Đọc tập thơ “Em từ đâu đến” của giáo sư tiến sĩ, bác sĩ tim mạch Nguyễn Huy Dung (nhà xuất bản Văn Học 2008), tôi bất giác liên tưởng đến những người thầy thuốc viết văn làm thơ. Nếu Georges Duhamel trong Biên niên sử gia đình Pasquier, từ việc chẩn mạch cho nhân vật Pasquier và 5 người con của ông, đã chẩn mạch cho cả một thời đại từ năm 1880 đến 1930 ở Pháp, thì Huy Dung trước hết, đã “biên niên” ghi mạch của trái tim mình:
Mười lăm xuân tuổi học trò
tâm hồn thác nước mộng bờ biển êm
Hai mươi xuân quá tự tin
không hề bối rối
lửa tình đốt, tim thành đám bụi
với sự thành thật và dũng cảm hiếm thấy vì tránh được chứng từ yêu của Narcisse nhưng cũng không tự ti thấy “Cái tôi là đáng ghét” (Pascal):
Ta chính thực là ta
vững bước chân không vội
Cửa tim luôn mở to
hướng yêu thương đón gió
nhưng tình chẳng ập vào
từ trong tim bước ra
Ở đây có một thoáng tự trào nhưng đó là dấu ấn của một tâm hồn rộng mở và đầy bản lĩnh. Diderot đã chẳng nói: “Hơi thấy cái cảnh ngộ bất thường, người đa cảm cuống lên, người ấy không làm được một vị anh quân, một tể tướng, một nguyên soái, một luật sư đại tài, một y sĩ đại danh” đó sao?
Đó cũng bởi quan niệm về tình yêu lý tưởng của Huy Dung là sự thuần khiết như màu áo trắng của người thầy thuốc, như độ trong của nước cất:
Hăm ba tuổi con tim
ta mơ tình thuần khiết
Trời thương ta gặp em
dần hiểu tình nồng nhiệt.
Em nồng nàn hơi thở
dòng lửa giữa đêm đen
Tim anh đang lửa đỏ
khéo bỏng tay ơi em!
Lửa tình yêu đã đốt sạch tạp chất để lọc lấy mùi hương trầm thuần khiết khi nguyện thề chung thủy, tình yêu “hương lửa đang nồng” (Nguyễn Du):
em về mắt tỏa lung linh
đốt trầm tâm khảm đinh ninh lời nguyền
hương yêu thuần khiết quanh em
Nếu Chekhov mà “mỗi truyện ngắn là một bản chẩn bệnh tâm lý mẫu mực” nhưng từ chối kê đơn thuốc thì Huy Dung khi lắng nghe tiếng tim của người yêu trong giấc ngủ:
từ xởi lởi dung hòa cáu giận
(khi thực sự anh bối rối thầm)
từ tiếng tim đểu hết tạp âm
rì rào hơi thở êm tinh khiết
ở đây cũng đòi hỏi tiếng tim lắng hết tạp âm, để lọc lấy hơi thở tinh khiết, nhưng sau cảm mạch là lời khuyên nhủ chân tình :
Có thể nào chăng
khi em thức dậy, nhìn phòng tối
“Anh! anh đi rồi
hay, chưa hề có anh tôi!”
Chớ chữ sảng, câu mê bối rối
chớ, nghe em!
em hãy xóa lời buồn ác mộng
Ta đã trải quá nhiều vô vọng
thêm chi buồn, một giọt tràn tim
Sự kê đơn mang tính chất lâm sàng và phương thuốc là ánh mặt trời - nguồn sống của vũ trụ:
Khi thức dậy nhìn ô cửa đằng đông
đêm trên sông thôi lặn giữa Sài Gòn
nhường cho ngày sắp mọc đầu Kinh Tẻ
Em khỏe hẳn mơn man chân bước khẽ
Charles Pinot Duclos nói “Những người có tâm hồn đa cảm sống lâu hơn kẻ khác, đối với họ những điều hay, điều dở, cái vui, cái buồn ở đâu đến rất nhiều”. Huy Dung chẩn mạch cho trái tim người đang yêu với sự chính xác tinh vi của một nhà phân tâm học thấy được những biến hóa đa dạng, có khi từ thái cực này sang thái cực khác:
Yêu bất ngờ chớp bể mưa nguồn
Ôi tình yêu bỗng dưng day dứt
Vì tình yêu chợt vui chợt buồn
Vì tình yêu trộn cười vào khóc”
Tôi nhớ đến mấy câu thơ Xuân Diệu viết trong thời chín chắn “Em là nửa nắng nửa đêm. Mưa thưa nắng nhạt hồn thêm bùi ngùi. Lòng anh trái lựu chín muồi. Có khi vừa vỡ vừa cười đó em”
Nhưng với chuyên môn của người thầy thuốc, trong bệnh án Huy Dung đặt ra câu hỏi:
Tại vì sao vùi đầu ngợp cánh
Vì tình yêu sung sướng rùng mình
Vì tình yêu bỗng nhòe nước mắt
Vì tình yêu lãng mạn trữ tình
(dù đi lạc không lạc lõng tim)
Đáp án đã có rồi: dù đi lạc không lạc lõng tim. Đó không chỉ vì “trái tim có những lý lẽ mà khối óc không biết đến” mà chủ yếu vì “khi một người yêu mọi người một cách tha thiết, họ có thể làm cái điều mà họ muốn vì rằng tựa nương theo cái chân lý cao cả, và cái nhân ái thiêng liêng, họ không thể ngã vào lầm lạc được” (J.Chevalier).
Là một nhà thơ, Huy Dung nhạy bén quan sát những đường biểu diễn thăng giáng của điện tâm đồ qua dòng thơ yêu:
Thơ yêu chảy ngập tràn tim, huyết quản
ngất ngưởng cười (yêu ẩn sợi buồn xa)
thoáng tủi sầu, chẳng khóc, xen cười khẽ,
nhạc, điệu, vần… nhưng tất cả tan ra.
Luôn bay bổng, thơ sà xuống cõi lòng
trăm quá trình, tương tác, những liên thông
yêu gặp nhau bất chợt, đường xuôi ngược
Dòng thơ yêu mang cả một trời trong.
Huy Dung cũng chẩn mạch cho trái tim không biết yêu – trái tim rỗng tuếch:
Đến tội! vô chừng khổ cực
vô hồn thân không ngày mai
múa may mà tâm rỗng tuếch
đến chẳng biết mình là ai
Và tìm ra gốc bệnh:
Uổng thay tim chẳng dung thông
với mình, tự nhiên, nhân loại
nối xưa, nay, mai gom lại
Tất cả chung một cộng đồng.
Khi con người dung thông với thiên nhiên, từ trăng gió khêu gợi tình yêu:
Phút xuất thần, dọc ngang tròng mắt
Tim chìm nghiêng, chao, chất ngất rơi
Ôm sao hẫng hụt chơi vơi
Đá còn vang vọng những lời yến anh
Óng mượt eo, vị tình môi đậm
Thực hay mơ mê mẩn ngỡ ngàng.
Trăng hoa thanh sắc bâng khuâng
Làm chi trăng gió để lăn lóc đời
để đến khi:
giữa hồng trần
mười phương lưu lạc
trăng bạc xưa trầm mặc chơi vơi
vẫn quá khắc khoải về ráng đỏ của mối tình đầu, nên nhắn nhủ người sau:
Mai sau xin chớ một đời
nhớ nhung khoắc khoải khôn nguôi, đợi gì?
chớ bi kịch hóa lâm ly
Gạn mơ từ ánh diệu kỳ ráng xưa
Khi trái tim đã dung thông với nhân loại, Anna de Noailles thấy mình mang “trái tim vô số” (coeurs innombrables), Blaga Dimitrova thấy mình bị “vây giữa tình yêu”. Nếu Nazim Hikmet thấy “trái tim tôi bị đem bắn hàng ngày ở Hy Lạp”, thì trái tim Huy Dung cũng từng bị đem bắn cùng sự hy sinh anh dũng của hai người chị liệt nữ Minh Khai, Quang Thái, hai người anh liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp, sự trải nghiệm nỗi đau khiến trái tim anh mở ra con đường “kết nối, liên thông, tương tác” với mọi trái tim khác.
Khi trái tim đã dung thông “nối xưa, nay, mai gom lại”, thì Huy Dung bèn chẩn mạch cho trái tim yêu của người xưa:
Đôi tim trẻ đẫm hương ngào ngạt
nồng nàn sóng thở, cát thì thào
nắng thỏa thuê vào ngõ ngách phế bào
sẵn đúc tòa thiên nhiên nghe gió hát.
Từ hớp hồn hạt cát phàm trần
Chử Đồng Tử, Tiên Dung tương tái sanh hạnh phúc
mang lửa trời bất diệt vào phàm tục thế nhân
Và nhắn gửi người sau về sự vĩnh cửu của trái tim yêu:
Nghìn năm sau bạn lại có Tiên Dung
tóc êm như mây, da mát tựa sương
Bạn lạ lùng bãi Tự Nhiên tiền định
từ trong cát, run thần tiên tột đỉnh
Từ bãi Tự Nhiên, tình yêu đã hòa nhập vào với tự nhiên và mang sức mạnh kỳ diệu của tự nhiên.
Disraeli nói: “Tất cả chúng ta đều sinh ra để được yêu, đó là nguyên lý của cuộc sinh tồn và cũng là cứu cánh duy nhất”
Tập thơ khép lại bằng bài tứ tuyệt được dùng làm tiêu ngữ, khái quát chủ đề của toàn tập:
Thơ thức lương tâm cứu rỗi người
Sưởi tan băng giá trái tim côi
Chắt chiu diệu mặc, làm sao thiếu
Tải đạo Dung Thông, rộng cõi đời.
Đến đây, nhà thơ Huy Dung đã dung thông với giáo sư tiến sĩ Nguyễn Huy Dung, tác giả dăm chục cuốn sách y khoa và sách “Rèn nhân cách”.