mà trong nghi lễ phong chức, giám mục đã để lại lời khuyên: “Hương thơm đời sống các con phải nên niềm vui cho các tín hữu Đức Kitô, để lời nói và gương lành của các con xây dựng Nhà Thiên Chúa là Hội Thánh”.

 

Đức Hồng Y Fulton Sheen thuật lại câu chuyện sau. Tại Nam Tư, trong lần giúp lễ, một chú bé đã vô ý xẩy tay đánh rơi làm vỡ chiếc lọ nước, vị linh mục đang dâng lễ đã tức giận tất chú bé và quát mắng: cút xéo ngay và đừng bao giờ trở lại đây nữa. Quả nhiên, chú bé uất ức ấy không bao giờ trở lại nữa. Lớn lên chú trở thành một lãnh tụ độc tài nổi tiếng của nước Nam Tư. Chú tên là Tito. Còn tôi, khi đang là chú giúp lễ 7 tuổi ở nhà thờ chính tòa, tôi cũng làm rơi vỡ chiếc lọ đựng rượu lễ và run lên sợ hãi. Thế nhưng sau lễ, Đức giám mục gọi tôi lại và hỏi: lớn lên con sẽ đi học trường nào? Rồi ngài tiếp: Đã bao giờ con nghe nói đến Louvain chưa? Tôi rụt rè trả lời: Chưa. Ngài dõi nhìn xa xăm tủm tỉm cười: Vậy con hãy về thưa với mẹ là lớn lên con sẽ vào học tại Louvain nhé! Không ngờ lớn lên, tôi đã xin đi tu, và sau khi chịu chức linh mục 2 năm, tôi đã được giám mục chỉ định đi học tại Louvain. Cũng một sự kiện, một lỗi lầm như nhau, tôi đã đi về hướng này, còn ông Tito đi về hướng ngược lại.

 

3. Ngợi khen bằng đời sống sứ vụ nhiệt thành

 

Với đời sống mẫu gương về những giá trị hoặc linh thánh hoặc nhân sinh, linh mục đã trở nên dụ ngôn sống cho người thời đại vốn không thích những thầy dạy cho bằng những chứng nhân; nhưng chính khi những giá trị kia biến thành động lực thúc đẩy dấn thân bênh vực bảo vệ và cứu giúp những con người đói nghèo cụ thể tại địa bàn mình đảm nhiệm, đời sống linh mục mới trở thành lời ngợi khen mạnh mẽ thấm đẫm tinh thần sứ vụ của Hội Thánh. Nếu qua nhãn giới sứ vụ của kinh Magnificat, lời ngợi khen đã nêu cao hình ảnh Chúa là Đấng giơ tay biểu dương sức mạnh đối với những kẻ kiêu căng tự phụ, những ai ỷ vào quyền thế và những người cậy vào của cải; đồng thời tô đậm dung mạo Chúa là Đấng cúi xuống bênh đỡ kẻ khiêm nhường và yêu thương người nghèo khổ, thì để trở nên lời ngợi khen Chúa, sứ vụ đời linh mục cũng không thể đi ra ngoài đường lối ấy.

 

Có điều là đường lối Chúa thật khác lạ. Luôn luôn sức mạnh Chúa được biểu dương bằng những phương tiện xem ra yếu đuối tối tăm. Người hạ bệ kẻ quyền thế bằng cách nâng cao kẻ khiêm nhường và Người xua đuổi kẻ giàu sang bằng việc ban của cải cho kẻ nghèo khó. Chính khi kẻ khiêm nhường được nâng cao, người quyền thế sẽ phải đỏ mặt rút lui; và chính khi người nghèo được vực dậy trong cuộc sống giàu sang thì người nghĩ mình giàu có sẽ phải tía tai bỗng thấy mình có hơn ai đâu để mà kênh kiệu. Chúa quyền năng vô biên và cũng giàu lòng thương xót.

 

Như vậy, nhãn giới sứ vụ của kinh ngợi khen mở ra cho linh mục một khả năng tưởng như không thể, nhưng thực ra lại rất gần gũi với những người tại địa phương mình trách nhiệm. Nước Việt Nam hiện nay đã khấm khá hơn xưa, nhưng vẫn còn bị xếp trong hàng ngũ những nước đang trên đường phát triển; như thế, người nghèo còn đầy dẫy, nghèo mọi mặt: nghèo vật chất nghèo tinh thần, nghèo công bình nghèo lẽ phải, nghèo chân lý nghèo tình thương, nghèo danh dự nghèo phẩm giá. những lãnh vực nghèo ấy như trận địa đợi chờ linh mục bước tới. Ngày xưa, khi thánh Laurensô phó tế bán hết của cải Hội Thánh đem phân phát cho người nghèo rồi dẫn họ tới trước hoàng đế với lời giới thiệu “đây là tài sản của Hội Thánh”, ngài đã xây dựng những nốt nhạc khởi đầu của bài kinh ngợi khen Chúa. Ngày nay, khi nêu cao lập trường dứt khoát đứng về phía người nghèo, Giáo Hội tiếp tục phát triển giai điệu truyền thống cho bài ca ngợi khen Chúa được cất hát lên. Và chính ikhi mỗi người tông đồ biết chia sẻ cuộc sống với người nghèo, bài Magnificat mới được hát lên trọn vẹn.

 

Thập niên gần đây, người ta nhắc nhiều đến tên tuổi của Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã cống hiến cả đời để hát kinh ngợi khen Chúa giữa người nghèo bằng những việc thiết thực như chăm sóc những kẻ vô gia cư hấp hối sao cho, theo ngôn ngữ của mẹ, “những người sống như con thú được chết như thiên thần”. Và mới đây thôi, vào dịp ra đi vĩnh viễn ngày 20.10.08, người ta lại xôn xao về một tên tuổi nữa luôn sát cánh bên người nghèo, đó là soeur Emmanuelle. Ngày an táng soeur (ở Callian vùng Var), Đức HY André Vignt-Trois ở Nhà thờ Đức Bà Paris đã vinh danh soeur như tông đồ của người nghèo, và tạp chí Pèlerin trong một số ngoại lệ cũng cho chạy tựa đề lớn: Emmanuelle, soeur universelle.

 

Trở lại trường hợp đời linh mục phục vụ tại giáo xứ, có lẽ chẳng cần nhiều lời, các cha biết rõ hơn ai những người nghèo trong giáo xứ của mình. Nhưng từ biết trong sổ nhân danh đến biết để quan tâm chia sẻ giúp đỡ khoảng cách cần được thu hẹp lại. Vẫn biết người nghèo lúc nào mà chả có, thời Chúa Gie6su cũng vậy cơ mà, giúp hết mọi người cũng như đem chiếu trải chợ làm sao thực hiện được, và giả như thực hiện được thì cũng như hạt muối bỏ bể thôi. Vâng đúng thế, nhưng quan trọng là bắt đầu. Chia sẻ cùng cảm nghĩ này, nhiều giáo xứ có phòng phát thuốc cho người đau yếu, có quỹ học bổng dành cho những học sinh triển vọng, có quỹ tương trợ giú vốn làm ăn, có tổ chức bác ái Vinh Sơn chẳng hạn đi thăm nom những người neo đơn, có nhóm ve chai tình nguyện góp gió thành bão, và có vô vàn sáng kiến mục vụ khác nhỏ thôi, nhưng cũng góp phần dệt thành bài kinh ngợi khen Chúa giữa cuộc sống đời thường.

 

Tôi biết một cha già, từ lâu vẫn âm thầm trích phần trăm trong số bổng lễ đã làm để dành cho mục đích từ thiện. Cha bảo: mình không còn sức để đến với người nghèo thì ít ra mình cũng có chút tấm lòng. Nghe ngài chia sẻ bỗng thấy ấm lòng, bất giác nghĩ giá mình và các linh mục khác cũng thực hiện được nhẹ nhàng như thế. Tôi cũng vô cùng cảm kích trước sự nhiệt thành trong sứ vụ của một linh mục trẻ hiện đang coi sóc một giáo xứ vùng XM, khi hàng tháng ngài vẫn đứng ra nhận trách nhiệm trợ cấp đời sống cho 1430 trẻ em khiếm thị, có ít gì đâu, mỗi tháng phải có cả trăm triệu mới đủ chi dùng. Cả chục năm nay ngài vẫn kiên trì bám trụ. Có lần hỏi ngài xem có mỏi mệt không, ngài trả lời rằng: làm việc cho người nghèo mệt lắm, nhưng không làm việc cho họ xem ra lại mệt hơn. Trộm nghĩ, bài ca ngợi khen Chúa qua sứ vụ nơi linh mục này đã đi lên cao trào khiến nhiều người có thể nhận ra. Hình như báo Saigòn giải phóng số ra ngày Chúa nhật 9/11 có một bài phóng sự khá đẹp về chân dung của vị mục tử thiết tha với sứ vụ này.

 

Tóm lại, lời thứ tư của Đức Maria trong kinh Magnificat là một lời nói lên mầu nhiệm, sứ vụ và hiệp thông của người phục vụ đã trở nên lời kinh ngợi khen một đời. Xin cho lời ấy mỗi chiều được cất lên trong kinh nguyện, cũng thấm đẫm những sự kiện hoàn tất trong ngày, để hòa chung với Đức Maria và mọi tâm hồn thiện chí, linh mục hát lên ngợi khen Chúa. “Trọn đời con một bài hát kinh ca ngợi, tiếng hát con vang tận tới thiên thu”.

 

MỤC VỤ TÌM KIẾM CHIÊN LẠC

Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không,

cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48)

 

Người thầy cũ của tôi là một cha Dòng Chúa Cứu Thế hiện đang làm quản lý một cộng đoàn nhỏ ven đô. Ngài không nổi nang về kiến thức học vị cho nhiều người biết đến, cũng chẳng giảng hay như các cha cùng dòng cho được bố trí vào xứ lớn, chỉ bình thường như nhiều người khác, được cái là ngài rất thích làm việc âm thầm. Cộng đoàn ngài ở chỗ chưa biết nhiều đến việc đô thị hóa, nên đất cũng còn rộng. Ngài được phép xây dựng một bức tượng lớn nêu cao chân dung Chúa Giêsu đang chơi giỡn với đám nhóc tỳ trông thật vui mắt. Hằng ngày trong khi làm việc quản lý, ngài vẫn mang theo chiếc điện thoại di động thời tiền sử to như cục gạch để nếu có cuộc gọi là bắt máy trả lời ngay.

 

Một lần tôi đang thăm ngài, có cuộc gọi đến, ngài hớn hở reo lên: có việc rồi. Tôi định chào từ giã thì ngài bảo ở lại chơi. Trong thời gian ngồi chơi ấy, tôi nghe có vài bước chân đi lại kèm theo những tiếng xầm xì có thể nghe được: em này hai tháng, em kia ba tháng. Nghe cứ như là chợ cô dâu Đài Loan, nhưng không phải, đó là tuổi đời của những thai nhi. Thì ra ông thầy của tôi bây giờ chọn một công việc mục vụ khá đặc biệt là tìm kiếm những thai nhi bị bỏ rơi đâu đó rồi đem về chôn cất dưới chân tượng đài “Chúa yêu bé thơ”.

 

Có nhóm thiện nguyện làm việc với ngài. Dịp nào có nhiều cuộc gọi đến, ngài vui mừng như tìm được kho báu; nhưng dịp nào không có, ngài than thở: ế rồi. Có lần tôi nói đùa với ngài: nếu ế thì bố phải vui mới đúng, vì người ta đã thôi không tàn sát trẻ thơ nữa. Nhưng ngài trầm ngâm: kiểu này chắc người ta lại vứt bỏ đi chỗ khác rồi. Tội nghiệp. Tội nghiệp. Biết đâu mà tìm. Đó là chuyện về ông thầy cũ của tôi, ông Tobia đời nay: đi tìm các thai nhi bị trục ra đem về trang trí tượng đài.

 

Hôm nay, với lời thứ năm của Đức Maria, chúng ta đối diện với một cuộc đi tìm đặc biệt, không ly kỳ tình tiết, không có điện thoại di động, nhưng cũng có những bước chân kịch tính đem lại gợý sâu lắng cho công tác mục vụ. Vì thế, hướng chia sẻ là: tìm hiểu lời Đức Maria trong bối cảnh năm xưa, rồi áp dụng lời ấy cho cuộc đời linh mục hôm nay.

 

I. LỜI CỦA ĐỨC MARIA

 

Tuổi mười hai mười ba đối với một trẻ em là một sự kiện quan trọng. Theo tiến trình sinh học tự nhiên, tuổi này khép lại những tháng năm thơ ấu, để chuẩn bị bước vào tuổi lớn hơn với những biến đổi tâm sinh lý khác hơn, cùng với những hạt mầm băn khoăn mơ ước đan xen đang nẩy mầm đợi chờ vươn lên. Hình như Phạm Duy có bài hát “tuổi thần tiên” viết tuổi này với câu mở đầu: “em ước mơ gì tuổi mười hai tuổi mười ba” và khối Anh-Mỹ cũng coi tuổi này như bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc sống làm người gọi là tuổi teen, từ 13 thirteen cho đến 19 nineteen. Nhưng tuổi mười hai mười ba đối với một trẻ em nam người Do Thái không chỉ là một sự kiện thuộc về nhân sinh như trên, mà còn là một biến cố thuộc về nhịp sống tôn giáo. Cứ được mười ba tuổi là em phải tham dự các cử hành phụng tự nơi hội đường và phải chính thức tuân thủ lề luật cha ông trong đó có luật hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ (lễ Vượt Qua, lễ Mùa gặt và lễ Lều), để từ đó em được gọi là bar miswàh “con của điều răn”.

 

Như thế, việc trẻ Giêsu theo cha mẹ hành hưởng lên Giêrusalem dự lễ năm 12 tuổi là một biến cố bình thường theo Do Thái giáo, nhưng đi lễ rồi lại đi lạc đâu đó thì không còn là biến cố nữa mà theo ngôn ngữ hiện hành phải là một sự cố gây xôn xao lo lắng kiếm tìm.

 

1. Từ sự cố trẻ Giêsu ở lại Đền Thờ

 

Vâng, đúng là một sự cố theo cách nhìn truyền thống của người Công Giáo qua ngắm thứ năm phép lần hạt Mân Côi năm sự vui là “Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh”, bởi vì có lạc mất nên mới đi tìm và có đi tìm nên khi gặp mới gọi là tìm được. Sự cố này như thánh Luca mô tả được diễn tiến khá dồn dập qua nhiều bước nối tiếp nhau:

 

Bước một: “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết”. “Đi đến nơi, về đến chốn”, đó là lời khuyên cửa miệng bậc cha mẹ thường dành cho con cái, nhất là con cái tuổi học trò, vì đường đi của chúng không tách bạch như người lớn. Chả thế mà người ta vẫn bảo: đường ngắn nhất là đường chim bay, còn đường dài nhất chính là đường của học trò. Vì học trò ở tuổi đi học lại thích chọc hoa bắt bướm nên tan trường từ hồi mặt trời đứng bóng mãi tới khi xế bóng mới về tới nhà. Xem ra thời nào cũng thế, các bậc phụ huynh biết rất rõ. Thế nhưng việc cậu Giêsu đi lễ Giêrusalem rồi ở lại Giêrusalem không thuộc loại chọc hoa bắt bướm hồn nhiên tuổi học trò, mà xem ra lại đầy ý thức trong sứ vụ lên đền. Có thể nói sự cố không hệ tại việc cậu ở lại Giêrusalem cho bằng việc cậu ở lại mà không cho cha mẹ mình hay biết. Nếu biết trước, Giuse và Maria chắc vẫn lo, nhưng là lo liệu, còn không biết trước như trong trường hợp này thì chỉ có sự lo lắng chiếm ưu thế, nên biến cố này mới được gọi là sự cố và được nhìn như là Giuse và Maria để lạc mất con giữa cuộc hành trình. Kịch tính chính là đây.

 

Bước hai: “Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc”. Độc giả tân tòng tiếp cận lần đầu với trang Tin Mừng thuật lại biến cố này thường có chung một tâm sự không nói ra nhưng khi được gợi ý thì nhao nhao vào cuộc trách móc: sao cậu Giêsu lại vô tư đến thế khi không cho cha mẹ hay biệt việc mình làm? Và sao hai ông bà cũng vô tình đến thế, để lạc con mà mãi sau một ngày đường mới khám phá ra? Tâm sự này rất thật và chừng như cũng rất quen, dựa trên tình yêu lễ phép của con cái đối với cha mẹ va dựa vào tình yêu bổn phận của cha mẹ đối với con cái. Nếu cha mẹ có quyền đòi con cái giải thích sự việc thì con cái cũng có quyền chờ đợi nơi cha mẹ một sự hỗ trợ cần thiết để sự việc được hoàn thành. Đàng này, chả bên nào nói với bên nào, nên nỗi lo khi khám phá mất con lại càng gia tăng khi đôn đáo kiếm tìm, từ đi lại ngược xuôi tới hỏi han không ngớt, từ quan sát trước sau tới nhận diện không ngừng, từ nơi những mối liên hệ gia đình bà con ruột thịt cho đến những mối tương quan bạn bè thân thích. Vô vọng và vì thế, kịch tính của sự cố cũng gia tăng.

 

Bước ba: “Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đề Thờ”. Không biết thánh Luca khi tường thuật biến cố này có quan tâm xây dựng cốt chuyện cho hấp dẫn không, nhưng để cho những sự kiện ngồn ngộn tiếp theo nhau, ngài đã khéo léo dẫn đến hồi kết thúc được xem là có hậu thở phào: cuối cùng thì Giuse và Maria đã gặp lại người con thân yêu. Lạc mất, kiếm tìm và gặp lại là ba động tự chủ đạo của trình thuật này. Không loại trừ tài năng tường thuật của thánh sử, thú thật, người ta cứ bị cuốn hút vào hành trình tìm con của hai ông bà, một phần vì đường xá xa xôi vất vả và một phần khác vì thời gian lâu lắc những ba ngày nên nỗi lo lắng hoang mang kiếm tìm xem lại càng hoang mang lắng lo thêm khi gặp lại, nhất là với lời đối thoại mẹ - con trong đền thờ và việc hai ông bà không hiểu lời trẻ Giêsu nói. Lại thêm một yếu tố kịch tính nữa để biến cố cuối cùng thời thơ ấu của Chúa Giêsu trở thành một sự cố đặc biệt.

 

2. Đến lời đối đáp giữa hai mẹ con

 

Nối kết những bước đi của trình thuật, yếu tố kịch tính đã rõ ràng, nhưng chính trong lời đối thoại mẹ - con phút đầu gặp lại, người ta mới thấy hết những éo le của sự cố đặc biệt này.

 

“Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”. Lời thứ năm của Đức Maria có một vị trí khá lạ. Trước hết, đó là lời Mẹ nói trực tiếp với Chúa Giêsu. Khác với bốn lời trước vốn là những lời trao đổi hoặc chào hỏi, ca khen dành cho những bậc vị vọng bậc trên về tuổi tác hoặc về vị thế và cao nhất là chính Thiên Chúa, còn lời này dẫu là lời thứ năm trong đời nhưng lại là lời đầu tiên Mẹ ngỏ cùng người con thân quý nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, đã từng chia ngọt sẻ bùi trong suốt tuổi thơ hạnh phúc. Tất nhiên suốt tuổi thơ của trẻ Giêsu tại gia đình, Đức Maria đã nhiều lần nói với con mình như lời ru à ơi truyền thống vẫn hát lên vào mùa giáng sinh, như tiếng vỗ về dạy dỗ được diễn tả trong phúc âm ngụy tác, hoặc như những sáng tác văn thơ cách riêng về thời lưu lạc nơi đất khách quê người Ai cập, nhưng trong Phúc Âm chính lục, đây chính là lời duy nhất Đức Maria dành cho trẻ Giêsu, con mình khi vừa tìm gặp trong Đền Thờ, để trở thành lời duy nhất của Mẹ cho con trong suốt hành trình tuổi thơ Giêsu.

 

Đặt trong ngữ cảnh này, đây còn là lời mang nhiều sắc thái tình cảm pha trộn với nhau, trong đó sự cực lòng lo lắng vất vả kiếm tìm được Đức Maria trực tiếp nói ra, còn sự bàng hoàng trách móc lại được độc giả Tin Mừng gián tiếp đoán được trong cung giọng của lời. Cũng dễ hiểu thôi. Nếu gia đình là cung thánh của sự sống, là trường lớp dạy yêu thương và là mái ấm thấm đẫm mẫu gương, thì gia đình thánh Chúa Giêsu Mẹ Maria và thánh Giuse từ đầu đến giờ đã là và vẫn là môi trường thể hiện bậc nhất của những hình ảnh tuyệt vời ấy, thế mà chỉ qua một biến cố được xem là sự cố, những hình ảnh tốt đẹp kia bỗng dưng trở thành khó hiểu. Người trong cuộc gần gũi như Đức Maria và thánh Giuse còn không hiểu nữa là người ngoài cuộc và ở xa trong thời gian như độc giả Thánh Kinh hôm nay.

 

Nhưng lạ hơn cả là hình thức của lời thứ năm được gói ghém trong câu hỏi “tại sao?” vốn là một câu hỏi quay quắt nhất của ngôn ngữ con người, vì người hỏi muốn truy tìm nguyên nhân của sự việc xảy ra và để trả lời người đáp phải đưa ra những bằng chứng phù hợp về suy luận và thuyết phục về tâm tình, để kết quả tối ưu phải là khẩu phục tâm phục mới có thể gọi là đối thoại tích cực. Khi hỏi “Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Đức Maria, như bao cha mẹ trần thế khác, chờ đợi một lời giải thích minh nhiên, nhưng điều không chờ đợi đã đến.

“Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Nói theo ngôn ngữ đường phố, câu trả lời của trẻ Giêsu được coi như một gáo nước lạnh làm tắt đi bao nhiêu nhiệt tình. Độ lạnh đầu tiên chính là tầm vóc của câu nói. Nếu câu hỏi của Đức Maria là lời đầu tiên và duy nhất gửi đến trẻ Giêsu thời thơ ấu, thì câu trả lời cũng là lời đầu tiên và duy nhất của trẻ Giêsu trong thời thơ ấu dành cho cha mẹ Người. Người ta lấy làm lạ là tại sao trẻ Giêsu lại đưa ra câu trả lời xem ra lạnh lùng như thế, nhưng càng lạ bao nhiêu, người ta lại càng thấm thía về thân thế thiên linh của Người, nhất là khi đặt song đối giữa chữ “cha con” viết thường trong câu hỏi và chữ “Cha con” viết hoa trong câu trả lời. Trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa làm người, là Ngôi Lời nhập thể và ngay từ tuổi thơ, Người vẫn luôn ý thức về thân thế và sứ vụ của mình.

 

Độ lạnh thứ hai được ghi nhận trong nội dung câu trẻ Giêsu nói với cha mẹ trần thế. Nếu đã ghi nhận sự hiện diện của cung giọng trách móc nơi câu hỏi, thì cũng thấy trong câu trả lời có một sự trách móc đáp lại. Đối nhau chan chát. Cha mẹ trách con sao ở lại Đền Thờ không cho cha mẹ hay biết để phải cực lòng tìm kiếm; con trách lại cha mẹ sao phải tìm kiếm con khi con đang ở trong Đền Thờ là nhà Cha con. Ông nói gà bà nói vịt. Câu hỏi nhắc đến Đền Thờ như địa chỉ vật thể nơi hành hương vào dịp lễ, còn câu trả lời lại nói Đền Thờ như nếp nhà thường hằng từ muôn đời Chúa Cha và Chúa Con đồng bản thể ở với nhau. Cũng cần ghi nhận là trong câu trả lời, trẻ Giêsu nói rất mạnh: “Cha mẹ không biết là con cần phải ở nhà của Cha con sao?”. Đây không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên tùy hứng mà chính là một đòi hỏi thuộc về bản tính, cho dẫu đó là bản tính của Con Thiên Chúa làm người.

 

Một độ lạnh khác chính là hình thức của câu trả lời. Thay vì đưa ra lý do giải trình, trẻ Giêsu lại đưa ra một câu hỏi vặn lại, khiến cung giọng đã lạnh lùng bỗng hóa nên lạnh lùng hơn. Lại đối nhau nữa. Câu “tại sao?” hỏi, câu “tại sao?” trả lời. Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh đã có công cho biết cùng với lời nói đầu tiên của trẻ Giêsu cũng còn là hành động đầu tiên của Người. Trước đây Phúc Âm thời thơ ấu chỉ tường thuật trẻ Giêsu ở ngôi thứ ba số ít, trong biến cố này qua câu trả lời, trẻ Giêsu đứng lên trong ngôi thứ nhất số ít như hành vi diễn tả bí mật thâm sâu cuộc đời Người. Trẻ Giêsu biết mình là Con Thiên Chúa và luôn ý thức phải liên kết với ý muốn của Thiên Chúa, được biểu lộ qua sự vâng phục của Người đối với đường lối của Cha mình.

 

3. Để sáng lên lời mời gọi vượt qua

 

Như vậy, phân tích việc Đức Maria tìm được Chúa Giêsu trong Đền Thánh, từ sự cố cho đến lời đối thoại giữa hai mẹ - con, nhất là hữu ý cho thấy sự song đối chan chát giữa câu hỏi của Đức Maria và câu trả lời của trẻ Giêsu, người ta thấy sáng lên những lời mời gọi.

 

Lời mời gọi dễ nhận ra nhất nằm ngay trong tổng thể của biến cố với ba động từ chính yếu: lạc mất, kiếm tìm và gặp lại. Đức Maria đã đảm lĩnh biến cố này với tất cả nhiệt tình của Mẹ.

 

Việc lạc mất trẻ Giêsu, Mẹ không có trách nhiệm, vì trẻ Giêsu tự ý ở lại Đền Thờ mà Mẹ không hay biết. Một người chỉ bị quy trách khi hoàn toàn ý thức và tự do về việc làm của mình, đàng này Đức Maria có biết chi đâu. Không phải trách nhiệm, đồng ý, nhưng có đáng trách? Thực ra, cũng chẳng đáng trách nữa, vì những gì tốt nhất hai ông bà có thể làm được cho trẻ Giêsu thì họ đã làm với cả tâm tình rồi, còn đây chỉ là một sự cố ngoài ý muốn cho cả đôi bên: bên trẻ Giêsu cũng như bên cha mẹ của Người.

 

Việc gặp lại trẻ Giêsu trong Đền Thánh có thể cho ta cảm giác sững sờ không phải vì kết thúc câu chuyện có hậu mà vì tình huống trong đó Đức Maria không vui trọn vẹn. Mủi lòng và chưng hửng. Trong kết thúc dường như đã mở ra một chân trời mới với những băn khoăn thể hiện qua câu hỏi “tại sao?” chưa được trả lời dứt khoát. Tương lai mới biết.

 

Chỉ còn việc kiếm tìm trẻ Giêsu là biểu lộ rõ nhất nhiệt tình của Đức Maria và thánh Giuse. Luôn luôn họ có mặt bên nhau dưới kiểu nói “hai ông bà” làm chủ từ cho những động thái đôn đáo kiếm tìm vất vả ngược xuôi. Ba ngày đường tương đương với ba ngày Chúa Giêsu chịu an táng trong mồ. Nếu nói đến trách nhiệm, thì đây là trách nhiệm cao nhất hai ông bà đã làm để tìm gặp lại người con thân quý, cho dẫu người con ấy như đang lìa xa họ để bước vào đường sứ vụ.

 

Nhiều khi vì muốn đào luyện con người, Thiên Chúa xem ra cũng thử lánh mặt để con người chứng minh bằng việc tìm kiếm, rồi cuối cùng Người cũng cho gặp lại trong Đền Thờ của Người.

 

Lời mời gọi khó nhận ra hơn hẳn lại ẩn chứa trong lời đối đáp của Đức Maria và trẻ Giêsu. Đặt trong tình huống, hình thức “tại sao?” của câu nói đôi bên đã khó quan niệm rồi, huống chi nội dung xa xăm huyền nhiệm với nét nhấn nhá cố tình trong kiểu nói “con cần phải ở trong nhà Cha con” vốn ám chỉ nẻo đường thương khó và việc chu toàn thánh ý. Thảo nào hai ông bà chẳng hiểu mô tê lời trẻ Giêsu nói. Nhưng cũng chính đó cho hay Chúa Giêsu muốn cho người thân của mình sống cách biểu tượng mầu nhiệm thương khó và phục sinh Người sẽ thực hiện, trước khi sống thực sự mầu nhiệm này. Thật ra mọi sự cố trong đời Đức Giêsu đều ít nhiều diễn tả mầu nhiệm trung tâm này.

 

Người ta được mời gọi ở đây để nhận biết rằng mọi biến cố bình thường thậm chí tầm thường tẻ nhạt trong đời mình sẽ có ý nghĩa khi giúp mình sống mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là nỗ lực đi từ cuộc sống này mà vào sự sống của Thiên Chúa.

 

II. LỜI THỨ NĂM VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC

 

Lời thứ năm của Đức Maria đúng là một lời quay quắt se lòng, nhưng sự kiện mà lời này nói lên đúc kết lại chỉ là việc “cha mẹ lo lắng tìm con”. Đúc kết ấy có thể dọi chiếu điều gì trên đời sống linh mục hôm nay, cách riêng trong lãnh vực mục vụ, khi linh mục nhìn lại mình trong bóng dáng của “mục tử lo lắng tìm kiếm những chiên lạc đàn”?

 

1. Sứ mạng tìm kiếm chiên lạc

 

Một trong những chủ đề ít được nói đến cách độc lập trong các tài liệu huấn quyền, mà thường chỉ được nhắc đến như một phụ trương “nhân tiện” khi bàn về nhiệm vụ mục tử, đó là việc chăm sóc mục vụ cách riêng dành cho những người vì lý do này hay lý do khác không còn giữa đạo đầy đủ hoặc không còn gắn bó với Giáo Hội nữa. Có nhiều lý do, nhưng lý do lớn hơn cả được nêu ra là số mục tử còn không đủ để phân bổ chăm sóc những chiên trong đàn, lấy đâu ra nhân sự lo toan ch những chiên lạc đàn. Giữ người ở lại, ai giữ người đi. Phục vụ 99 con chiên đang lớn mạnh đã bở hơi tai và choán hết thời giờ, lấy đâu ra sức mà lặn lội kiếm tìm một con chiên lạc. Nghe co1s vẻ thuận lý trên quan điểm thực tế, nhưng xem ra không ổn trên quan điểm thực chất của việc mục vụ và trên quan điểm linh đạo của linh mục triều là nên thánh bằng việc mục vụ. Vì thế dưới ánh sáng lời thứ năm của Đức Maria, xin được cùng với quý cah nhận diện lại tầm vóc đúng mức của việc tìm kiếm chiên lạc này.

 

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội rồi mới có hoạt động truyền giáo, mà vì có sứ mạng truyền giáo được Đấng Phục Sinh trao phó, nên mới có việc thành lập Giáo Hội để lên đường thực thi sứ mạng. Điều này quý cha hơn ai hết biết rất rõ. Thuộc về bản chất của Giáo Hội như thế, nên Giáo Hội lúc nào cũng canh cánh bên lòng với sứ vụ truyền giáo của mình, khi thuận tiện hoặc khi không thuận tiện. Bất chấp. Nhưng sứ vụ truyền giáo ngày nay đang cần những định hướng phù hợp. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhạy cảm với thời đại để đưa ra những đường hướng mới a6s1y, gọi là cuộc “tân phúc âm hóa”, nghĩa là nỗ lực truyền giáo bằng một nhiệt tình mới, với những phương tiện mới, nơi những địa chỉ mới. Đồng thời ngài cũng nhấn mạnh đến việc “tái truyền giáo”, trong đó đối tượng không chỉ là lương dân theo truyền thống ngàn xưa, mà còn là những người đã có lúc vào đạo nhưng nay không còn giữ đạo nữa. Bỏ đạo hoặc xa đạo. Một giám mục người Bỉ đã phát biểu rất hay rằng: “truyền giáo hôm nay không chỉ nhắm đến việc rửa tội cho những người hoán cải, mà còn phải quan tâm hoán cải những người đã được rửa tội”. Như thế, chính trong đối tượng truyền giáo của Giáo Hội, người ta gặp thấy những con chiên lạc đàn.

 

Hơn nữa, công bình mà nói về trách nhiệm mục vụ của mục tử tại một địa phương, người ta cũng thấy cần ghi nhận một lối nhìn mới, đó là không coi những người xa rời đức tin trong địa bàn giáo xứ mình coi sóc như những phần tử xa lạ, mà ngược lại nên coi sự hiện diện của họ như thành phần của Giáo Hội địa phương, cho dẫu hôm nay thành phần ấy đang gây nhức nhối khó khăn. Không phải vô tình mà trong thống kê hằng năm của giáo xứ, các cha biết tỷ lệ người công giáo trên số dân, và không quên con số những trường hợp hoán cải trên tổng số thành quả truyền giáo, mà hữu ý để nắm bắt tình hình chung cũng như lượng giá múc quan tâm đặc biệt dành cho những con chiên lạc. Thực ra, trong sứ vụ nhận được ngày lãnh chức thánh, các chiên lạc đã hàm chứa trong cộng đoàn được giám mục trao gởi cho linh mục, nhưng chỉ với bài sai về một nơi nhất định, các chiên lạc tại đấy mới trở thành đối tượng chăm sóc mục vụ đặc biệt này. Gánh không nhẹ đâu.

 

Ngoài ra, hơn lúc nào hết, việc mục vụ cách riêng cho những chiên lạc đàn đang trở thành cấp bách. Tại những nước tiên tiên, cùng với việc đô thị hóa và kỹ nghệ hóa, kéo theo những biến động dân cư, phá vỡ đi cấu trúc gia đình truyền thống làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt đạo đức tại các xứ đạo, từ đó đẩy một số giáo dân đến tình trạng xa đạo dần dần rồi nhạt nhòa tắt ngúm. Tại Việt Nam hôm nay, nơi các giáo xứ lớ nhỏ thuộc thành phố hay thôn quê, người ta đều thấy xuất hiện một số gọi chung là di dân, những người từ nơi khác mà đến. Hoàn cảnh không tiện để họ cho thấy dấu hiệu mình là công giáo, nhưng bất chợt vào dịp Maria chay cưới hỏi mới biết là giáo dân từ nơi khác đến. Chiên lạc ngày nay cũng khó biết lắm, bởi lẽ chiên đâu có điều kiện ổn định để ý thức mình thuộc đàn nào đâu mà nói lạc hay chẳng lạc. Tội nghiệp. Đáng trách hay đáng thương? Họ cần được tìm kiếm hơn là bị rượt chạy có cờ. Hình như “chiên lạc” chỉ là kiểu nói của những thành phần ổn định đối với những thành phần bất ổn thì phải, nhưng coi chừng kiểu nói mang tính “đối chiếu” này trong thực tế có thể dẫn đến tình cảm “đồi đầu” để lại những hậu quả nghiêm trọng.

 

Như vậy, việc tìm kiếm những con chiên lạc không phải là việc làm thêm mà là việc cũng quan yếu như việc chăm sóc những con chiên ngoan đạo. Vì đối tượng truyền giáo không loại trừ họ, vì sứ vụ mục tử tại địa phương không xem thường họ và cũng vì họ cách nào đó ở trong điều kiện sống đáng thương. Xét cho cùng, chiên lạc có thể là vấn đề mục vụ nhức nhối, nhưng tìm kiếm chiên lạc lại là cách giải quyết vấn đề ấy một cách rốt ráo theo Tin Mừng.

 

Khi đang chuẩn bị đề tài này, văn phòng tòa giám mục chuyển đến cho tôi một hồ sơ hôn phối để xác nhận theo yêu cầu của cha quản hạt, vì cha sở mới được thuyên chuyển đến không biết rõ trường hợp nên thẳng tay từ chối. Hồ sơ ấy của một nữ di dân công giáo từ bắc trôi dạt vào nam đi làm kiếm sống. Cũng là một thứ chiên lạc “thời thế thế, thế thời phải thế”, nên mới gặp khó khăn khi xin cử hành lễ cưới, dù chứng chỉ học giáo lý với mộc đỏ khả tín đường hoàng. Tôi ký thuận sau khi xin ý kiến của linh mục chuyên viên, nhưng cứ thấy trĩu nặng tâm sự. Giá mà cha sở kia quan tâm hơn nữa đến mục vụ dành cho chiên lạc và giá mà con chiên lạc này biết quan tâm đến giáo xứ nơi mình làm việc nhiều hơn, có lẽ tình hình sẽ khác. Thêm thiện cảm phía này và bớt mặc cảm phía kia, vấn đề sẽ được giải quyết ổn thỏa, mục tử và con chiên vui vẻ đôi đàng.

 

2. Những bóng dáng chiên lạc hôm nay

 

Mục vụ cho những chiên lạc là cần thiết, nhiều linh mục đã và đang hao mòn sức lực cũng như tâm lực để tìm đến với những thành phần Giáo Hội bị lãng quên này. Trong tổng thể, những chiên lạc đàn cũng là những người nghèo một cách nào đó về phương diện thể hiện đức tin, về phương diện luật đạo hoặc về phương diện chu toàn nhiệm vụ công giáo; nhưng trong thực tế của giáo xứ, có thể nêu lên vài bóng dáng tiêu biểu “khi ít khi nhiều khi nào cũng có”.

 

Phải kể đến trước hết những người trên danh nghĩa là công giáo, nhưng trong đời sống chẳng có gì minh họa cho căn tính của mình. Trong sổ rửa tội, thêm sức và hôn phối, họ đường đường là một giáo dân có quyền xin trích dọc trích ngang lý lịch tôn giáo đầy đủ; nhưng ngoài đời, họ không có gì phân biệt với những người hàng xóm ngoại đạo, thậm chí còn có điều tệ hơn. Như một bà công giáo nọ ở Tp. làm chủ chứa bị chụp hình đăng báo ê mặt, như một bà công giáo khác ở tỉnh đem hai con gái đi bán cái đáng giá nghìn vàng lấy hai chỉ vàng xài chơi, hoặc như một anh công giáo khác trong xứ đạo truyền thống bỗng nảy sinh ước vọng làm giàu chớp nhoáng nên đã dấn mình vào đường dây chuyên chở Maria túy tới lúc bị bắt người nhà mới hay. Kể ra thì nhiều, càng nhắc tới càng cay đắng. Đó là những người phạm tội bị công khai hóa trước dư luận. Mặc kệ tòa trong chỉ Chúa biết, còn mục tử ở tòa ngoài nên coi đây như những con chiên đã lạc xa đàn, dẫu hộ khẩu vẫn còn ở giữa đàn, để có hình thức mục vụ tương hợp.

 

Cũng thuộc dạng này phải kể đến một số người khó khăn hơn, đó là những kẻ chọn lập trường “tin Chúa nhưng không tin Giáo Hội”, tuyên bố mình không tin cha cụ nào cả. Đi tìm nguyên nhân chắc sẽ thấy tiềm ẩn một sự bất mãn hoặc tức thời hoặc thâm căn cố đế di truyền từ đời nọ sang đời kia. Các cha dư biết đây là những chiên lạc khó khuất phục nhất, mà công sức mục tử bỏ ra không thể “tẩy sạch vết bẩn cứng đầu chỉ sau một lần giặt” như kiểu quảng cáo có bột giặt Omo, mà nhiều khi có cảm tưởng phí hoài thời gian công cốc. Thôi thì cứ làm hết cách với những phương tiện có thể. Thời gian là liều thuốc nhiệm mầu, ơn Chúa là nhịp cầu tác động, còn hoạt động mục vụ chỉ là những bước dọn đường. Tới lúc Chúa muốn và bằng cách Chúa muốn, biết đâu những chú chiên lạc này sẽ trở thành những con người mới không biết chừng. Có thể coi thánh Phaolô thuộc loại này, từ bắt đạo hăng say sang giảng đạo cuồng nhiệt. Chúa làm.

 

Có lần đến Thêm sức tại một giáo xứ, tôi thas61y trong số những thanh niên tích cực lo liệu việc chung có một ông đầu bạc hơn tuổi những thanh niên khác. Lấy làm lạ tôi tìm hiểu và được biết quá khứ của ông ấy là một chiên lạc cỡ bự thuộc loại bảo kê đường dài khét tiếng, nhưng chỉ vì “cảm cái tình của cha xứ” không coi thường ông, nên ông quyết tâm giã từ vũ khí đầu quân làm việc thiện, torng đó có việc làm chứng giữa cộng đoàn. Mục vụ với những con chiên lạc là mục vụ thuộc về tâm hồn.

 

Một số những chiên lạc âm thầm hơn và chứng như cũng đông hơn tại Việt Nam, có lẽ là những người vì ngăn trở hôn phối không được thông công đời sống bí tích cộng đoàn, nên mới đầu là ngượng ngập sau là ngại ngùng rồi dần dà khi con cái lớn lên không chịu nổi ánh mắt mang hình viên đạn của những người đồng đạo nên lánh mặt trốn khỏi sinh hoạt của giáo xứ luôn. Như chị A xóm trên lập gia đình với một cán bộ không có hôn phối đạo rồi lặng lẽ rút êm; như anh B xóm dưới ăn cơm trước kẻng bị xử lý đám cưới âm thầm, từ đó cũng sống âm thầm luôn; như chị C xóm nhỏ điêu tàn đã ly dị lại tái hôn mắc cở chẳng muốn gặp ai; như ông D xóm ruộng làm nghề giết mổ, có lẽ vì đọc nhầm câu “gia đình hai con, vợ chồng hạnh phúc” thành “gia đình hai con vợ, chồng hạnh phúc”, nên bê luôn một lúc hai chị em ruột theo kiểu “mía tốt đánh cả cụm”, rồi di dời vào khu ruộng bìa để yên ổn cảnh “một mái nhà lá, ba trái tim vàng” người phay thịt người làm chả gói nem chẳng ai dòm ngó.

 

Những con chiên lạc kiểu này thường được gọi chung là “rối” khó gỡ, nhưng không phải vì không gỡ được nên buông họ cho lối sống “măckênô”. Nếu Giáo Hội mới đây có đưa ra một số hướng dẫn mục vụ cho những trường hợp ly dị tái hôn, thì chẳng phải vì lối sống hợp tan ấy được đánh giá mà chỉ vì muốn chăm chút tìm kiếm và bênh đỡ những con chiên lạc.

 

Cuối cùng không thể không nhắc đến một cách tổng quát những con chiên lạc vì lương tâm yếu đuối hoặc vì hoàn cảnh nên không sống đời công giáo một cách đầy đủ được. Như những người đang gặp thử thách gây chao đảo đức tin lấy một mối lợi vật chất hoặc một vị thế thực dụng; như những người lòng theo Chúa nhưng lại sợ liên lụy với Chúa nên dẫn vào đời mình kiểu sống “đạo đời điên đảo đá đưa đôi đàng”.

 

Những trường hợp này thường gặp nơi những con chiên nhút nhát, nên chỉ cần một bàn tay nhẹ nhàng hoặc một thái độ ân cần là có thể hòa giải được. Xem ra là mục tử, mỗi linh mục cũng cần trang bị thêm kỹ năng tư vấn.

 

3. Những bước chân không mỏi

 

Nêu lên vài dạng thức chiên lạc như trên không với ý định liệt kê cho bằng muốn khơi gợi lại mối quan tâm nơi các mục tử dưới ánh sáng lời thứ năm của Đức Maria khi Mẹ lo lắng đi tìm trẻ lạc. Bảng liệt kê sẽ không bao giờ đầy đủ. Mỗi giáo xứ có hoàn cảnh riêng và mỗi mục tử cũng có hoàn cảnh riêng. Nhưng dù sao phân biệt hạng mục chiên lạc sẽ giúp nhận diện rõ tình hình hơn để từ đó có những phương dược thích hợp hơn. Những người không muốn đến với Chúa thường do mặc cảm tự ti nghĩ mình bị đồng đạo khinh khi nên chẳng muốn để ai gặp mặt: đã coi mợ là gái góa thì mợ chả cần đến quan viên nữa; trong khi những kẻ không chịu tới với Chúa thường do mặc cảm tự tôn, bất mãn với cha sở hoặc giáo xứ rồi bất mãn cả với Chúa luôn: giận cá chém thớt; còn những kẻ không thể tự tìm tới Chúa được lại là do hoàn cảnh và điều kiện sống, đa số họ như đấu bột thầm lặng, chỉ cần một chút men đúng liều đúng lúc là sẽ dậy lên ngoạn mục.

 

Mới đây, tại cuộc hội thảo quốc tế của FABC về “Đời linh mục, một thách đố của thế giới hiện đại” diễn ra tại Đại học Mông Triệu Thailand từ 17-23/11/08 (có 12 linh mục VN thuộc 9 GP tham dự), Đức cha Broderick Pabillo trong bài thuyết trình đã đưa ra 4 gợi ý cụ thể của việc chăm sóc mục vụ, trong đó gợi ý thứ thư là “linh mục phải quan tâm đến những con chiên yếu đau và lo lắng đi tìm những con chiên lạc”. Gợi ý như thế vì trong thế giới hiện đại, số chiên bị lạc có chiều hướng gia tăng và cách chiên đi lạc cũng biến hóa khôn lường. Chiên lạc kiểu truyền thống chỉ lanh quanh đâu đó đến khi đời mỏi mệt sẽ lộ diện, nhưng chiên lạc thời mới lẩn khuất trong những căn hộ cao tầng khó kiếm và cũng khó gặp hơn nhiều. Thời này là thời di động, nên chiên lạc cũng di động theo, nhiều khi ngoài vòng phủ sóng chẳng biết đâu mà lần. Tìm chiên xem ra cũng giống tìm chim của ca dao ngày trước.

 

Tìm kiếm chiên lạc là một việc không dễ. Đúng hơn, đó là một công trình đòi hỏi nhiều công sức và cần đến sự kiên trì nhẫn nại, tìm đi tìm lại tìm mãi không thôi. Ngày xưa Đức Maria đã phải bỏ ra ba ngày ngược xuôi tìm kiếm cuối cùng mới gặp lại được trẻ lạc. Ba ngày ấy đối với Mẹ là thời gain trải ra trong bóng tối kiếm tìm. Ba ngày ấy liên quan đến việc Chúa Giêsu chịu táng trong mồ của biến cố tử nạn lại là thời gian lặng thầm của hy vọng phục sinh. Vì thế việc tìm kiếm chiên lạc dẫu khó khăn nhưng không vô vọng.

 

Một cha là chuyên gia ban phép xức dầu trong những bệnh viện thuộc Quận X có lần chia sẻ rằng sở dĩ ngài gắn bó với việc mục vụ lặng thầm này vì qua đó ngài gặp được rất nhiều chiên lạc. Tình cờ thôi, ngài được mời xức dầu cho một giáo dân quen biết, những thân nhân của bệnh nhân gần đó biết được lại mời ngài xức dầu cho người nhà của họ nữa, rồi như vết dầu loang, người này rỉ tai người khác để cuối cùng ngài có được một tờ sớ đầy đủ chi tiết về thân thế của những thân chủ bí tích xức dầu. Hóa ra đa số đều là những con chiên lạc trôi dạt từ đâu đó về bệnh viện chữa trị thể xác rồi gặp linh mục ấy và có cơ may chữa trị cả tâm hồn luôn, để khi xuất viện sẽ điều chỉnh đời sống trở thành những con chiên mạnh khỏe.

 

Nhưng không phải mọi nỗ lực tìm kiếm chiên lạc đều dẫn đến kết quả. Đã có những nỗ lực đi vào ngõ cụt như một cha sở nọ ở miền tây ra sức gỡ rối cho một trường hợp hôn phối nhập nhằng giữa một bà công giáo và một ông không công giáo, sự việc sắp đến hồi kết thúc với việc ông này xin rửa tội, nhưng con cái biết việc ông này vào đạo sẽ ảnh hưởng đến việc thừa tự đât đại, nên làm đơn tố cáo cha sở về tội quyến rũ người ta theo đạo. Bà vợ công giáo rất buồn và cha sở cũng buồn không kém khi thấy một con chiên đi lạc sắp tìm về lại vụt khỏi tầm tay. Cá hụt, cá lớn. Và cũng không thiếu những nỗ lực kiếm tìm phải nơi vào bế tắc kiểu thánh Phaolô rao giảng về sự phục sinh bị từ chối ở Athène ngày nào, khi mục tử tìm đến chiên lạc và bị chiên lạc từ chối thẳng thừng. Chiên biết mình bị lạc đàn mới có hy vọng được tìm kiếm, chứ chừng nào chiên chưa ý thức về tình trạng xa lạc của mình thì nỗ lực tìm kiếm của mục tử cũng tiêu tan. Không biết lời đối đáp giữa Đức Maria và trẻ Giêsu năm xưa với hình thức câu hỏi “tại sao?” có đủ để vượt qua những kết cục khó hiểu của việc tìm kiếm chiên lạc hôm nay không, nhưng chỉ biết rằng việc “hai ông bà không hiểu lời trẻ Giêsu nói” sẽ nên gương nâng đỡ bước chân tìm kiếm của các mục tử rất nhiều.

 

Tóm lại, lời thứ năm của Đức Maria như vừa suy niệm và gợi ý áp dụng vào sứ vụ mục tử là lời có hình thức quay quắt của câu hỏi “tại sao?” treo trí, nhưng lại là lời cởi mở tấm lòng tạo thành sức mạnh cho những bước chân không mỏi đi tìm chiên lạc. Xin cho lời ấy hôm nay trở nên ý lực sống và nên nguồn lực nâng đỡ sứ vụ của mỗi linh mục chúng ta.

 

MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3)

 

Năm 1979, khi đang là đại chủng sinh đi giúp xứ tại một họ đạo vùng Hốc Môn, tôi đã phải chứng kiến một trường hợp hôn phối cười ra nước mắt. Bên nam là nài ngựa con trưởng của một gia đình không công giáo người địa phương, bên nữ là một thư sinh công giáo ở giáo xứ kề cận. Hình như chỉ vì một chuyến xe ngựa không lấy tiền của chàng nài mà nàng cứ nằng nặc đòi cha mẹ bằng được cho làm đám cưới. Có nhiều khó khăn đến từ những khác biệt khách quan mà cả hai bên phải vượt qua. Nào là khác biệt nghề nghiệp không môn đăng hộ đối gia phong; nào là khác biệt trình độ học vấn khi chàng mới có lớp mười còn nàng đang học lớp mười hai; nào là khác biệt gốc gác chàng người nam lâu đời tại chỗ còn nàng người bắc di cư; ấy là chưa kể yếu tố ngoại hình khi chàng hành nghề đánh xe ngựa dãi dầu sương gió còn nàng thì dù sao cũng ra chiều sạch sẽ. Nhưng khác biệt lớn nhất chính là yếu tố tôn giáo. Chàng từ chối theo công giáo vịn cớ là con trưởng gia đình phải giữ đạo ông bà lo hương hỏa cúng kiếng, còn gia đình nàng một mực ra điều kiện phải vào đạo mới nói chuyện cưới xin.

 

Nghe đâu dùng dằng cả năm trời mới có thể kết thúc. Trời chẳng chịu nắng thì nắng phải chịu trời. Xin chuẩn. Cha sở thụ lý hồ sơ và chuyển lên tòa giám mục. Thuận. Và thế là ngày cưới được tự ý ấn định không đợi đến nhà thờ làm lễ, bởi lẽ bên nam đi coi ngày thầy bảo phải đúng ngày ấy tháng ấy mới hạp, nếu không một người sẽ chết. Gia đình bên nữ thấy ấm ức thiệt thòi, nhưng vì thương con nên đành chịu vậy. Ngày cưới cha sở lánh mặt nên thầy giúp xứ phải làm cascadeur đóng thế vai chính trong pha nguy hiểm này.

 

Sự thể xảy ra là khi đại diện hai bên ngỏ lời, đàng gái bóng gió nói đến sự miễn cưỡng gả con vào hoàn cảnh xuống cấp, còn đàng trai chẳng cần giữ gìn cả nói ngay đến điểm nhạy cảm khác biệt tôn giáo và ra lệnh ở đâu âu đấy từ nay không nhà thờ nhà thánh chi nữa. Thế là cuộc khẩu chiến bùng nổ không ai can ngăn được. Xuýt nữa có người vong mạng. Bên gái giận dữ bỏ về và bên nam chửi thề độc địa. Đám cưới biến thành đám cãi nhau tưng bừng không còn gì để vớt vát nữa. Họ hết rượu tình yêu rồi. Và tôi khi thấy sự thể như thế đành thúc thủ làm chứng nhân câm nín, rồi mắt trước mắt sau lặng lẽ rút êm. Không bị ăn đòn là may lắm rồi. Hú vía!

Hôm nay, chúng ta đối diện với lời thứ sáu của Đức Maria là lời được ngỏ giữa lòng một đám cưới mang tính lễ hội đông vui theo tập tục của người Do Thái. Lời đó mang âm hưởng ở cung bậc nào và gợi ý điều gì trong lãnh vực mục vụ gia đình của các linh mục?

 

I. LỜI “HỌ HẾT RƯỢU RỒI”

 

Năm lời đầu của Đức Maria là những lời được cất lên gắn liền với tuổi thơ và đời sống âm thầm của trẻ Giêsu, được ghi lại qua dạng thức chuyện kể của Phúc Âm theo thánh Luca, nhưng hai lời sau này, lời sáu và lời bảy, lại xuất hiện ở tuổi trưởng thành trong bước đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và chỉ được Phúc Âm thứ tư ghi lại với một bút pháp khác mang tính thần học nhiều hơn và cũng vì thế chừng như khô khan hơn.

 

Ngoài lời Đức Maria chào bà Êlisabét không được ký âm nên ta không biết thế nào, còn lời thứ sáu như được ghi lại, là lời ngắn nhất trong các lời Đức Maria nói lên giữa cuộc sống bên cạnh Ngôi Lời làm người. Lời ngắn nhưng có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau bổ sung cho nhau nêu lên chân dung một người Mẹ tuyệt vời, gắn bó mật thiết với hạnh phúc của các gia đình.

 

1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin

 

Các nhà chú giải cho biết rằng đám cưới theo tập tục Do Thái rình rang lắm, không chỉ là nghi thức theo luật lệ chung mà còn là râu ria thêm thắt tùy theo khả năng mỗi gia đình, giàu làm kép hẹp làm đơn; cũng không thuần túy là lễ cưới mà còn là lễ hội quy tụ đông người cả bà con thân thuộc họ hàng lẫn bạn bè mọi giới. Mỗi đám cưới là một đám tiệc hoành tráng. Có thể hình dung khung cảnh rộn ràng này qua những chỗ nói đến tiệc cưới trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, nhất là chỗ nửa đêm có tiếng loan báo chàng rể đến, khiến người ta nghĩ đám cưới phải kéo dài vài ngày là ít; lại có hoạt cảnh trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, cứ như trong công nghệ đám cưới thời hiện đại với đủ thứ nghi thức diễu hành trai tài gái sắc quyện đi quyện lại thấy mà chóng mặt.

 

“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự”. Thánh sử ghi lại có thể để mở đầu chuyện kể của mình, nhưng từ hai câu vắn vỏi ấy, người ta hiểu đây là một đám tiệc quy tụ đông người, dẫTrong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự”. Thánh sử ghi lại có thể để mở đầu chuyện kể của mình, nhưng từ hai câu vắn vỏi ấy, người ta hiểu đây là một đám tiệc quy tụ đông người, dẫu không biết mối liên hệ thân thích của thánh gia với gia đình nhà đám ra sao. Mẹ, con hiện diện đã đành, nhưng còn các môn đệ Chúa Giêsu nữa, điều này cho thấy có lẽ đám cưới là người nhà của gia đình thánh, nên thiệp mời một người mà kéo cả UB đi cũng là chuyện không khó hiểu. Bữa tiệc không là cơ hội để biểu dương danh thế kết đoàn sức mạnh cho bằng là dịp để biểu lộ một tình thân lấy đông vui làm chủ yếu. Một bài hát đám cưới Việt Nam có câu “lâu thật lâu mới có được một ngày vui” có thể được áp dụng để hiểu hơn đám cưới Cana.

 

Có lẽ vì niềm vui lớn này mà hai nhân vật chính của đám cưới không xuất hiện với những nét đặc tả nổi bật, mà xem ra chỉ như nguyên do để niềm vui được hình thành. Tân nương không được nhắc đến và tân lang cũng chỉ xuất hiện ở phút cuối cùng trong vai phụ đón nhận lời trách móc của người quản tiệc, làm nổi bật tính tương phản trước sau của rượu xoàng rượu ngon thôi.

 

Đây là bữa tiệc của niềm vui quy tụ và cũng là niềm vui chia sẻ, chính vì thế, rượu luôn là tác nhân không thể thiếu được. Nếu ngày nào Thánh Vịnh có hát lên “rượu làm hoan lạc lòng người” thì cũng chỉ muốn diễn tả một thực tế khách quan ai cũng biết và xem ra lại càng đúng hơn với thực tế chủ quan như trường hợp đặc biệt của tiệc cưới Cana. Chính giữa lòng bữa tiệc linh đình ấy, khi niềm vui đang vào cao trào trăm phần trăm dzô dzô ngọt sớt, chẳng ai ngờ có nhiều nhiệt tình tham dự và nhiều nhiệt tình tham gia đến thế, nên rượu với những vò chất chồng như núi cũng phải lở. Không ai hay, kể cả chủ tiệc; không ai để ý, kể cả tân lang. vả lại khi đã ngà ngà hoa mắt rồi, khách có để ý đi nữa cũng chẳng thấy. Thế mà trong số khách hôm ấy có người đã để ý và đã thấy. Người ấy nhẹ nhàng nói với Chúa Giêsu: “họ hết rượu rồi”. Thế thôi.

 

Ở cấp độ bình giải này, lời “họ hết rượu rồi” chỉ là một thông tin của một thực khách đổi trao với một thực khách khác đang hiện diện trong buổi tiệc như lưu ý về tình hình thức uống mà cân đối thế nào cho phù hợp hoặc điều tiết ra sao cho khỏi mất mặt đôi đàng, đàng chủ tiệc không xấu hổ vì thiếu rượu mời làm cho niềm vui đổ bể và đàng khác mời không thòm thèm vì thiếu rượu uống giữa chừng nhâm nhi. Quả là một thông tin cấp bách, nhưng lại chỉ được loan báo cho một người và lại là thông tin chính xác đầy đủ rõ ràng, cứ như bức điện khẩn được hỏa tốc gửi đi, không còn thì giờ để giải thích ngọn nguồn.

 

Nhưng cũng chỉ chừng đó thôi, người ta cũng thấy khách gửi thông tin này phải là khách đặc biệt tinh ý đã ra tay đúng lúc cứu cho đàm cưới thoát được một bàn thua trông thấy và giúp cho mọi thực khách hôm đó duy trì được niềm vui đầy đặn.

 

2. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm

 

Không chỉ có thế, người khách đặc biệt ấy chính là một phụ nữ, một “bà” như lời đáp của Chúa Giêsu đã nêu lên: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Người ta đã nói khá nhiều về chữ “bà” trong cách xưng hô của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana. Cứ như lạnh lùng xa lạ không có mấu chốt liên hệ gì.

 

Thực ra nhiều chỗ khác trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng vẫn dùng chữ này để nói với các phụ nữ một cách tự nhiên như ngôn ngữ giao tiếp, không ai lấy làm lạ và người trong cuộc đối thoại cũng không biểu tỏ một phản ứng mảy may khó chịu nào, như đối với bà Cananêa (Mt 15,28), với thiếu phụ Samaria (Ga 4,21), với người đàn bà ngoại tình (Ga 8,10) và với Maria Magđala (Ga 20,13). Người ta có thể nói nhiều hơn nữa về chữ “bà” này khi đặt cận kề hai biến cố Cana và Canvê, để thấy cho đến phút cuối trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn thích dùng chữ “bà” trong lời gửi gắm người môn đệ thân yêu cho Mẹ mình: “Thưa bà, này là con bà”. Nhưng trong đám cưới Cana, ở cấp độ bình giải này, chúng ta muốn ghi nhận lời “họ hết rượu rồi” có tác giả là một người nữ, mà người nữ ngoài sự tinh ý, lại có tấm lòng trắc ẩn sẵn sàng giúp đỡ người khác.

 

Lòng trắc ẩn thể hiện trước hết qua ánh nhìn ghi nhận. Phải là quán xuyến và kinh nghiệm lắm, người nữ này mới có thể đánh giá tình hình một cách chính xác đến thế. Có thể do nhịp độ phục vụ của các gia nhân bỗng dưng chậm lại; có thể do cung cách mời mọc của chủ tiệc bỗng dưng rời rạc; và cũng có thể do ánh mắt của tân lang hoặc tân nương bỗng dưng u ẩn. Không biết rõ. Chỉ biết rằng ánh nhìn kia khởi đi từ lòng trắc ẩn vốn có, người nữ ấy đã chủ động lo lắng nhanh chân đi cho con mình biết rõ sự việc. Quả là một sáng kiến thược về tấm lòng. Chúa Giêsu có biết sự thể ra thế này không? Không ai dám nói là Người không biết, nhưng cứ như câu trả lời, chừng như Người còn cân nhắc tính phù hợp xem sao. Chưa đến giờ của Người mà. Còn người nữ này nhanh lắm, mắt đã thấy trí đã phán đoán đúng là tâm hồn giục giã không thể chần chừ được. Chần chừ lúc khác có thể làm chín chín chứ chần chừ lúc này là đổ bể không còn vớt vát lại được. Vinh dự của tiệc cưới là đây và vất vả của tiệc cưới cũng là đây. Chuyện một lần chuyện một đời mà.

 

Nhưng lòng trắc ẩn thể hiện rõ nhất trong cách can thiệp kín đáo can đảm và tận tụy của người nữ này. Chỉ là khách mời như bao khách mời khác, nhưng bằng vào cung cách đi đứng nói năng, người khách nữ này đã chứng tỏ bản lĩnh của mình. Có thể bảo rằng bà mua việc, có ai cậy nhờ đâu mà đem thân gánh lấy công việc, mà nào có nhẹ nhàng gì. Giúp nấu nước rửa chén là chuyện của phụ nữ, chứ can gián đến chuyện rượu chè vốn là chuyện của cánh mày râu xem ra là một thách đố nếu không nói là một ngoại lệ trong xã hội Do Thái. Có thể bảo rằng bà vẽ chuyện ăn cơm nhà vác ngà voi hàng tổng, chuyện nhà người ta chứ có phải chuyện nhà mình đâu mà lo quán xuyến, coi chừng làm được việc chẳng được lời cám ơn lại còn bị coi là đạp lên chân người khác. Và cũng có thể bảo rằng bà sao chẳng giữ gìn thể diện, ăn có mời làm có khiến, mình đi ăn cưới thì cứ ăn uống thiệt tình là xong bổn phận, có can dự gì mà lôi người nhà vào chuyện rắc rối. Mặc kệ. Chắc những ý nghĩ ấy chẳng kịp đến với bà đâu, vả lại có đến đi nữa bà cũng chẳng rỗi hơi mà giữ lại trong đầu.

 

Thời giờ lúc này là vàng bạc. Thấy tiệc hết rượu là bà ra tay ngay, nhận lấy trách nhiệm về phần mình. Tội nghiệp đám cưới, hết rượu giữa chừng cũng là một thứ hạnh phúc đứt gánh giữa đường, xúi quẩy lắm, vì thế bà tự mình can đảm vào cuộc, coi việc đám cưới là việc nhà mình và coi chuyện hết rượu là chuyện của chính mình, từ đó bà tận tụy chẳng quản ngại gì nữa, đi lại thoăn thoắt như con thoi giữa một đàng là con mình và đàng khác là các gia nhân, dàn xếp và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, miễn sao mọi người đều vui và thế là bà lại có thể rút lui vào âm thầm như đức tính kín đáo muôn thuở của bà.

 

3. “Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu

 

Lời “họ hết rượu rồi” trong cấp độ khách quan chỉ là lời thông tin của một thực khách tinh ý, và trong cấp độ tình cảm lại là lòng trắc ẩn của trái tim người nữ sẵn sàng gieo mình đảm đang công việc, nhưng chính trong cấp độ đồng hành thiêng liêng, người ta mới thấy lời ấy quả là một lời nhiệm mầu của Mẹ Đức Giêsu mở vào tấm lòng của Đấng Cứu Thế con mình, và đồng thời mở ra ân sủng thánh hóa những giá trị trần đời. Người thực khách tinh ý kia hoặc người nữ đầy lòng trắc ẩn kia không phải là ai khác mà chính là “thân mẫu Chúa Giêsu”.

 

Trong Phúc Âm thứ tư, người ta không nêu đích danh Đức Maria, nhưng bù lại, một danh xưng khác cao trọng đã luôn luôn được nhắc tới, đó là danh xưng “Mẹ Đức Giêsu”. Tất nhiên, đó là chọn lựa Kitô học của thánh sử. Khi hữu ý trình bày tất cả mọi biến cố xoay quanh một trọng tâm duy nhất là Đức Giêsu thì thay thế danh xưng Maria bằng “Mẹ Đức Giêsu” cũng là chuyện dễ hiểu; nhưng điều quan trọng hơn, thánh sử cho thấy một nhãn giới độc đáo là không thể tách rời mầu nhiệm Đức Maria ra khỏi mầu nhiệm Đức Kitô. Do đó, chuyện đám cưới Cana không chỉ là chuyện liên hệ đến Đức Maria thôi, mà đúng ra là liên hệ đến Chúa Giêsu và thân mẫu Người. Nếu khoa thánh mẫu học sau này có đào sâu tư tưởng “Ad Jesum per Mariam” như một linh đạo thì nền tảng và những chi tiết dẫn chứng đã được gặp thấy phong phú trong trình thuật tiệc cưới Cana đây.

 

Không phải vô tình mà chuyện đám cưới đã nhắc đến sự hiện diện của thân mẫu Đức Giêsu trước, rồi mới nói đến sự hiện diện của Đức Giêsu và các môn đệ sau, mà xem ra muốn gợi ý rằng chính sự hiện diện của Đức Maria đã là nguồn gốc của việc đôi tân hôn mời Đức Giêsu và các môn đệ đến. Ghi nhận này cho thấy, tại Cana cũng như nơi những biến cố căn bản của mầu nhiệm Nhập Thể, như phép lần hạt năm sự vui chẳng hạn, Đức Maria luôn là người đi trước để giới thiệu Đấng Cứu Thế cho những người khác.

 

Cũng chẳng vô tình chút nào khi thấy đám cưới hết rượu, Đức Maria không đi tìm rượu ở chỗ khác nhưng lại đến thẳng chỗ con mình, mà muốn nói lên niềm tin tưởng trọn vẹn của Mẹ. Ở trường hợp quẫn bách như thế này, người duy nhất làm thay đổi tình thế không phải là ai khác ngoài Chúa Giêsu, dẫu cho tới lúc đi ăn cưới, Mẹ chưa thấy Chúa Giêsu thực hiện một phép lạ nào ở quê hương Nazarét hay ở nơi đâu khác. Như vậy, tại Cana Đức Maria đã bày tỏ thêm lần nữa tâm tình tín thác đã có từ ba mươi năm trước khi thưa tiếng Fiat xin vâng. Nếu ngày truyền tin, Đức Maria đã tin vào Chúa Giêsu trước khi thấy Người bằng xương bằng thịt, nên đã xin vâng dẫn đến việc thụ thai trinh khiết, thì ở Cana, khi tin tưởng vào quyền năng chưa được tỏ lộ của con mình, Mẹ đã xin vâng mở đường dẫn đến “dấu lạ đầu tiên” của Chúa Giêsu biến nước lã thành rượu ngon, vun bồi lòng tin cho các môn đệ.

 

Như vậy, lời “họ hết rượu rồi” bên ngoài xem ra khô khốc cộc lốc ngắn ngủi, nhưng bên trong lại ẩn chứa cả một kho tàng phong phú của một tấm lòng vừa tuyệt đối tin tưởng vừa chan chứa yêu thương. Tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu dù giờ Người chưa đến và yêu thương tận tụy dành cho đám cưới trong lúc quẫn bách đe dọa hạnh phúc cũng như dành cho các môn đệ đầu tiên mới chân ướt chân ráo dò bước theo Thầy. Chính vì thế lời thứ sáu của Đức Maria “họ hết rượu rồi” dẫn tới lời đáp của Chúa Giêsu “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” để có kết thức là phép lạ ngoạn mục, vẫn được nhắc đến như hình mẫu sự hợp tác của Mẹ Maria vào chưng trình cứu chuộc của con mình, dẫu đó là một sự hợp tác vượt lên vai trò làm mẹ tự nhiên để bước sang lãnh vực của niềm tin và của hy vọng.

 

Ngoài ra, lời thứ sáu này còn được ghi nhớ như một lời chuyển cầu đầy hiệu quả của Đức Maria bên cạnh Chúa Giêsu, để hôm qua ở Cana chúc lành cho một gia đình và hôm nay tiếp tục chúc lành cho mọi gia đình khác biết mình đang trong tình trạng thiếu rượu tình yêu và hạnh phúc. Qua tiệc cưới Cana, với con tim trắc ẩn, với câu nói ân cần và với bàn tay nhân lành, Mẹ đích thực là Mẹ hằng cứu giúp, không ở trên cao mất công cúi xuống, cũng không ở ngoài xa mất giờ đến gần, mà như người trong cuộc tận lực tận tình cứu giúp, để cuộc sống gia đình vốn như nước lã nhạt phèo đã được thánh hóa nên rượu thơm nồng nàn hạnh phúc. Đức Maria chính là Mẹ của các gia đình.

 

II. LỜI THỨ SÁU TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC

 

Lời thứ sáu của Đức Maria như vừa phân tích là lời thì thầm trong khung cảnh của một đám cưới ở khởi đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu, đã nên lời khái quát đỡ nâng những ai dấn bước trong ơn gọi hôn nhân qua cuộc sống gia đình. Vì thế, tại giáo xứ, linh mục sẽ dựa vào gương đức Maria và dưới ánh sáng của trời trắc ẩn này để có được những bước đi cần thiết trong việc mục vụ chăm sóc cho các gia đình.

 

1. Khi cuộc sống gia đình “hết rượu”

 

Theo bài bản, người ta diễn tả gia đình như “một cộng đồng các ngôi vị, được thiết lập từ một người nam và một người nữ kết hợp trong hôn nhân, và từ con cái, vững bền và được xã hội thừa nhận, cùng liên kết với nhau bằng những ràng buộc luân lý, tôn giáo và hợp pháp trong sự tôn trọng, yêu thương, hợp tác và nâng đỡ nhau. Ngoài gia đình nhỏ này, còn có thể có những người khác, thường là ông bà hoặc bà con, họ hàng tùy theo hình thức hoàn cảnh sống của lịch sử” (x. Lm. Augustinô Nguyễn Văn Dụ, Hành trình tiến đến hôn nhân, phần học viên, VPTK/HĐGMVN 2005, tr.94).

 

Còn theo cách thi vị hơn, người ta thường giữ lại những hình ảnh đẹp về gia đình như: gia đình là khuôn nôi sự sống; gia đình là trường lớp dạy yêu thương; gia đình là mái ấm trong đó mọi người chăm chút nêu gương sáng cho nhau.

 

Riêng với Giáo Hội Công giáo, gia đình còn là tế bào của Giáo Hội, là cộng đoàn những nhân chứng Tin Mừng, là Hội Thánh tại gia vì trong gia đình có thừa tác viên của bí tích hôn nhân với tác vụ hướng tới thiện ích đôi bạn và khi đã có con cái thì tác vụ ấy còn nhắm đến thiện ích giáo dục Kitô giáo cho con cái nữa.

Trên lý thuyết, gia đình cao đẹp là thế, nhưng trong thực tế nhiều nơi, gia đình đang gặp áp thấp nhiệt đới có nguy cơ biến thành bão lớn.

 

Ở diện rộng, người ta cảnh báo gia đình đang bị khủng hoảng. Dễ thấy nhất là cấu trúc gia đình truyền thống không còn giữ được nét bền vững nữa nếu không muốn nói là đã bị phá vơthống không còn giữ được nét bền vững nữa nếu không muốn nói là đã bị phá vỡ dần dần. Ai mặn mà với quá khứ cứ thấy tiếc hùi hụi, nhưng những vai chính trong vòng quay cuộc sống lại chẳng gắn bó với hôn nhân bao nhiêu. Chẳng phải nói đâu xa, ngay tại nước Ý là nước ôm trong lòng mình giáo đô Rôma, kinh thành muôn thuở, người ta cũng biết đến sự khủng hoảng này. Hôn nhân cả dân sự lẫn tôn giáo hàng năm giảm thiểu rõ rệt, đang khi đó lại xuất hiện nhiều hình thức hôn phối và gia đình khác lạ, từ hình thức gia đình thực tế tam cùng: cùng ăn cùng ở cùng yêu đương, đồng tính hay sống thử, cho đến hình thức gia đình với chỉ một người cha hay mẹ được pháp luật công nhận. Rồi hôn nhân đổ vỡ cũng gia tăng: ly thân năm 1971 có 12.000 vụ đến 1991 đã lên tới 40.768 vụ; ly dị cũng thế, năm 1991 có 26.368 vụ, đến năm 1994 đã nhảy lên 27.500 vụ. Ở Ý, có 1/4 hôn nhân đổ vỡ (x. Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn, Tình yêu và hôn nhân, Phương Đông, 2008, tr. 155, chú thích 12).

 

Ở diện hẹp hơn, người ta cũng ghi nhận gia đình đang bị khủng bố. Chẳng có ai bên ngoài đặt bom gây thương vong đâu mà chính những người nhà là nhân tố làm thương tổn thể xác và tinh thần cho nhau đấy. Khủng bố trước hết là việc phá thai hay là giết chết mạng sống ở giai đoạn đầu đời. Nhiều nước coi đây là hành vi hợp pháp, nhiều nước đang còn tranh cãi. Tổng thống Barack Obama mới đây cũng ủng hộ hành vi này qua việc ký đạo luật FOCA (Freedom Of Choice Act) quét đi tất cả nỗ lực phò sinh của người công giáo, khiến HĐGM Mỹ phải lo ngại. Tại Việt Nam hiện nay, con số những vụ phá thai vẫn còn cao nhất thế giới, như tiếng chuông báo động khủng bố đang có mặt giữa lòng gia đình. Khủng bố tiếp theo chính là nạn bạo hành dưới mọi hình thức do các thành viên của gia đình gây ra cho nhau như chồng say xỉn đánh đập vợ hoặc vợ làm ăn giỏi tay hòm chìa khóa xử tệ với chồng coi chồng như con ăn người ở sai phái đủ điều. Và khủng bố thấy nhiều hơn cả chính là sự to tiếng cãi vã với ngữ vựng nhà tù và điệu bộ chỉ dành cho muông thú khiến nhiều kẻ trong xóm bất bình. Hầu như những nỗ lực hòa giải cuộc sống gia đình đều nằm trong khía cạnh khủng bố thực tế này.

 

Và đó đây, đôi khi qua tin tức báo đài, được biết gia đình còn là một bi kịch, lắt léo kiểu ông ăn chả bà ăn nem một cách nào đó cũng còn hy vọng khi thay đổi khẩu vị, nhưng khi tiêu chuẩn đạo đức đã biến chất rồi thì nếu không kịp ngăn chận có thể dẫn đến thương vong. Chẳng hạn một gia đình nông dân lúc trước sống cảnh ruộng vường chồng cày vợ cấy hạnh phúc, bỗng dưng có con đường nhựa được phóng qua lập tức giá đất tăng vọt khiến ban đầu là khoái chí hả hê, năm sau là đánh nhau chí chóe. Chỉ vì con cái ai cũng muốn phần hơn. Ngày xưa cha mẹ hiền để đức cho con, còn ngày nay phải nói cách thực dụng rằng cha mẹ để tiền để đất cho con mới được con kính trọng coi là cha mẹ hiền.

 

Những trường hợp nêu trên, từng trường hợp hoặc tổng số các trường hợp đều cho thấy hôn nhân và gia đình hiện nay đang gặp khủng hoảng và khủng bố nặng nề. Họ hết rượu rồi: hết tôn trọng nhau, hết yêu thương nhau, hết giữ gìn hạnh phúc gia đình và cũng hết luôn việc nhận trách nhiệm giáo dục con cái. Thập niên 90, những cặp li dị còn tranh nhau con cái, sang đầu thế kỷ 21, họ lại đùn đẩy con cái cho nhau, khiến trẻ em vô tội bỗng nhiên ngơ ngác thấy mình chỉ là đoạn ruột thừa đau đớn. Chính vì thế, cả đời lẫn đạo đã có những quan tâm đặc biệt về gia đình: Liên hiệp quốc có năm quốc tế gia đình; Đức Giáo Hoàng có tôn huấn về gia đình Familiaris Consortio, nhiều HĐGM các nước có Bản hướng dẫn mục vụ gia đình và HĐGMVN cũng có thư chung về gia đình. Nhưng nỗ lực ấy chỉ muốn giúp con người ngày nay ý thức hơn về lối sống để vun chăm hạnh phúc của mình ngay trong gia đình là nền tảng: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ mà.

 

2. Mục vụ với trái tim

 

Ghi nhận ít thông tin về tình hình gia đình như vậy làm tiền đề để mỗi linh mục trong giáo xứ mình trách nhiệm cũng có những chương trình mục vụ phù hợp, một mặt ngăn chừa những trường hợp nguy hại và mặt khác củng cố xây dựng những nếp gia đình sống theo đường lối Phúc Âm.

 

Mục vụ căn bản cho các gia đình thể hiện theo nguyên tắc phòng ngừa, phòng bệnh hơn chữa bệnh, nghĩa là mục tử quan tâm hướng dẫn giáo lý đầy đủ cho những cặp hôn phối ở ngưỡng cửa thành lập gia đình. Người ta bảo trong những tình huống khó xử, những cặp hôn nhân nào đã trải qua những lớp giáo lý này chắc chắn sẽ có cách ứng xử tích cực hơn những cặp hôn nhân lơ là khác; hay ít ra, lúc gặp khó khăn họ cũng biết tìm đến tư vấn của cha sở nơi tòa trong hoặc tòa ngoài trước khi hành động. Chính trong định hướng giáo lý này, Tông huấn Familiaris Consortio lưu ý các vị chủ chăn “phải xác định những yếu tố cần thiết không thể thiếu được về nội dung, về thời lượng và về phương pháp của các “khóa chuẩn bị”, bằng cách tạo quân bình cho những khía cạnh khác nhau có liên hệ tới hôn nhân như giáo lý, sư phạm, luật pháp và y học, và xếp đặt thế nào để giúp cho những người sắp lập gia đình, không những được đào sâu thêm về hiểu biết, mà còn cảm thấy được thúc đẩy để hội nhập một cách tích cực vào trong cộng đoàn Giáo Hội” (FC 66).

 

Tất nhiên, hướng dẫn đầy đủ là cần thiết, nhưng đừng quá tỉ mỉ đi vào những chi tiết tế nhị mà tự thân linh mục không phải là chuyên viên, như một cha sở nọ dạy cách có con trai hoặc con gái dễ dàng là chỉ cần chuyển đổi tư thế ăn nằm nghiêng bên tả hoặc ghé bên hữu một chút theo nguyên tắc nam tả nữ hữu là được ngay, khiến các học viên phải phì cười bỡ ngỡ. Ở Tp. HCM còn có một linh mục tự cho mình có khả năng chẩn đoán thai nhi một cách lạ thường, cứ thấy vòng số hai của người nữ nhỉnh hơn người thường một chút là phán quyết ngay rằng đã có bầu, rồi lại không cho người ta kiểm chứng bằng siêu âm, khiến chín tháng sau kết quả dở khóc dở cười: bì thì có chứ bầu thì không.

 

Nhưng theo gương Đức Maria khi nói lời “họ hết rượu rồi”, mục vụ cho các gia đình còn đặc biệt quan tâm đến những gia đình đang gặp cảnh khó khăn thử thách bất luận vì nguyên do nào, để kịp thời can thiệp đúng thời đúng cách sao cho hạnh phúc lứa đôi được duy trì và mái nhà được vững là mái ấm. Đây là công việc nói thì dễ nhưng làm không luôn thuận l lợi. Một mặt vì trách vụ mục tử bề bề trong đó các gia đình chỉ là một phần và mặt khác vì những gia đình gặp khó khăn nhiều khi cũng chẳng có dịp trình bày với chủ chăn của mình. Thành thử, nếu có lãnh vực mục vụ nào cần đến sự cộng tác của giáo dân nhiều nhất, thì đó là lãnh vực các gia đình, vì lợi thế ngang hàng giáo dân và cũng vì thuận lợi cùng một bậc sống.

 

Trong dịp cử hành năm thánh 50 năm của nhiều giáo xứ di cư năm 1954 gần đây, chúng tôi có dịp gặp gỡ và trao đổi với các cha sở về phương diện này và kết quả rất khả quan. Các cha sở cho biết, dịp năm thánh giáo xứ cũng là dịp rà soát lại sổ nhân danh và với sự hỗ trợ của các vị trùm trưởng, còn là dịp đi thăm hỏi trực tiếp các gia đình trong xứ, từ đó khám phá ra những trường hợp có sự cố để quan tâm giúp đỡ. Đã có những gia đình hết rượu từ lâu bỗng dưng được châm thêm rượu mới. Đã có những cặp hôn nhân hững hờ trên bờ vực gặp được nâng đỡ cần thiết như buồn ngủ gặp chiếu manh, nên kịp thời hàn gắn. Và không thiếu những trường hợp gia đình chao đảo vì công ăn việc làm hoặc sóng gió vì ít tôn trọng nhau gặp được sự giúp đỡ về vật chất hoặc tinh thần để thấy được bình an trở lại trong nhà.

 

Ở một giáo xứ quận Gò Vấp, người ta thấy hai anh chị A đi đâu cũng vui vẻ có  nhau ra chiều hạnh phúc, từ địa chỉ đạo đến địa chỉ đời, thậm chí có người còn coi đó như mẫu gương của một gia đình bền chặt, nhưng đùng một cái có tin họ phải sống ly thân. Hỏi ra mới biết chiến tranh lạnh giữa họ đã khởi phát từ lâu, có điều là họ khéo che đậy vì danh dự gia đình. Chẳng qua chỉ vì một bất hòa nhỏ khi anh cao hứng tuyên bố giữa bạn bè mùa giải đá banh rằng: bóng đá là trên hết rồi mới tới vợ con. Có thể mới đầu là nói chơi, nhưng sau này thấy anh có dấu hiệu rơi vào vòng quay cá độ, chị giận dỗi ra mặt và sau một lần nói chuyện phải quấy, chị thấy anh im lặng tưởng là không thèm để ý nên chị quyết chọn giải pháp ly thân. Có biết đâu khi anh im lặng là lúc anh đang tự kiểm. Cơm sôi bớt lửa, vợ giận bớt lời. May là anh thực tình tỏ bày, nên cha sở đã kịp thời can thiệp để rượu nhà anh chị này không trở thành giấm chua gây thất vọng cho những người thương mến và gây gương xấu cho những gia đình trẻ.

 

Còn một khía cạnh khác trong việc mục vụ gia đình, đó là việc tháp tùng những đôi vợ chồng mới được cử hành hôn phối trong năm. Kinh nghiệm cho thấy năm năm đầu của một gia đình là quan trọng. Những khủng hoảng thường xảy ra trong giai đoạn này và những khó khăn cùng từ đó mà ra. Tuy nhiên nếu hạnh phúc được vun chăm đúng mức, thì khó khăn đến đâu cũng không thể trở thành nhân tố gây phương hại đến sự bền vững gia đình. Đầu xuôi đuôi lọt.

 

Đến dâng lễ tại một giáo xứ, thấy những ông bà trùm đều trẻ trung dễ mến, tôi hỏi cha sở và được biết, theo ngài, tiêu chuẩn để tìm người phục vụ cộng đoàn phải là người trẻ trung và là chủ của một gia đình ít ra cũng đã có một con. Cha sở còn bật mí là ngài biết được những người này nhờ vào dịp rửa tội cho con cái họ. Hóa ra các cha sở chúng ta cũng khéo lắm, vừa biết rõ chiên trong giáo xứ mình để mời cộng tác, vừa chăm sóc các gia đình tế nhị quá đi thôi. Bố nó làm trùm thì mẹ nó cũng phải sống sao cho phải mặt bà trùm mới được.

 

3. Nhờ Mẹ Chúa Giêsu chuyển cầu

 

Nếu lời “họ hết rượu rồi” trực tiếp là lời gợi ý cho các chủ chăn trong việc mục vụ chăm sóc gia đình, thì gián tiếp lại là lời thúc đẩy các chủ chăn mạnh mẽ hơn nữa trong việc mục vụ lôi kéo người ta đến với sự trợ giúp của Đức Maria. Quả thật, chuyện đám cưới Cana có được niềm vui trọn vẹn là bởi vì từ đầu đã có sự hiện diện của Đức Mẹ và càng đi sâu vào câu chuyện càng thấy sáng lên chân dung của Mẹ trong vị thế hằng cứu giúp những mảnh đời bất hạnh. Vì thế, cùng với những nỗ lực chăm sóc bên ngoài, linh mục cũng được mời gọi để thực thi những việc căn để hơn là dìu dắt các gia đình đến với Đức Mẹ, để khi niềm tin của họ nơi Đức Mẹ lớn lên, họ sẽ làm theo sự chỉ dẫn của Mẹ mà giữ rượu đời sống hôn nhân không bị nhạt mùi.

 

Tất nhiên tấm lòng của Đức Maria Mẹ Thiên Chúa bao la lắm. Lòng mẹ nhân sinh còn bao la như biển Thái Bình huống chi lòng Mẹ thiên quốc. Nhưng điều quan trọng là người ta có chịu đến với Mẹ hay không, hay có đến mà có chịu làm theo lời Mẹ chỉ dẫn hay không. Vấn đề không ở phía tấm lòng từ mẫu mà nằm ở phía con người nói chung và ở từng người nói riêng. Lại một lần nữa ta thấy không phải vô tình chút nào khi ngay từ đầu trình thuật Cana đã nói đến sự hiện diện của Đức Maria, mà muốn cho thấy yếu tố tiên quyết để có phép lạ rượu ngon là phải mời bằng được Mẹ đến với đám tiệc đời mình. Và một khi có Mẹ hiện diện rồi, chuyện còn lại là chuyện tự nhiên của tấm lòng sẽ diễn ra theo trình tự của lòng. Tin Mẹ nhiều sẽ cảm nhận nhiều và cậy nhờ Mẹ chuyển cầu nhiều sẽ được an ủi nhiều. “Mẹ nguồn cậy trông chưa thấy ai xin Mẹ về không, hết tình kêu khấn con tin chắc Mẹ thương nhậm lời”. Lời bài hát đó có lẽ là tâm tình đích thức của những người con tha thiết tìm đến cầu xin với Mẹ.

 

Hình như giáo dân VN hôm nay khá nhạy cảm với những tin đồn Đức Mẹ hiện ra. Chỉ cần một chút gì khác lạ ở đâu đó chưa được giải thích là đã ồn ào tung tin rồi ùn ùn lũ lượt tìm tới, khiến cả giáo quyền lẫn chính quyền phải vất vả, một đàng vất vả giải thích còn một đàng vất vả giải tán. Xét cho cùng, tin đồn như thế chẳng những không vun bồi đức tin cho ai mà xem ra còn có những ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt đạo giáo. Chắc Đức Mẹ cũng chẳng vui gì khi buổi sáng người ta hô lên thấy Mẹ ở núi này, buổi chiều lại đồn nhau thấy Đức Mẹ ở xứ nọ. Làm Đức Mẹ mà như thế chắc cũng mệt. Vấn đề được đặt ra ở đây cho các mục tử là làm sao hướng dẫn để một mặt không đụng chạm đến tình cảm tôn giáo chính đáng và để mặt khác đức tin giáo dân được đi vào đường nẻo đúng đắn bình an.

 

Nhưng thôi, chuyện Đức Mẹ hiện ra hay không hiện ra xin để cho phán quyết giáo quyền, phần linh mục trong tầm tay có thể làm được là hãy cổ võ lòng yêu mến Đức Maria qua linh đạo truyền thống “Ad Jesum per Mariam”, nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Nhờ Mẹ vì Mẹ là nhịp cầu đầy uy tín nối loài người với Chúa Giêsu, và nhờ Mẹ cũng vì Mẹ đầy lòng trắc ẩn sẵn sàng chuyển cầu cho mọi trường hợp, cách riêng trường hợp thiếu rượu hạnh phúc của cuộc sống gia đình. Nhờ Mẹ chuyển cầu bằng phụng vụ chính thức của Giáo Hội, nhưng cũng thường hơn, bằng mọi sinh hoạt đạo đức, cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi để biết âm thầm sống theo gương Mẹ. Và như chúng ta đang làm ở đây là nhờ Mẹ bằng cách áp dụng bảy lời của Mẹ trong cuộc sống linh mục.

 

Có lần đi làm phép nhà cho một gia đình ở khu phố mới PMH, thấy trong nhà mọi sự đều mới hết, chỉ trừ ảnh trái tim Đức Mẹ truyền thống. Được biết ảnh ấy là quà do một linh mục gửi tặng vào dịp hôn phối, thế nên gia đình rất quý đi đâu cũng mang theo. Hằng ngày ít nhiều gia đình đều cầu nguyện trước bức ảnh trái tim này và được nhiều ơn nâng đỡ ủi an. Trộm nghĩ gia đình này đã biết cách mời và giữ Đức Mẹ tại nhà mình, và linh mục kia cũng biết cách dẫn dụ gia đình này đến với Đức Mẹ.

 

Tóm lại, lời thứ sáu là lời Đức Maria đem gia đình đến với Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu chúc lành cho gia đình. Lời ấy hôm nay cũng là lời của các linh mục đem vào trong lời kinh của mình, để xin Chúa ra tay ngăn ngừa tình trạng thiếu rượu tình yêu nơi các gia đình, và xin Người bảo vệ đời sống hôn nhân như rượu mãi được dồi dào hạnh phúc.

 

MỤC VỤ LỜI CHÚA

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(Ga 2,5)

 

Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ XII diễn ra từ ngày 5 đến ngày 26 tháng 10 năm 2008 với chủ đề “ Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”, đã kết thúc, nhưng những nổ lực của hội nghị này vẫn còn sống động.

           

Nỗ lực trước hết là việc chọn chủ đề: kết thúc THĐGMTG XI thánh 10 năm 2003, 3 chủ đề được đệ trình, nhưng vào ngày 6 tháng 10 năm 2006, Đức Thánh Cha mới công bố chọn chủ đề Lời Chúa, đáp ứng nguyện vọng của các Giáo Hội địa phương. Nỗ lực tiếp theo là việc soạn thỏa đề cương Lineamenta trình bày vắn gọn tình trạng vấn đề, kèm theo bảng câu hỏi được gửi tới các giám mục, để dựa trên các câu trả lời gửi về văn phòng trước tháng 11 năm 2007, một bản văn mới là chương trình nghị sự sẽ được thảo ra với tên gọi truyền thống là tài liệu làm việc Instrumentum laboris. Nỗ lực khác chính là nghị sự với những đóng góp sôi nổi thể hiện qua những đề nghị Propositions để Đức Thánh Cha dựa vào đó đúc kết thành văn bản cuối cùng sẽ được ký nhận và ban hành, thường gọi là Tông huấn hậu THĐGMTG.

 

THĐGMTG, như các nghị phụ chia sẽ, đã gây phấn kích nơi lòng tín hữu, giục giã mọi người trang bị một nhiệt tình mới cho việc gặp gỡ Lời Chúa: gặp gỡ trongMạc khải là Thánh Kinh; gặp gỡ trong hiện thân là Chúa Giêsu; gặp gỡ trong nếp nhà là Hội Thánh và gặp gỡ trong hướng đi là sứ vụ truyền giáo. Chính vì thế, trong bản đề cương có một kiểu nói được lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là cụm từ “gặp gỡ Lời Chúa”. Bản đề cương viết: “mục đích của THĐGMTG này là ưu tiên mục vụ: bằng cách đào sâu những lý lẽ về giáo lý và bằng cách để cho các lý lẽ này soi sáng, THĐGMTG muốn triển khai và củng cố việc gặp gỡ với Lời như nguồn mạch ban sự sống, và nhẵm mục đích đó, bằng cách đề nghị cho các Kitô hữu và cho bất cứ ai thiện chí những nẻo đường đúng đắn và khả thi hầu có thể lắng nghe và thưa chuyện với Chúa” (số 5).

           

Đó là đôi chút về THĐGMTG, còn chúng ta đang trong cuộc Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận dựa trên bảy lời của Đức Maria và lần này là lời thứ bảy, lời cuối cùng của Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu được ghi trong Phúc Âm. Lời này được cất lên tại đám cưới Cana như gắn liền với lời thứ sáu. Không phải là lời độc lập nên cũng khó có những suy tư độc lập. Nhưng tình cờ làm sao, may mắn kiểu chó ngáp phải ruồi, lời thứ bảy mở ra nhãn giới không khác với mục đích của THĐGMTG XII là gặp gỡ Lời Chúa, thế nên xin được triển khai lời Đức Maria  trước hết dựa trên nhãn giới này và sau đó thử áp dụng vào đời sống linh mục trong sứ mạng phục vụ Lời Chúa.

 

I.Lời Thứ Bảy Của Đức Maria

 

Lời thứ bảy và lời thứ sáu của Đức Maria, dẫu có chung một bối cảnh là đám cưới cũng như đứng trước cùng một tình huống là hết rượu, nhưng sắc thái của từng lời lại xó những nét riêng diễn tả tính cách và vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Nếu lời thứ sáu là vai trò chuyển cầu thì lời thứ bảy là vai trò chung gian vừa nêu gương gặp gỡ lời hiện thân vừa kín đáo mở đường khám phá lời vừa thúc dục thực thi đòi hỏi của Lời và cuối cùng gián tiếp giới thiệu cũng như tạo điều kiện thuận lợi để Lời đến với mọi người.

 

1.“Người”

 

Khi đôn đáo ngược xuôi như con thoi qua lại giữa một đàng là Chúa Giêsu và đàng kia là các gia nhân, Đức Maria đã cho thấy chẳng những tấm lòng đôn hậu trắc ẩn của mình trước những tình huống nan giải, mà còn đích thân nêu gương tìm gặp gỡ với “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta”. Nếu Tin Mừng thứ tư đã hạnh diện viết lên lời reo vui “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, thì niềm vui ấy trước hết phải ở phía Đức Maria.

           

Từ lời xin vâng ngày truyền tin, Mẹ đã tiếp đón Lời trong cung lòng mình để rồi cưu mang và hạ sinh Lời cho dương thế, nên Mẹ gắn bó với Lời và nhìn thấy vinh quang của Lời hơn bất cứ ai. Lời nguyên thủy là Thiên Chúa, nhưng Lời làm người mang  hình hài tấm thân như đang hiện diện tại đám cưới Cana là Lời máu huyết do Mẹ sinh ra. Lời hiện hữu từ đời đời mang bản tình Thiên Chúa, nhưng Lời hiện thân nơi Đức Giêsu từ khi làm người mang thêm bản tính thứ hai là bản tính loại người.

           

Những điểm giáo lý ấy xem ra lắt léo khó hiểu diệu kỳ, nhưng riêng đối với Đức Maria lại gần gũi máu thịt, nên dẫu có thể không hiểu trọn vẹn và diễn tả cách tách bạch lúc sinh thời, Đức Maria đã minh chứng cách thực tế bằng việc can đảm vượt qua tất cả để biều lộ một lòng tin tuyệt đối nơi Chúa Giêsu là Lời hiện thân bên mình.

           

Giả sử Đức Maria không nói lời thứ sáu “họ hết rượu rồi”, có lẽ Chúa Giêsu rồi cũng biết tình trạng hết rượu của đám tiệc khi thấy nhao nhao tứ phía nhu cầu rót rượu mà không đáp ứng, và lúc ấy Lời Chúa dặn dò các gia nhân “ Người bảo gì, các anh cứ làm theo” cũng vẫn có ý nghĩa. Nhưng một khi đích thân đến bên Chúa Giêsu với Lời Chúa chuyển cầu đắt giá, Mẹ ắt hẳn muốn đi xa hơn để kín đáo nêu gương gặp gỡ không phải  chỉ là con mình sinh ra mà còn là Ngôi Lời giáng thế. Nguyên lời đáp của Chúa Giêsu sau đó có lẽ lạnh lùng với những từ ngữ khó hiểu cũng minh họa một phần nào khoảng cách muôn đời giữa Mẹ và Ngôi Lời  nhập thể: “Thưa bà, hết rượu không can gì đến bà, đúng, chỉ tại lòng bà trắc ẩn lấy việc của người ta làm việc của mình thôi; nhưng chuyện đó can gì đến tôi khi chưa đến giờ thi thố ơn cứu độ? Cũng cần ghi nhận ở đây rằng chữ “giờ”của Chúa Giêsu không phải là giờ giấc theo đồng hồ thời gian, mà luôn luôn trong Phúc Âm thứ tư, hữu ý ám chỉ đến giờ tử nạn và phục sinh của Người. Vượt qua mọi cách ngăn, Đức Maria thẳng tiến đến gặp gỡ Chúa Giêsu cũng là nêu gương gặp gỡ Ngôi Lời hiện thân.

           

Không biết khi Đức Maria nói lên lời thứ bảy, các gia nhân trong tiệc cưới có lẩn quẩn quanh Mẹ không, nhưng khi trực tiếp nói với họ, Mẹ đã cho họ thấy tượng được nhắc đến trong lời thoại là một nhân vật của ngôi thứ ba số ít đã được gia nhân biết đến lúc đó chỉ như là một thực khách được mời không khác chi những thực khách còn lại. Đầu bài Phúc Âm đã ghi lại như vậy mà: “ Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự”. Nhưng sự vắn gọn của câu nói cũng như cách ngỏ lời trực diện của các gia nhân khiến người ta có thể nghĩ xa hơn. Không nói “Giêsu bảo gì các cứ làm theo”, mà lại nói “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”, chừng như Đức Maria muốn xác định: “Người” tức là “Giêsu, khách được mời dự tiệc” có một thân thế sâu hơn nữa là “ Giêsu, Ngôi Lời nhập thể”mà các gia nhân chưa biết đâu, lát nữa đây họ sẽ thấy vinh quanh của Người.

           

Như vậy, không phải việc Chúa Giêsu thực hiện ở Cana mới là dấu lạ, mà ngay cả việc Người hiện diện trong đám cưới hôm ấy cũng là dấu lạ cho mọi người tham dự tha hồ mà khám phá về thân thế thiên linh Ngôi Lời của Người, để khi thấy vinh quang Người biểu lộ, họ sẽ bị khuất phục để sẵn sàng bước vào đường nẻo đức tin, trong đó có các môn đệ đầu tiên.

 

2.“bảo gì”

           

Không chỉ nêu gương tìm đến gặp gỡ Chúa Giêsu là Lời đang hiện diện, Đức Maria còn kín đáo mở đường giúp ta khám phá nội dung của lời Chúa nói nữa. “Người bảo gì các anh cứ làm theo”, nhưng Người bảo gì?

           

Tách riêng lời thứ bảy ra khỏi gian tiệc cưới, người ta không biết Chúa Giêsu bảo gì cho ai. Làm thế không phải là chú giải khoa học, nhưng xem ra lại nhận được một ý nghĩa bất ngờ, khi hiểu chữ “gì” như bất cứ việc gì liên quan đến ơn cứu rỗi của đời người và của người đời. Chữ “gì” xem ra mang màu cụ thể mà khái quát được mọi sinh hoạt của đời sống nhân sinh; chữ “gì” xem ra mang ý nghĩa khái quát mà cụ thể liên quan đến từng người. Chính vì thế, có thể hiểu đây là chữ mầu nhiệm biểu thị cho toàn thể kho tàng mạc khải Lời Chúa nói với con người trong lịch sử cứu độ, cũng như biểu thị cho từng Lời Chúa nói với mỗi cá nhân hôm nay trong toàn cảnh cụ thể nào đó. Không xác định nội dung chữ “gì” là những việc gì, lời thứ bảy đích thực là một lời mở ra cho suy tư và cũng là lời mở ra cho suy tư và cũng là lời áp dụng cho mọi tình huống đời sống.

           

Nghe trong lời Đức Maria có những cung bậc giải thích mà các cha thường dùng mua vui với nhau và cho nhau: thuận tai như “ Người bảo sao các anh em cứ làm vậy, Người bảo vậy anh em phải làm sao?”; và nghịch nhĩ như “ Người làm sao anh em lại bảo vậy? Người làm vậy anh em biết bảo sao?” Hình như có một GMVN đã chọn khẩu hiệu là lời thứ bảy này.

           

Nhưng đặt lại trong bối cảnh một đám cưới đang tới hồi hết rượu, lời thứ bảy là lời dẫn đến một chương trình hành động với những bước cụ thể, để trước mắt giải quyết tình huống và xa hơn đem lại niềm vui cũng như hạnh phúc cho mọi người dự tiệc. Chữ “gì” không còn mênh mang bay bổng nữa, mà đã là những công việc cụ thể đổ mồ hôi sôi con mắt của đời ôsin.

           

Bước một: “Các anh hãy đổ đầy nước vào chum”.  Vất vả đây. Xây lúa thì khỏi bồng em, chứ làm hai việc một lúc coi chừng xôi hỏng bỏng không. Là gia nhân ăn trắng mặc trơn đang phục vụ bàn tiệc nhẹ nhàng trong nhà bỗng dưng phải ra ngoài kín nước lẳn quần xắn áo để khỏi bị ướt chắc khó mà giữ được nụ cười làm vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Mà có phải ít đâu, những sáu chum lớn nhỏ. Nhưng nhịp độ bài Phúc Âm cho thấy đám gia nhân phải vâng phục, nhưng mặt khác rõ ràng là vì lời dặn dò của Đức Maria.

           

Bước hai: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Khó hiểu đây. Hơn ai hết cánh gia nhân biết chum để làm gì và nước từ đâu đến, hay như Phúc Âm mô tả là chum nước dùng vào việc thanh tẩy để uống là khó quan niệm, huống chi phải múc nước trong chum đó để đem cho ông quản tiệc nếm thử. Rách việc, có mà bị ăn đòn. Thế nhưng các gia nhân đã thực hiện y lời. Một mặt vì cũng liều nhắm mắt đưa chân, nhưng mặt khác vì đã khích lệ bởi lời nói trước của Đức Maria.

           

Bước ba: “Ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Người quản tiệc nếm nước mà thấy rượu ngon đã nói với tân lang như thế trong sự kinh ngạc pha lẫn với sự thán phục, dẫu cho tới lúc đó ông chả biết ất giáp gì về những vất vả và khó hiểu của gia nhân cũng như những can thiệp kín đáo của Chúa Giêsu bằng lời và của Mẹ Người bằng của lời nói cũng như bằng di chuyển ngược xuôi.

           

“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo. Chứ gì ở đây là kín nước, là múc nước, là nếm nước và cứ thế y lời, phép lạ sẽ đến, nước lã nhạt phèo đã biết thành rượu ngon hảo hạng rồi. Tương đương Cognac không phải là bốn chữ VSOP mà là hai chữ XO Hennessy hoặc Rémy Martin thì phải? Dám chắc hôm đó kẻ kinh ngạc hơn cả chính là cánh gia nhân. Vượt qua những vất vả kể cả những điều không thể giải thích được, họ nhìn thấy hiệu quả của Lời một cách nhãn tiền. Thái độ vâng phục của họ đã góp phần vào việc lãnh nhận rượu mới một cách dồi dào. Nhưng mang tính hiện thực cho một hôm nay, chữ gì hàm chứa nội dung sứ điệp Lời Chúa gửi đến từng người trong hoàn cảnh riêng đời mình và có thể được áp dụng cho mọi tình huống: bảo đi, đi ngất ngây đời; bảo về, về ngã nghiêng trời hồng ân. Đúng ra, xét cho cùng, ở đây chữ gì không còn quan trọng nữa, mà trọng tâm đã chuyển sang chữ người bảo tương đương với kiểu nói quen dùng của Thánh Kinh: Chúa phán. Có lời Chúa phán. Và một khi xác tín đó là Lời Chúa, thì chỉ còn một thái độ duy nhất của người môn đệ là tín thác qua việc chăm chú lắng nghe tìm hiểu cầu nguyện để ứng trực Lời Chúa. Trong cử hành phục vụ Lời Chúa, cuối mỗi bài đọc, khi thừa tác viên đọc công thức đó là Lời Chúa và cộng đoàn đáp tạ ơn Chùa hoặc lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa, thì đó chính là lúc lời thứ bảy của Đức Maria đi vào vận hành. Bởi vì người bảo nên cộng đoàn lắng nghe và tung hô khen ngợi trong cảm tạ tri ân, nhưng Người bảo gì tức là nội dung lời Người bảo thì còn phải truy tìm khám phá. Đó là phận vụ của bài giảng.

 

3.“các anh cứ việc làm theo

           

Lời thứ bảy của Đức Maria, lời duy nhất có địa chỉ không chỉ ở trong bầu khí thuần túy mà trái lại rất đời nữa là khác, tiệc cưới chứ không phải là tiệc Lời Chúa hay tiệc Thánh Thể đâu; lời duy nhất không phải một cá nhân có danh tánh rõ rệt như sáu lời trước mà ngược lại là tập thể các gia nhân khiêm tốn thầm lặng tay làm hàm nhai. Tuy nhiên, lời duy nhất gần gủi trong cách đối thoại ấy lại là lời trức tiếp giục giã đôn đốc khích lệ người ta thực thi Lời Chúa, và là lời gián  tiếp giao cả thế hệ, sau đó Đức Maria hoàn toàn rút lui vào thinh lặng không nói một lời nào nữa, để cho Ngôi Lời làm người chính thức bước vào cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng.

           

“ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Với cả tâm tình, Đức Maria rút ruột chia sẽ kinh nghiệm cá nhân mình cho mọi người, để mời gọi tất cả trang bị thái độ khiêm tốn đón nhận và thi hành. Nếu ngày truyền tin, dầu bối rối trước thánh ý Chúa, Mẹ vẫn một mực làm theo bằng lời Fiat can trường và ngày lạc mất Chúa trong Đền Thánh, dầu bối rối trước thánh ý Chúa, Mẹ vẫn kiên trì thể hiển long tin, thì hôm nay trước những thách đố muôn mặt của cuộc sống con người, Mẹ vẫn gần gũi ân cần chỉ bảo, khích lệ vỗ và lấy kinh nghiệm của Mẹ để dẫn đường. Mẹ như người đi đầu cho ta được tiếp bước; Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau; Mẹ như người đi mau để ta được nín kéo dắt dìu. Kinh nghiệm hạnh phúc của Mẹ không chỉ ở chỗ cưu mang hạ sinh nâng Lời  làm người, mà còn hệ tại việc nghe và giữ Lời Thiên Chúa nữa.

 

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Không nghi thức rườm rà, không nhiều lời giải thích, mà chỉ bằng một câu ngắn, Mẹ kín đáo tế nhị giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người một cách hiệu quả. Sự kín đáo được thể hiện qua việc không nêu danh Giêsu trong câu nói, để Chúa Giêsu tự do biểu lộ mình theo cách của Người và đúng lúc hữu xạ tự nhiên hương, qua việc người làm, dân chúng sẽ nhận biết Người. Sự kín đáo ấy còn thể hiện qua việc Mẹ nhẹ nhàng rút lui khỏi hiện trường dành sáng kiến cho Chúa Giêsu dùng lời Người mà đến với mọi tâm hồn. Vài trò trung gian của Mẹ là dẫn người ta đến gặp Chúa Giêsu, mà một khi người ta đã đến được rồi, Mẹ trở lại phong thái muôn thuở là “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”.

           

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Các môn đệ trong trình thuật tiệc cưới Cana chỉ là nhân vật phụ ăn theo Chúa Giêsu từ đầu đến cuối, không có một vai trò gì, nhưng trong mắt Đức Maria, họ lại có một vị trí đặc biệt. Nếu phép lạ nước hóa rượu ngon bên ngoài giúp bảo vệ của gia đình, niềm vui của thực khách và hạnh phúc của lứa đôi,  thì như cuối bài Phúc Âm ghi lại, bên trong phép lạ này nhằm củng cố lòng tin nơi các môn đệ. Ở ngưỡng cửa cuộc đời công khai sứ vụ, Đức Maria luôn hiện diện chăm chút đến niềm vui của các môn đệ hôm qua cũng như hôm nay.

           

Như vậy, lời “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” là lời vắn tắt của một vị trung gian đầy uy thế, vừa nhiệt tình truyền thụ kinh nghiệm bản thân trong việc gặp gỡ Lời Chúa, vừa kín đáo chuẩn bị đường lối cho Lời Chúa làm người bước vào đời rao giảng và cũng tế nhị đỡ nâng niềm tin cho các môn sinh trong những bước đầu tiên chập chững học sống theo Lời Chúa.

     

II. Lời Thứ Bảy Và Đời Sống Linh Mục

           

Lời cuối cùng của Đức Maria “ Người bảo gì, các anh cứ làm theo” như vừa trình bày, là lời duy nhất Mẹ ngỏ trực tiếp cùng các gia nhân trong một tiệc cưới để thúc giục họ thực thi Lời Chúa. Lời ấy dọc dài lịch sử Giáo Hội, Mẹ đã ngõ cùng muôn thế hệ trong mọi cảnh ngộ để khuyến khích người ta yêu mến và đem Lời Chúa vào trong đời sống hằng ngày. Nhưng lời ấy hôm nay Mẹ muốn nói gì với các linh mục chúng ta, cách riêng trong nhiệm vụ mục vụ gắn bó với Lời Chúa?

 

1.Gặp gỡ Lời Chúa

 

Trong một số khách sạn nước ngoài, nơi nghỉ lại trong những chuyến đi xa, tôi luôn thấy trong hộc bài đèn ngủ một cuốn Thánh Kinh trọn bộ Cựu Tân Ước. Hình như của các anh em Tin Lành. Chẳng sao. Điều muốn nói nhiều người ngày nay trong điều kiện lữ hành vẫn có nhu cầu tìm đến Lời Chúa và khách sạn kia có để Thánh Kinh cũng là đáp ứng cho nhu cầu chính đáng này. Khách hàng là thượng đế mà. Linh mục trong đời sống cá nhân cũng như trong sứ vụ đời mình ở điều kiện lữ hành tâm linh, nên cảm nhận hơn ai yêu cầu hằng ngày phải gặp gỡ Lời Chúa. Vì sao?

           

Vì Lời Chúa sống động tác sinh và đồng hành với con người từ thủa tạo dựng mãi cho đến lúc chấm dứt cuộc lữ hành trần thế đã đành, mà cũng vì Lời Chúa đã tỏ mình trọn vẹn trong mầu nhiệm Nhập Thể, khi bước xuống làm ngưởi giữa chúng ta. Người là Đấng hằng sống và có những  lời ban sự sống đời đời. Ngoài ra, còn vì Lời Chúa sắc bén soi sáng và dẫn lối cuộc đời qua Thập điều Cựu Ước và giới luật yêu thương Tân Ước, đồng thời qua các Mối phúc là lý tưởng đời sống Kitô, để dò thấu tâm tình của con tim và hướng dẫn những tâm tình ấy về đường ngay nẻo chính. Lời sắc bén, lời lẽ phải, lời hoán cải, lời phục sinh. Cuối cùng, vì Lời Chúa hữu hiệu ngày xưa trực tiếp can thiệp qua công trình cứu độ trên mọi bước đường lịch sử dân thánh và hôm nay nhờ tác vụ linh mục qua công trình cứu độ của Lời trong bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống và sứ mạng Hội Thánh.

           

Nhận thức như thế, linh mục được mời gọi tìm đến gặp gỡ Lời Chúa hằng ngày như một thực phẩm bổ dưỡng và cũng như nhu yếu phẩm không thể thiếu nếu không muốn cỗi cằn trong công việc mục vụ. Sữa Nestlé có bảng quảng cáo với dòng chữ “good food, good life” hấp dẫn; thiết nghĩ, linh mục được nuôi dưỡng bằng gặp gỡ Lời Chúa thường xuyên, cũng cảm thấy bổ dưỡng sức sống tâm linh trong đời sống phục vụ. PVD số 26 đã yêu cầu các linh mục mỗi ngày tự nuôi mình bằng Lời Chúa một cách phong phú để chuyển giao đức tin cho những kẻ thuộc trách vụ quản sóc của mình một cách dồi dào.

           

Có một bài hát được nhiều người công giáo ưa chuộng và cũng được các anh em Tin Lành đồng cảm, có thể vì giai điệu uyển chuyển nhẹ nhàng, nhưng nhất là vì nêu lên những xác tín căn bản của con người đối với Lời Chúa, đó là bài “Xin cho con biết lắng nghe” của Lm. Nguyễn Duy. Lời Chúa là sức sống, là ánh sáng, là hy vọng; Lời Chúa là niềm vui, là tiếng hát, là đổi mới; Lời Chúa là hạnh phúc đời người. Rất đẹp.  Mong rằng đây không chỉ là ca khúc của một người, mà phải trở thành điệp khúc xác tín của nhiều người làm tiền đề cho những bước tiến đến gặp gỡ Lời Chúa. “Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh, nhưng còn bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

           

Nhưng gặp gỡ Lời Chúa là cả một hành trình với những quy phạm không thể bỏ qua. Dẫu Lời Chúa tuyệt đối tự do được tỏ bày qua mạc khải đúc kết trong Kinh Thánh, nhưng Giáo Hội chính là ngôi nhà được trao phó lưu tồn và giải thích Kinh Thánh ấy, nên gặp gỡ Lời Chúa cũng chính là đi gặp trong nhà Giáo Hội và theo cách của Giáo Hội. THĐGMTG vừa qua đã dành nhiều nổ lực để đề nghị cho các Kitô hữu và cho những ai thiện chí một nẻo đường đúng đắn để gặp gỡ Lời Chúa.

                       

Lời Chúa là một bản tổng phổ được diễn tả bởi nhiều nhạc cụ, theo nghĩa Chúa thông ban Lời Ngài dưới nhiều hình thức khác nhau trong một hệ thống phẩm trật các ý nghĩa và các chức năng. Nơi Lời Chúa có tất cả những phẩm chất: của chức năng thông tin, do chỗ Thiên Chúa thông truyền chân lý của Ngài; của chức năng diễn tả, do chỗ Thiên Chúa biểu lộ cách suy tư, yêu thương, hành động; của chức năng hiệu triệu, do chỗ Thiên Chúa kêu gọi lắng nghe và đáp trả bằng đức tin. Vì thế, gặp gỡ Lời Chúa là chính là biết giữ sự hài hòa cân đối của bản tổng phổ này. Kỹ thuật âm thanh ngày nay gọi là mix. Ai hòa trộn các âm thanh khéo, người ấy sẽ được đắt khách; ngược lại, ế dài dài.

           

Trong thông điệp kết thúc THĐGMTG XII, đức tổng giám mục Gianfranco Ravasi đã dựa vào câu 42 chương 2 sách Công Vụ “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” để nêu lên bốn cột trụ nâng đỡ tòa nhà Hội Thánh hôm qua cũng như hôm nay, là:Lời Chúa; tình huynh đệ; Thánh Thể và cầu nguyện, trong đó Lời Chúa luôn chiếm vị trí ưu tiên. Xem như thế, đủ biết gặp gỡ Lời Chúa quan trọng như thế nào. Ai siêng năng gặp gỡ Lời Chúa sẽ thấy cộng hưởng hài hòa trong đời sống mọi bề; ngược lại, cuộc sống dễ rối như mớ bòng bong, không biết đâu đầu mối để gỡ ra.

           

Cũng xin thưa rằng gặp gỡ Lời Chúa cuối cùng là gặp gỡ chính Chúa là Lời, là Đấng đang ngỏ lời với ta. Như thế mới là cuộc gặp, nếu không thì chỉ là học hỏi hoặc suy tư thuần túy dựa trên văn tự. Gặp trên văn bản thì lạnh lùng, còn gặp được Chúa là Lời sẽ dẫn đến những cộng hưởng trong đời sống. Gặp trên văn bản sẽ gỡ ra được ngay khi hết tiết giờ học, còn đích thân gặp Lời rồi thì không gỡ ra được nữa. Xoắn xuýt suy tư, quấn quýt hành động. Chính đây mở đường cho một thói quen tốt là chọn cho mình một câu Lời Chúa như châm ngôn sống. Các giám mục thì tự nhiên thôi, còn các linh mục rất tự nhiên như vậy. Hy vọng không ai chọn một câu thực tế quá như “thức ăn ngon ta đãi hàng tư tế” hoặc “các chú có gì ăn không?”.

 

2.Thực hành Lời Chúa

 

Nhưng một cách trực tiếp, lời cuối của Đức Maria nhắm đến việc thực hành Lời Chúa. Đây là lãnh vực rất cụ thể mỗi người có thể tự nhìn thấy trong đời sống mình qua hành trình nên thánh hoặc ngôn ngang nhiệm vụ mục tử. Tuy nhiên, cũng xin nêu lên vài ghi nhận về ý nghĩa.

 

Thực hành Lời Chúa trước hết là một lời gọi ân cần gởi đến tất cả mọi người không một chút trọng khinh phân biệt đẳng cấp cũng như không một chút nể nang miễn trừ. Trong Phúc Âm không thiếu những hình thức Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc thực hành này, khi thì xa gần bóng gió như bằng những dụ ngôn, khi thì trực tiếp thẳng thừng như trong lệnh truyền sống động. Bao giờ cũng thế, nghe và đem ra thực hành là hai bước chân của một chuyển động. Chỉ nghe vui tai mà không minh họa lại trong đời sống bằng những chuyển đổi thực hành thì chưa phải là nghe đúng mức, nước đổ lá khoai, ấy là chưa nói đến cảnh ly dị giữa chân lý ghi nhận và thực tế cuộc đời, như hai đường rây song song không có điểm gặp. Xem ra cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong tôn giáo cũng không thiếu. Có nhiều người đã cảnh báo rằng nghe mà không thực hành Lời Chúa là một trong những gương xấu thời đại. Hình như khi Gandhi khi nói ông tin Phúc Âm chứ không tin người có đạo, ông muốn ám chỉ đến việc thiếu thực hành Lời Chúa này.

                       

Trái lại, nghe trong khiêm tốn đón nhận rồi thiện chí suy niệm đối chiếu để cuối cùng can đảm canh tân đời sống cho tương ứng và tương xứng với lời nghe mới là thái độ tích cực và đích thực của một tín hữu.

                       

Thực hành Lời Chúa ngoài ra cũng là một đòi hỏi thuộc về sứ mạng đời linh mục. Đức Gioan Phaolô II sinh thời đã nhiều lần nhắn nhủ các linh mục trong thư Thứ nămTuần thánh về ơn gọi và sứ mạng mục tử, qua đó ngài không quên lặp đi lặp lại để kêu gọi ý thức và yêu cầu chỉnh đốn: ngày nay người ta không thích vểnh tai nghe những thày thông thái chỉ tay năm ngón dạy dỗ, mà lại thích để mình được thuyết phục bởi những chứng từ khiêm tốn của người đã dấn thân sống hết mình.

                       

Lời Chúa trong bí tích truyền chức đã thánh hóa để linh mục trở nên con người mới dẫn bước trên đường trọn hảo, thế nhưng vì lý do này lý do khác linh mục chưa thể hiện con người hóa thánh này, linh mục được mời gọi thực hành Lời Chúa gặp gỡ hàng ngày trong Thánh Lễ lẽ ra đã biến linh mục thành những tác viên phân phát các mầu nhiệm thánh cho cộng đoàn một cách thuyết phục, nhưng vì sau đó, khi cộng đoàn không nhận ra vai trò này một cách sáng tỏ nữa, thì linh mục được mời gọi thực hành Lời Chúa cách cụ thể hơn cho trổ sinh hoa trái nhiều hơn đem lại sinh khí cho đới mục vụ và cũng cho cả cộng đoàn nữa.

                       

Theo nguyên ngữ latinh, linh mục là sacerdos kết hợp bởi từ sacer là thánh và động từ dare là cho, nghĩa là người cho đi sự thánh, thế mà trong thực tế, nhiều khi linh mục đã không quảng đại đủ trong việc thi hành tác vụ đời mình, hoặc cụ thể hơn, là thích cho đi sự thánh để nhận lại những sự mà trần thế coi là vinh hoa phú quý rủng rỉnh phô trương. Bỗng lễ là tốt. Thợ đáng ăn lương. Nhưng cò kè bỗng lễ béo gầy là dấu hiệu dễ thấy nhất của việc nhập nhằng giữa sự thánh và sự phàm này.

                       

Thực hành Lời Chúa cuối cùng còn là một dấu chỉ nói lên hạnh phúc của người môn đệ khi gắn bó đời mình với đời của Đấng đã chọn gọi và sai mình đi làm việc. Nếu đã có lần Chúa Giêsu công khai nói trước đám đông khi có tiếng fan nữ ái mộ xuýt xoa phúc cho lòng dạ đã cưu mang Người và vú đã cho Người bú, rẳng: “Ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn hạnh phúc hơn”, thì đây phải được xem như lời xác định minh nhiên giá trị của việc thực hành Lời Chúa, đồng thời cũng như lời nêu lên đường hướng cho kẻ dấn bước đi theo Chúa Giêsu. Không biết Trăng Thập Tự khi viết bài thơ về ơn gọi với khổ đầu thế này: “ Người về Người gọi em theo, trăm năm lội suối trèo đèo có nhau. Người về em bước theo sau, đường xa quảy gánh thương đau mỉ cười” đã có những kỷ niệm gì, nhưng đọc lên người ta nghĩ ngay đến đời dâng hiến có vất vả gian nan mà cũng có niềm vui vì Chúa luôn hiện diện đồng hành. Ở đây ta có thể nói thêm: người môn đệ thực hành Lời Chúa dẫu phải gian nan vất vả, nhưng hạnh phúc vì mình đã gắn bó với Lời một cách thực lòng.

                       

Một linh mục tôi quen biết khi ra trường chọn khẩu hiệu “lòng nhiệt thành nhà Chúa nghiêng cả lòng con”, anh em cùng thời cứ chọc ghẹo đọc trại chữ “nghiêng” thành chữ “nghiến” hoặc chữ “nghiền”,  nhưng anh chẳng buồn gì cả. Mà anh nhiệt thành thật. Cứ ba năm được đổi một xứ, chỉ vì quá nhiệt thành bất kể thời giờ tiền bạc khả năng cũng như bất cần cha xứ. Lần cuối bất chấp lệnh thuyên chuyển của bề trên, anh chạy vạy cho vận động được ở lại giáo xứ. Nhưng kết cục không vui. Anh được nghỉ hưu khi đời còn sung sức. Thế là trầm cảm nghiêng lòng, stress mãn tính. Thực hành theo kiểu vận dụng Lời Chúa để biện minh cho công việc của mình, sớm muộn cũng đi vào ngõ cụt.

 

3.Giảng Lời Chúa

                       

Như đã thưa, phần đầu lời thứ bảy của Đức Maria “ Người bảo gì” là một gợi ý cho việc giảng Lời Chúa. Đây là nhiệm vụ quan trọng. Chính THĐGMTG vừa qua cũng nêu vấn đề giảng Lời Chúa như một trong những chủ đề thiết yếu. Các nghị phụ nhấn mạnh đến sự cần thiết phải chuẩn bị kỹ lưỡng, khắc ghi trong tâm trí những bài đọc Kinh Thánh của ngày hôm đó, suy gẫm những gì bài đọc nói với linh mục và soạn thảo những gì linh mục phải nói với cộng đoàn trong ánh sáng hoàn cảnh thực tế của họ. Để làm được như thế, các nghị phụ còn khuyên trong phần kết của sứ điệp: Hãy để cho Lời vang lên lúc khởi đầu ngày sống hầu Chúa là người nói trước hết, và hãy cho Lời vang vọng lúc chiều tà hầu Chúa là người nói sau cùng trong ta.

                       

Nhiệm vụ quan trọng, nhưng không dễ dàng và cũng chẳng dễ chụi, còn đeo bám linh mục cho đến hết đời. Hồi tôi mới làm linh mục, cứ thứ hai đầu tuần đã phải mở xem phúc âm Chúa Nhật nói gì, rồi suốt tuần mặc kệ suy nghĩ đong đưa, mãi tới thứ sáu mới xác định được những gì phải nói để sau đó nặn óc ra bài giảng chuẩn bị đăng đàn. Cứ vất vả vật vờ như thế suốt. Bây giờ có chút kinh nghiệm, thấy đỡ hơn.

                       

Giảng, theo nhãn giới lời cuối của Đức Maria, là tìm hiểu kỹ càng nội dung Lời Chúa hay gặp gỡ Chúa trước, rồi tìm cách giới thiệu Chúa cho người khác bằng hết khả năng có thể của mình. Giảng như thế không là giảng về mình, mà là giảng về Chúa với những chân lý của Ngài. Giảng về mình là cách che dấu thực tại về Chúa cách thành công nhất. Sáng danh tôi, tối danh Chúa là thế. Ngược lại, giảng về Chúa và chân ký của Ngài lại là cách giáo dục đức tin cách hiệu quả. Tuy nhiên, giảng không phải bằng ngôn ngữ của thiên thần bay bổng khó hiểu hoặc bằng ngôn ngữ của thần học lý luận khô khan, mà bằng ngôn ngữ của con người đang sống trong hoàn cảnh cụ thể. Chính đây là cửa ngỏ của kỹ thuật giảng cũng như là hướng đi của nghệ thuật giảng chinh phục lòng người. Lời khuyên của một nhà giảng thuyết lừng danh, thánh Ignatio, là: hãy chu toàn nhiệm vụ như chỉ một mình, và hãy đợi kết quả như chỉ do tình Chúa ban thôi.

                         

Thánh Gioan Vianney là một thí dụ. Ngài không học rộng để khoe mình, củng chẳng học cao để xa xăm tư tưởng, chỉ thấy cần cù bù thông minh có sao nói vậy, ấy thế mà những lời giảng kèm theo mẫu gương đời sống đã trở thành hấp lực dẫn đến sự hoán cải của nhiều người. Bài giảng đích thực là bài giảng trong đó thính giả nghe lời linh mục và nhìn thấy đời sống linh mục chứng minh.

                       

Giảng như thế vừa là một hồng ân thuộc thiên chức linh mục, vừa là một trách nhiệm thuộc sứ vụ giáo huấn. Còn vất vả, còn hy vọng; nhưng một ngày nào không còn thấy vất vả nữa, coi chừng đã bắt đầu ê a vo tròn bóp méo Lời Chúa theo ý nghĩ chủ quan của mình hoặc không bình thường như để buông ra trong bài giảng những lời phàm tục tức bực quát tháo cá nhân hay cay cú chì chiết bóng gió thù hằn. Không phải nhẹ nhàng mà có phép lạ Cana, nhưng phải vất vả kéo nước đổ đầy chum, múc nước cho quản tiệc nếm, lúc ấy phép lạ mới đến làm bừng vỡ niềm vui. Kiên trì với kiến thức học hành, với khả năng phát huy với kinh nghiệm tích lũy và với kinh nghiệm hằng ngày, bài giảng tự nó như nước lã sẽ được Chúa biến thành rượu ngon phục vụ cho cộng đoàn mình trách nhiệm.

                       

Có mấy giáo dân đến kể với tôi rằng họ ngán đi lễ Chúa Nhật ở giáo xứ lắm, chẳng phải vì cha giảng dài giảng dai giảng dở cho bằng cha nóng nảy điểm mặt chỉ tên mắng mỏ còn hơn đốc công trong xí nghiệp Hàn Quốc. Hỏi ra mới biết những giáo dân này đi lễ ngồi không đúng chỗ quy định, thế là cha nổi đóa trên tòa giảng chỉ trỏ bắt phải dời đi chỗ khác. Xấu hổ cả buổi lễ rồi từ đó chuồn luôn. Xin lưu ý: những vụng về cá nhân trong tác vụ linh mục giáo dân dễ bỏ qua lắm, nhưng một khi bị sỉ nhục công khai, họ sẽ không bao giờ quên và nhiều khi lại gợi nhớ như một trong những hạng mục đàm tiếu chợ trời.

                       

Tóm lại, lời cuối cùng của Đức Maria là một lời của vị trung gian đầy tâm huyết giữa Chúa Giêsu và tất cả mọi người. Mẹ dẫn dắt người ta đến gặp gỡ Lời Chúa, Mẹ khích lệ người ta chăm lo thực hành Lời Chúa, và Mẹ rút lui cho Lời Chúa trở thành máu thịt trong lòng kẻ tin. Đồng thời, trong nhãn giới mục vụ, lời thứ bảy này đã trở thành nguồn lực cho đời linh mục khi từng bước gặp gỡ, thực hành và giảng thuyết Lời Chúa cho cộng đoàn. Mong ước những chia sẽ này sẽ như một đóng góp nhỏ giúp mỗi người chúng ta thêm lòng yêu mến Đức Maria và cũng thêm lòng say mê đọc Lời Chúa theo phương pháp “lectio divina” ( đọc, suy tư, cầu nguyện, chiêm niệm).

Vũ Duy Thống
Số lần đọc: 2198
Ngày đăng: 18.01.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Không gian văn học Miền đông nam bộ và hiện thực đời sống hay tâm trạng đời sống. - Nguyễn Một *
Đi tìm ứng viên giải Nobel cho văn chương Việt Nam - Đông La
Viết về công nhân thời kỳ mới : không ngại cũng không vội ! - Khôi Vũ
Ðường vào triết học-1 - Nguyễn Ước
Ðường vào triết học-2 - Nguyễn Ước
Nguyễn Bính - một áng thơ Say - Vũ Ngọc Tiến
Lịch sử tính dục : Phần 3.- Khoái cảm trong hôn nhân - Khổng Ðức
Lịch sử tính dục : Phần 2 ( trong chương năm - tiếp theo ) Vấn đề độc chiếm - Khổng Ðức
Thơ & Thơ Huế : đôi điều về dòng thơ mặc thị - Trần Hạ Tháp
Hòa bình vĩnh cửu - Nguyễn Hữu An