I.
Hôm qua mặt nước êm ả như một lớp thủy tinh, cả hôm nay cũng vậy. Đợt khí hậu nóng mùa thu trên đảo mới dịu và ấm làm sao! Nhưng không có ánh mặt trời.
Đã nhiều năm nay tôi mới biết một sự an bình như vậy. Hai mươi hoặc ba mươi năm, có lẽ; hay có lẽ đó là một cuộc đời khác. Nhưng đôi khi tôi cảm nhận được nó, chắc vậy rồi, vì lúc này tôi đang đi rong khắp chốn, ngâm nga nho nhỏ một giai điệu nhạc; lang thang trong niềm hoan lạc, yêu từng sợi rơm, từng hòn đá, và thấy như thể chúng cũng quan tâm đáp trả lại tôi.
Trong lúc đi trên lối mòn hoang ngập cỏ, băng qua cánh rừng, tim tôi run rẩy vì một niềm vui siêu thoát. Tôi nhớ lại một địa điểm ở vùng bờ phía đông biển Caspian, nơi có lần tôi đã đứng. Mọi thứ ở đây đều giống hệt vậy, với mặt nước tĩnh lặng, trầm trọng và xám màu thép như lúc này. Tôi bước qua cánh rừng, xúc động tận tâm can, và rưng rưng nước mắt chỉ vì niềm vui tuyệt đối, và luôn tự nhủ với mình: Thượng đế ở trên cao. Xin có mặt ở đây lần nữa…
Như thể tôi đã có mặt ở đó trước kia.
Cũng có lẽ tôi từng có mặt ở đó, đến từ một thời gian và vùng đất khác, nơi rừng cây và những con đường mòn cũng y hệt thế này. Có lẽ tôi lúc đó tôi là một cụm hoa, ở giữa khu rừng, hay có lẽ là một con bọ cánh cứng, ngụ cư trong một cây keo nào đó.
Và giờ đây tôi đã tới chốn này. Có lẽ tôi từng là một con chim và đã bay suốt chặng đường xa ấy. Hoặc là phần thịt của một thứ quả cây được một thương nhân Ba Tư gửi tới.
Nhìn xem, giờ tôi đã cách xa sự hối hả chen chúc của đô thành, cách xa mọi người và những tờ nhật báo; tôi đã chuồn khỏi những thứ đó, vì tiếng gọi đã cất lên với tôi lần nữa từ những con đường cô quạnh, im lìm, nơi tôi thuộc về. “Lần này mọi thứ sẽ đi đúng chỗ,” tôi tự nhủ, và lòng ngập tràn hy vọng. Chao ôi, trước kia tôi đã từng bỏ trốn khỏi thành phố như lần này, rồi sau đó lại quay về. Và lại bỏ trốn lần nữa.
Nhưng lần này tôi đã quyết. Tôi sẽ tìm được an bình, với bất cứ giá nào. Và hiện tại tôi đã có một căn phòng trong một ngôi nhà thôn dã tại đây, với cụ Gunhild chăm sóc cho tôi.
Đó đây, giữa những hàng thông là những cây thanh lương trà, với những chùm quả chín mọng màu san hô; lúc này những chùm quả đang rơi, chạm mạnh vào mặt đất. Chúng tự gặt hái bản thân và gieo hạt thêm lần nữa, một sự thừa thãi phi thường bị lãng phí hàng năm. Tôi có thể đếm được tới hơn ba trăm chùm quả trên một cây duy nhất. Và rải rác đó đây là những cây hoa vẫn còn đang nở rộ, những sự vật ngoan cố, sẽ không chịu chết, dù thời của chúng đã thật sự trôi qua.
Nhưng cả thời của cụ Gunhild cũng đã qua rồi – và bạn có nghĩ rằng bà sẽ chết? Bà tới lui khắp chốn như thể cái chết là một thứ không hề khiến cho bà phải quan tâm. Khi những ngư dân đặt chân lên bãi biển, để sơn lại thuyền hay mạng lại lưới, cụ Gunhild tới đó với đôi mắt đờ đẫn, nhưng với một trí óc sắc sảo không kém một ai để trả giá.
“Hôm nay giá cá thu thế nào?” bà hỏi.
“Cũng như hôm qua.”
“Vậy theo tôi các người cứ giữ lấy nó.”
Và cụ Gunhild trở về nhà.
Nhưng đám ngư dân biết rằng cụ Gunhild không phải là một trong số những kẻ chỉ vờ vịt bỏ đi; bà từng bỏ về như thế trước kia, quay lên ngôi nhà của mình, không một lần ngoảnh lại. Vì thế, họ gọi bà, “Nè,” và nói rằng hôm nay họ sẽ bán với giá bảy đồng nửa chục, xem bà là một khách hàng kỳ cựu.
Và cụ Gunhild mua cá.
Những áo quần giặt xong đang phơi trên dây; váy lót đỏ và sơmi xanh dương, và những quần áo lót dày cộm đến phi lý, mọi thứ được kéo sợi và dệt trên đảo bởi những bà cụ già vẫn còn sống sót. Nhưng cũng có những loại quần áo giặt xong khác: những chiếc áo sơmi loại tốt không tay áo, chính cái điều khiến một cơ thể xanh tái đi vì lạnh, và những chiếc áo lót bằng len màu hoa cà có độ dày của một sợi dây đàn. Và những thứ đáng tởm này có mặt ở đó bằng cách nào? Sao nữa, đó là mấy cô con gái, chắc vậy rồi, những nàng thiếu nữ thời hiện đại, đang giúp việc trong thị trấn, và kiếm được những thứ quần áo lòe loẹt này theo cách đó. Phải giặt chúng thật cẩn thận, không thường xuyên quá, và chúng chỉ tồn tại được một tháng. Và sẽ là một cảm giác trần trụi đáng yêu khi những cái lỗ bắt đầu giãn rộng.
Nhưng không có kiểu phi lý đó, chẳng hạn, ở đôi giày của cụ Gunhild. Vào những quãng thời gian rỗi rãnh thích hợp, bà tới gặp một trong số các ngư dân, giống bà về tuổi tác và đầu óc, và phần phía trên và đế giày được kỹ lưỡng khâu lại, thêm một lớp mỡ bôi da thuộc hữu hiệu khiến cho nước trở nên bất lực. Tôi từng thấy thứ mỡ đó được đun sôi trên bãi biển; trong đó có mỡ động vật, cũng có cả hắc ín và nhựa thông.
Hôm qua, khi đang lười nhát lang thang dọc bãi biển, nhìn những mảnh gỗ trôi dạt, những đống vảy cá và những hòn đá, tôi bắt gặp một mẩu nhỏ của một chiếc đĩa thủy tinh. Tôi không tài nào đoán được nó tới đó bằng cách nào; nhưng vật này dường như là một điều lầm lạc, một sự dối lừa, khi nhìn vào nó. Lẽ nào một ngư dân bất kỳ nào đó đã chèo thuyền tới đây cùng với nó, bỏ nó lại đó và chèo đi? Tôi bỏ mặc nó tại nơi nó nằm, nó dày, bình thường và thô thiển; có lẽ là một mảnh của một cửa sổ xe điện. Thời xưa thủy tinh còn hiếm và có màu lục sẫm. Thượng đế phù hộ cho những ngày xưa cũ, khi một vật gì đó có thể hiếm hoi!
Lúc này khói tỏa lên từ những túp lều ngư phủ ở đầu phía nam của đảo. Chiều xuống, và người ta nấu cháo đặc cho buổi tối. Khi xong bữa tối, những người dân tử tế lên giường ngủ, để mai lại thức giấc cùng ánh bình minh. Chỉ có bọn trẻ tuổi và ngốc nghếch là vẫn thơ thẩn từ nhà này sang nhà khác, trì hoãn giờ ngủ nghỉ của chúng, không hề biết đâu là điều tốt nhất cho bản thân chúng.
II
Sáng nay có một người đàn ông đặt chân lên đảo – tới để sơn ngôi nhà. Nhưng cụ Gunhild, thật đã quá già, và phần lớn thời gian đang chết dần mòn vì bệnh gout, bảo anh ta chẻ củi để nấu nướng trong vài hôm trước khi khởi sự. Nhiều lần tôi đã đề nghị được tự tay chẻ số củi đó, nhưng bà nghĩ quần áo của tôi quá tốt, và không cho tôi sờ tới cái rìu vì bất cứ lý do gì.
Tay thợ sơn này là một anh chàng thấp bé, dày cơm, với mái tóc đỏ hoe và mày râu nhẵn nhụi. Tôi quan sát anh ta từ sau một ô cửa sổ trong lúc anh ta làm việc, để xem anh ta xử lý cái rìu như thế nào. Thế rồi, khi nhận thấy anh ta đang nói chuyện với chính mình, tôi lẻn ra khỏi nhà để lắng nghe. Nếu anh ta hạ chệch một nhát rìu, anh ta nhẫn nại chấp nhận nó, và không tự làm khó mình; nhưng bất cứ lúc nào anh ta bị va phải khớp ngón tay, anh ta trở nên cáu kỉnh và thốt lên: “Fan! Fansmagt!”[1] – và rồi đột ngột nhìn quanh và bắt đầu ư ử ngâm nga một giai điệu nhạc để che lấp đi những lời nói của mình.
Vâng, tôi nhận ra người thợ sơn đó. Chỉ có điều, cái gã ma bùn này chả phải là thợ sơn gì hết, mà là Grindhusen, một trong những gã đàn ông mà tôi từng làm việc chung khi đang làm đường ở Skreia.
Tôi bước tới cạnh anh ta, hỏi anh ta có nhớ tôi không, và chúng tôi trò chuyện một lúc.
Đã rất nhiều năm từ lúc chúng tôi là thợ sửa chữa đường, Grindhusen và tôi; khi ấy chúng tôi còn là những thanh niên, nhảy múa dọc theo những con đường với những đôi giày thê thảm nhất, và ăn những gì chúng tôi có thể tìm ra miễn là có đủ tiền để trả. Nhưng khi chúng tôi có thừa tiền, sẽ là dịp để khiêu vũ với các cô nàng suốt đêm Thứ bảy, và một đám đông bọn công nhân chúng tôi tới nhập bọn, và cụ già trong nhà bán cà phê cho chúng tôi cho tới lúc hẳn bà đã kiếm được chút tiền còm. Sau đó chúng tôi làm việc cật lực suốt tuần kế tiếp, mong đợi ngày Thứ bảy lại đến. Nhưng Gridhusen, anh ta là một con sói đầu đỏ săn đuổi những nàng con gái.
Anh ta có nhớ những ngày xưa ở Skreia chăng?
Anh ta nhìn tôi, cẩn thận kiểm tra tôi với vẻ dè dặt, phải mất một hồi tôi mới có thể làm cho anh ta nhớ lại.
Vâng, anh ta nhớ khá rõ Skreia.
“Còn Anders Fila và ‘Spiralen’ và Petra?”
“Người nào?”
“Petra – cô gái của anh.”
“Phải, tôi nhớ cô ta. Rốt cuộc tôi đã bị cột chặt vào cô ta.” Grindhusen lại xoay sang chẻ củi.
“Anh đã bị cột chặt vào cô ta sao?”
“Phải, đó là kết thúc của câu chuyện. Phải thế thôi, tôi cho là vậy. Giờ tôi sẽ nói gì nhỉ? Anh đã trở nên khấm khá, qua vẻ ngoài của các thứ.”
“Sao chứ? Có phải anh đang nghĩ về bộ quần áo? Chính anh cũng đang mặc bộ quần áo ngày Chủ nhật mà, đúng không?”
“Anh đã đổi gì để lấy mấy thứ đang mặc?”
“Tôi không nhớ nổi, nhưng chả có gì nhiều. Không thể nói chính xác đó là gì.”
Grindhusen nhìn tôi ngạc nhiên và bật cười to.
“Gì chứ? Không thể nhớ anh đã trả thứ gì cho họ sao?”
Rồi anh ta trở nên nghiêm túc, lắc đầu và bảo: “Không, tôi dám nói là anh không nhớ. Không. Đó là cung cách của anh khi anh có đủ hay thừa tiền.”
Cụ Gunhild bước ra khỏi nhà, trông thấy chúng tôi đứng đó cạnh đống củi, đang lãng phí thời gian với cuộc trò chuyện dông dài, bà bảo với Grindhusen tốt hơn anh ta nên bắt đầu sơn.
“Vậy ra giờ anh đổi sang nghề thợ sơn à?”
Grindhusen không đáp, và tôi thấy rằng tôi đã nói một điều tôi không nên nói trước mặt những
người khác.
____________________________________________________________
[1] Đồ quỷ sứ! Quyền năng của quỷ! (Từ đây trở đi, những từ in nghiêng là chữ Na Uy hoặc chữ Pháp, theo bản tiếng Anh.)
III
Grindhusen làm việc đôi ba giờ với vữa và sơn. Và chẳng bao lâu một mé của ngôi nhà nhỏ, phía bắc, nhìn ra biển, đã sáng một màu đỏ vui tươi. Vào lúc nghỉ trưa, tôi bước ra và tới gần anh ta, với chút gì để uống, và chúng tôi nằm lăn ra đất một lúc, chuyện gẫu và hút thuốc.
“Thợ sơn? Không hẳn vậy, và đó là sự thật,” anh ta nói. “Nhưng nếu bất cứ một ai đi tới và hỏi tôi có thể sơn một bức tường không, sao chứ, dĩ nhiên là tôi có thể. Anh đã kiếm được thứ rượu Brændevin1 loại nhất đấy."
Vợ và hai đứa con của anh ta sống cách đó chừng bốn dặm, và anh ta về thăm họ mỗi Thứ bảy. Ngoài ra còn có hai cô con gái, cả hai đã trưởng thành, và một cô đã lấy chồng. Grindhusen đã lên chức ông ngoại. Ngay sau khi anh ta sơn xong ngôi nhà của cụ Gunhild – nó đã được sơn hai lớp – anh ta sẽ tới nhà của ông mục sư để đào một cái giếng. Luôn luôn có loại công việc nào đó phải thực hiện ở những ngôi làng. Khi đông tới, và sương giá bắt đầu dày lên, anh ta sẽ đi đốn gỗ trong rừng hoặc nằm lười nhát một thời gian ngắn, cho tới khi có việc gì khác xuất hiện. Giờ đây anh ta không phải chăm sóc một gia đình lớn, và ngày mai, không còn ngờ gì nữa, sẽ tự chăm sóc cho nó hệt như hôm nay.
“Giá tôi có thể xoay xở được,” Grindhusen nói, “tôi biết tôi nên làm gì. Tôi sẽ kiếm cho mình một số dụng cụ thợ nề.”
“Vậy ra anh còn là một thợ nề nữa hả?”
“Ờ, không hẳn thế, và đó là sự thật. Nhưng khi đào xong cái giếng đó, sao chứ, nó sẽ cần có cái thành giếng, điều đó rất rõ ràng…”
Tôi thả bộ quanh đảo như thường lệ, nghĩ tới việc này việc khác. Bình an, bình an, một sự an bình siêu việt đến với tôi bằng một giọng nói thinh lặng từ mỗi cây cối trong rừng. Và giờ đây, bạn hãy nhìn xem, chỉ còn sót lại vài con chim nhỏ; chỉ có vài con quạ lặng lẽ bay từ nơi này sang nơi khác rồi đậu lại. Và những chùm quả thanh lương trà rụng xuống với một tiếng rơi thịch dỗi hờn rồi tự chôn mình vào đám rêu.
Có lẽ Grindhusen nghĩ đúng: chắc chắn ngày mai sẽ tự chăm nom cho nó, hệt như hôm nay. Suốt hai tuần qua tôi không nhìn thấy một tờ báo nào, và với tất cả những điều đó, tôi vẫn ở đây, còn sống và khỏe mạnh, đang có một bước tiến triển lớn lao về thanh tĩnh nội tâm; tôi ca hát, ưỡn ngực và đứng quan sát những vì sao ban đêm với mái đầu trần.
Suốt mười tám năm qua tôi đã ngồi trong những quán cà phê, cất tiếng gọi người phục vụ nếu một chiếc nĩa không được sạch: tôi chưa bao giờ gọi Gunhild về việc những cái nĩa có sạch hay không! Giờ đã có Grindhusen, tôi tự nhủ; cậu có chú ý không khi anh ta đốt cái tẩu của mình lên, hay cách anh ta dùng que diêm cho tới đoạn cuối cùng nhưng chả bao giờ bị phỏng tay ra sao? Tôi trông thấy một con ruồi bò trên bàn tay của anh ta, nhưng anh ta cứ mặc cho nó bò; có lẽ anh ta chẳng bao giờ chú ý tới việc nó đang ở đó. Đó là cách mà một gã đàn ông nên cảm thấy đối với những con ruồi…
Vào lúc xế chiều, Grindhusen lấy thuyền và chèo đi. Tôi đi dọc bãi biển, hát cho mình nghe một chút, ném mấy hòn đá xuống nước, và lôi những mảnh gỗ trôi dạt lên bờ. Những vì sao đã hiện ra, và có cả vầng trăng. Sau vài giờ Grindhusen quay lại, với một bộ đồ nghề thợ nề xôm tụ đặt trong thuyền. Đã lấy trộm ở đâu đó, tôi nghĩ bụng. Chúng tôi vác phần của mỗi người, và giấu mấy thứ đồ nghề giữa những thân cây.
Sau đó đêm buông xuống, và mỗi người chúng tôi đi theo con đường riêng biệt của mình.
Grindhusen hoàn tất công việc sơn nhà vào xế trưa hôm sau, nhưng đồng ý tiếp tục chẻ củi cho tới sáu giờ để đủ một ngày công. Tôi đi ra chỗ chiếc thuyền của Gunhild và chèo ra biển câu cá, để không có mặt ở đó khi anh ta ra đi. Tôi không câu được con cá nào, và ngồi trên thuyền thì khá lạnh; tôi cứ nhìn đồng hồ đeo tay hết lần này sang lần khác. Cuối cùng,vào khoảng bảy giờ: hẳn giờ này anh ta đã đi rồi, tôi tự nhủ, và chèo trở về nhà. Grindhusen đã đặt chân lên đất liền, và gọi với sang tôi từ chỗ đó: “Farvel!”[2]
Từ đó khiến tôi run lên vì ấm áp; như thể nó là một tiếng gọi từ tuổi trẻ của tôi, từ những ngày của một thế hệ đã trôi qua.
Tôi chèo qua chỗ anh ta và hỏi:
“Anh có thể đào cái giếng đó một mình không?”
“Không, tôi sẽ phải tìm thêm một người nữa.”
“Nhận tôi đi,” tôi nói. “Hãy chờ tôi ở đây trong lúc tôi lên đó và giải quyết công chuyện ở ngôi nhà.”
Khi đi được nửa đường, tôi lại nghe tiếng Grindhusen gọi:
“Tôi không đợi suốt đêm ở đây được. Và dù sao thì tôi cũng không tin anh định làm điều đó.”
“Chỉ chờ một phút thôi mà. Tôi sẽ quay xuống ngay.”
Và Grindhusen ngồi xuống bãi biển chờ tôi. Anh ta biết tôi vẫn còn sót lại một ít thứ rượu Brændevin loại nhất đó.
----------------------------------------------
1 Rượu mạnh.
2 Tạm biệt.
IV
Chúng tôi tới nhà ông mục sư vào một ngày Thứ bảy. Sau nhiều ngờ vực, cuối cùng Grindhusen đã đồng ý nhận tôi làm bạn đồng hành. Tôi đã mua các thứ cần dùng và vài bộ đồ lao động, và hiện đang đứng đó, trong chiếc áo blu và đôi ủng cao cổ, sẵn sàng bắt tay vào việc. Tôi tự do và vô danh; tôi đã học được cách đi với những bước sải dài, nặng nề, còn về vẻ ngoài của một người làm công, tôi đã có sẵn điều đó ở cả gương mặt và hai bàn tay. Chúng tôi ngụ ngay trong nhà ông mục sư, và nấu ăn trong nhà ủ bia ở ngoài sân.
Và chúng tôi khởi sự đào.
Tôi thực hiện phần việc của mình, và Grindhusen không hề lầm lẫn khi nhận tôi làm chung. “Nói cho cùng, anh sẽ trở thành một tay thợ loại nhất ở công việc này,” anh ta nói.
Sau khi chúng tôi đã làm việc một lúc, ông mục sư bước ra nhìn, và chúng tôi nhấc mũ chào. Ông ta là một người trọng tuổi, lặng lẽ và lịch sự trong thái độ và lời lẽ; những nếp nhăn li ti tỏa thành hình rẽ quạt từ hai đuôi mắt, giống như những dấu vết của một ngàn nụ cười tử tế. Ông ta xin lỗi vì đã cắt ngang, và hy vọng chúng tôi không phiền – nhưng họ gặp rất nhiều rắc rối hàng năm khi lũ gà chui vào vườn. Chúng tôi có thể gác cái giếng lại một lúc, đi vòng quanh để xem xét hàng rào của khu vườn không? Cụ thể có một chỗ…
Grindhusen đáp: tất nhiên; chúng tôi sẽ lo liệu ổn thỏa việc ấy cho ông ta.
Thế là chúng tôi tới đó và dựng lại bức rào đổ. Trong lúc chúng tôi đang bận rộn, một tiểu thư bước ra và đứng nhìn. Chúng tôi nhã nhặn chào nàng, và tôi nghĩ trông nàng thật là xinh xắn. Sau đó một cậu trai đang lớn bước ra nhìn, và đưa ra mọi loại câu hỏi. Hai người này là chị em, không còn ngờ gì nữa. Và công việc tiếp tục khá dễ dàng với hai người trẻ tuổi đứng đó nhìn.
Rồi chiều xuống. Grindhusen đi về nhà, bỏ tôi ở lại. Đêm đó tôi ngủ trong vựa cỏ khô.
Ngày hôm sau là Chủ nhật. Tôi không dám mặc bộ quần áo thành thị vì trông chúng có vẻ vượt khỏi địa vị của tôi, nhưng cũng cố sức làm cho bộ quần áo lao động của tôi được tươm tất, rồi lười lĩnh dạo quanh khu vực trong sự tĩnh lặng của buổi sáng Chủ nhật. Tôi tán gẫu với những tay nông dân và nhập bọn với họ để chuyện trò vu vơ với mấy nàng thiếu nữ; khi chuông bắt đầu đổ báo hiệu giờ tới nhà thờ, tôi vào nhà để hỏi xem tôi có thể mượn một cuốn kinh cầu nguyện hay không, và con trai của ông mục sư tự tay mang tới cho tôi một cuốn. Một trong số mấy người đàn ông cho tôi mượn một cái áo khoác; thật sự, nó không đủ to, nhưng khi cởi cái áo blu và áo gi-lê ra, tôi cũng mặc vào được. Và thế là tôi tới nhà thờ.
Sự thanh tĩnh nội tâm tôi từng đạt được trước những nỗi đau để lập thân trên đảo chứng tỏ vẫn còn quá bé nhỏ; với âm thanh run rẩy đầu tiên của chiếc đàn organ, tôi đã bị xé rời khỏi tâm trạng của mình và suýt bật khóc to. “Im lặng nào, đồ ngốc,” tôi tự nhủ, “đây chỉ là chứng suy nhược thần kinh.” Tôi đã chọn một chỗ ngồi tách rời khỏi số còn lại và cố hết sức che đậy cảm xúc của mình. Tôi rất mừng khi buổi lễ kết thúc.
Sau khi đã luộc xong thịt và ăn bữa tối, tôi được mời vào bếp để uống một cốc cà phê. Và trong lúc tôi ngồi đó, Frøkenen1, người thiếu nữ mà tôi đã nhìn thấy hôm trước, bước vào; tôi đứng lên cúi đầu chào nàng và nàng gật đầu đáp lễ. Nàng thật quyến rũ, với tuổi trẻ và đôi bàn tay xinh xắn. Khi đứng lên đi ra, tôi quên mất bản thân và nói:
“Cô là người tử tế nhất, tôi chắc vậy, tiểu thư thân mến của tôi!”
Nàng ngạc nhiên nhìn tôi, cau mày, và màu hồng lan ra trên đôi má của nàng cho tới khi chúng đỏ ửng lên. Sau đó với một cái hất đầu, nàng quay lưng rời khỏi phòng. Nàng rất trẻ.
Chà, tôi đã làm một việc thật hay ho!
Khốn khổ tận tâm can, tôi len lén chuồn vào rừng để nấp. Đồ ngốc xấc xược, tại sao tôi không giữ mồm giữ miệng vậy nhỉ! Trong số tất cả những điều lố bịch để nói ra…
Nhà của ông mục sư nằm trên sườn một ngọn đồi nhỏ; từ đỉnh đồi, mảnh đất trải ra, bằng phẳng, với những khoảng cây rừng và khoảng trống xen nhau. Tôi chợt nhận ra đây mới là nơi thích hợp để đào cái giếng, rồi sau đó bắc một đường ống xuôi con dốc tới ngôi nhà. Khi tôi cố phán đoán tốt nhất độ cao, có vẻ như nó thừa sức tạo nên áp lực cần thiết; trên đường trở về, tôi ước chừng độ dài bằng cách đếm bước: hai trăm năm mươi bộ.
Nhưng nói cho cùng, phải chăng đó là công việc của tôi? Ôi chao, xin đừng để cho tôi lặp lại sai lầm lần nữa, và xúc phạm những người dân này bằng cách nói năng vượt quá địa vị của tôi.
------------------------------------------------
[1] Thiếu nữ, tiểu thư.
V
Grindhusen lại tới vào sáng Thứ hai, và chúng tôi lao vào đào bới như trước. Ông mục sư già bước ra nhìn, và hỏi chúng tôi có thể giúp ông dựng một cây cột trên con đường tới nhà thờ hay chăng. Ông rất cần tới cây cột đó; trước đây nó từng đứng đó, nhưng đã bị gió xô ngã; ông dùng nó để đóng lên những tấm bảng ghi chú và thông báo.
Chúng tôi dựng lên một cây cột mới, và gắng sức làm cho nó đứng thẳng như một cây nến trên giá nến. Tiện tay, chúng tôi cũng trùm kẽm lên đầu cột.
Trong lúc đang làm cái mũ trùm, tôi bảo Grindhusen đề nghị nên sơn đỏ cây cột; anh ta vẫn còn lại chút ít sơn đỏ từ công việc ở nhà cụ Gunhild. Nhưng ông mục sư muốn sơn nó màu trắng, và Grindhusen ngại việc cự cãi nên thận trọng đồng ý với tất cả những gì ông ta nói, cho tới khi rốt cuộc tôi xen vào một lời, bảo rằng những bảng thông báo bằng giấy trắng sẽ nổi bật hơn trên màu đỏ. Khi nghe nói thế, ông mục sư mỉm cười, với những nếp nhăn vô tận quanh đôi mắt, và bảo: “Phải, phải, dĩ nhiên, anh hoàn toàn đúng.”
Và thế là đủ; chỉ cần nụ cười và câu nói rằng tôi đúng đã khiến lòng tôi rất đỗi mừng rỡ, tự hào.
Sau đó Frøkenen xuất hiện, nói vài lời với Grindhusen; thậm chí còn nói đùa với anh ta, hỏi cái cột đỏ thắm dựng trên đường đó để làm gì. Nhưng nàng không nói gì với tôi hết, thậm chí không thèm nhìn tới tôi khi tôi nhấc mũ.
Ngày hôm đó, bữa ăn là một thử thách đau đớn đối với tôi, không phải vì thức ăn tệ, mà vì Grindhusen, anh ta ăn món xúp với một cung cách đáng tởm, và mồm anh ta bóng nhờn mỡ.
“Anh ta sẽ như thế nào khi ăn cháo đặc nhỉ?” Tôi nghĩ thầm, bực bội.
Sau đó, khi anh ta ngã lưng vào chiếc ghế dài để nghỉ ngơi sau bữa ăn với cùng tình trạng mồm bóng mỡ đó, tôi nói thẳng với anh ta:
- Trời ơi, anh bạn, anh có chịu lau sạch miệng của anh không vậy?
Anh ta nhìn tôi chằm chặp, đưa một bàn tay lên lau miệng. “Miệng hả” anh ta nói.
Khi đó tôi cố biến nó thành một câu nói đùa và nói: “Haha, đúng đó!” Nhưng tôi bất mãn với chính mình, vì tất cả những điều đó, và rời khỏi nhà ủ bia ngay sau đó.
Rồi tôi chợt nghĩ tới Frøkenen. “Mình sẽ làm cho nàng phải trả lời khi mình chào nàng.” Tôi tự nhủ. “Mình sẽ để cho nàng sớm nhận ra mình không hề là một tên ngu ngốc.” Còn có công việc về cái giếng và đường ống nước; nếu tôi lập ra một kế hoạch để hoàn thành toàn bộ công trình thì sao nhỉ! Tôi không có dụng cụ để đo độ cao thấp của ngọn đồi… được thôi, tôi có thể tạo ra một thứ hữu dụng. Và tôi bắt tay vào việc. Một cái ống bằng gỗ, với hai cái chụp đèn gắn vào bằng mát tít, và tất cả chứa đầy nước.
Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra có nhiều việc nho nhỏ cần để mắt tới ở nhà ông mục sư – những công việc vặt vãnh ở chỗ này chỗ khác. Một bậc thềm đá cần chỉnh cho thẳng lại, một bức tường cần được sửa; cái cầu thang bắc tới kho chứa thóc cần được kéo dài trước khi có thể đưa thóc vào. Ông mục sư thích mọi thứ trong nhà đều ngăn nắp và trật tự – và với chúng tôi tất cả cũng như nhau, khi xét tới việc chúng tôi được trả công theo ngày. Nhưng theo thời gian, tôi ngày càng trở nên mất kiên nhẫn với sự có mặt của người bạn làm chung. Ví dụ, việc nhìn thấy anh ta nhặt một ổ bánh từ bàn lên, kê nó sát vào ngực, rồi cắt ra một lát với một con dao bỏ túi bóng mỡ mà anh ta luôn luôn đưa vào miệng, thật là một cực hình đối với tôi. Và thêm nữa, anh ta thường không tắm rửa suốt cả tuần, từ Chủ nhật này sang Chủ nhật khác. Vào buổi sáng, trước khi mặt trời ló dạng, và vào buổi chiều tối, sau khi nó đã lặn, luôn luôn có một giọt lấp lánh treo lủng lẳng ở chóp mũi của anh ta. Rồi tới những cái móng tay của anh ta! Còn về đôi lỗ tai của anh ta, đơn giản là chúng đã biến dạng.
Ôi chao! Tôi là một gã nhà giàu mới phất đã học được những cung cách tốt đẹp trong những quán cà phê thị trấn. Và do tôi không thể kềm chế được việc thỉnh thoảng nói với người bạn của tôi những gì tôi nghĩ về cung cách bẩn thỉu của anh ta, giữa chúng tôi đã nảy sinh một cảm giác khó chịu nhất định, và tôi sợ rằng chúng tôi sẽ sớm phải tách rời nhau. Do vậy, hầu như giờ đây chúng tôi không nói năng gì ngoài những điều cần thiết.
Và cái giếng còn đó, vẫn chưa đào xong như trước. Chủ nhật đến, và Grindhusen đã trở về nhà.
Hiện giờ tôi đã làm xong cái dụng cụ thí nghiệm của mình. Vào buổi xế trưa, tôi trèo lên mái nhà chính và đặt nó ở đó. Tôi nhìn thấy ngay rằng tầm nhìn cắt với sườn đồi nhiều mét bên trên đỉnh mái nhà. Tốt. Ngay cả khi hạ mực nước xuống một mét, vẫn còn đủ và thừa áp lực.
Trong lúc tôi bận bịu trên đó, con trai của ông mục sư nhìn thấy tôi. Cậu ta tên là Harald Meltzer. Và tôi đang làm gì trên đó? Đang đo ngọn đồi; để làm gì? Tôi muốn biết độ cao để làm gì? Tôi có thể cho cậu ta thử không?
Sau đó tôi tìm ra một khúc dây dài mười mét, và đo ngọn đồi từ chân tới đỉnh, với sự giúp đỡ của Harald Meltzer. Khi chúng tôi trở xuống nhà, tôi đề nghị được gặp ông mục sư, và nói với ông về kế hoạch của tôi.
VI
Ông mục sư nhẫn nại lắng nghe, và không phản đối ý tưởng đó ngay.
“Thật thế!” ông nói với một nụ cười. “Sao, có lẽ anh nói đúng. Nhưng việc nầy sẽ tốn bộn tiền. Vì sao chúng ta phải chuốc lấy phiền toái vì nó chứ?”
“Từ nhà tới cái giếng mà chúng tôi đã đào là bảy mươi bước. Các cô gái phải đi bảy mươi bước qua bùn lầy và tuyết các thứ trong mùa hè và mùa đông.”
“Điều đó đúng, vâng. Nhưng cái cách kia sẽ tiêu tốn một món tiền kinh khủng.”
“Không kể tới cái giếng – trong bất cứ trường hợp nào ông cũng phải có nó; toàn bộ việc lắp đặt, công làm và vật liệu, sẽ không hơn hai trăm Kroner,” tôi nói.
Ông mục sư có vẻ ngạc nhiên.
“Tất cả chỉ thế thôi sao?”
“Vâng.”
Tôi chờ một lát mỗi lần trước khi trả lời, như thể tôi có bản tính chậm chạp bẩm sinh. Nhưng thật ra tôi đã nghĩ tới mọi việc trước đó rồi.
“Nó sẽ rất thuận tiện, điều đó đúng,” ông mục sư trầm ngâm nói. “Và cái chậu nước trong bếp khá choán chỗ.”
“Và nó còn đưa nước tới các phòng ngủ nữa.”
“Tất cả các phòng ngủ đều ở tầng trên. Tôi e là nó sẽ không có tác dụng ở đó.
“Chúng ta có thể đưa các đường ống lên tầng một.”
“Anh nghĩ là có thể sao? Lên tới các phòng ngủ? Anh nghĩ là có đủ áp lực cho việc đó hả?”
Tới đây tôi chờ lâu hơn bình thường trước khi trả lời, như một gã lừ đừ chậm nghĩ, không thực hiện mọi việc một cách khinh suất.
“Tôi nghĩ tôi có thể trả lời với chiều cao của mái nhà,” tôi nói.
“Thật thế!” ông mục sư cảm thán. Và lại nói: “Đi và chỉ cho chúng tôi xem nơi anh nghĩ sẽ đào cái giếng.”
Chúng tôi đi lên đồi, ông mục sư, tôi, Harald, và tôi cho ông ta xem công cụ của tôi, chỉ cho ông ta thấy rằng sẽ có thừa áp lực.
“Tôi phải bàn với cậu kia về việc này,” ông nói.
Nhưng tôi gạt Grindhusen ra ngay lập tức, và bảo: “Grindhusen hả? Anh ta không biết gì về công việc này cả.”
Ông mục sư nhìn tôi.
“Thật thế ư?”
Sau đó chúng tôi đi xuống, ông mục sư như tự nói với mình:
“Hoàn toàn đúng, phải. Lấy nước vào mùa đông là một công việc vô tận. Và cả mùa hè nữa, về vấn đề đó. Tôi phải xem mấy người phụ nữ nghĩ thế nào về việc này.”
Và ông ta đi vào nhà.
Sau khoảng mười phút, tôi được gọi đi vòng ra mấy bậc thềm trước nhà; lúc này toàn bộ gia đình đang ở đó.
“Vậy ra anh là người sắp đưa nước vào nhà?” Fruen1 nhã nhặn nói.
Tôi nhấc mũ ra và cúi chào với một cung cách lừ đừ, nặng nề, và ông mục sư thay tôi đáp: phải, chính là người này.
Frøkenen liếc nhìn tôi với vẻ tò mò, rồi bắt đầu nói thì thầm với cậu em trai. Fruen tiếp tục với nhiều câu hỏi – nó có thật sự là một nguồn cung cấp nước như người ta có trong thị trấn, chỉ cần mở vòi nước và đã có sẵn nước? Cả cho các tầng trên? Hai trăm Kroner? “Thật sự, tôi nghĩ ông nên đồng ý,” bà nói với ông chồng.
“Bà nghĩ thế à? Được, chúng ta hãy đi lên đỉnh đồi, bàn tính mọi điều xem sao.”
Chúng tôi đi lên đồi, tôi dựng cái máy đo lên và để cho họ nhìn qua.
“Tuyệt diệu!” Fruen nói.
Nhưng Frøkenen không hề nói lời nào.
Ông mục sư hỏi:
“Nhưng anh có chắc là ở đây có nước không?”
Tôi thận trọng trả lời, như một người có phán xét tỉnh táo, rằng đó không phải là một điều có thể đoan chắc trước, nhưng có mọi dấu hiệu của nước.
“Những dấu hiệu nào vậy?” Fruen hỏi.
“Bản chất của đất. Và bà sẽ nhận ra rằng có liễu và liễu gai mọc quanh đây. Và chúng thích đất ẩm.”
Ông mục sư gật đầu và bảo:
“Anh ta biết công việc của mình, Marie, bà có thể thấy.”
Trên đường trở về, Fruen đi xa tới mức đưa ra một lý luận hoàn toàn không có gì bảo đảm rằng bà có thể xoay xở để giảm bớt một người hầu khi nước đã được dẫn vào nhà. Để không làm bà thất vọng, tôi xen vào:
“Ít nhất bà có thể vào mùa hè. Bà có thể tưới cả khu vườn với một cái ống gắn vào vòi và đưa ra ngoài qua cửa sổ tầng hầm.”
“Tuyệt diệu!” bà cảm thán.
Nhưng tôi không mạo hiểm tới mức nói về việc đưa một đường ống vào chuồng bò. Tôi đã nhận ra rằng với một cái giếng có kích thước gấp đôi, một đường ống phụ băng ngang qua sân, có thể tiết kiệm số người giúp việc vắt sữa ngang với số người giúp việc bếp núc trong nhà. Nhưng điều đó sẽ cũng sẽ tăng gần gấp đôi chi phí. Không, việc đưa ra một dự án lớn như thế không khôn ngoan tí nào.
Dù sao đi nữa, tôi phải đồng ý chờ cho tới khi Grindhusen trở lại. Ông mục sư bảo ông muốn cân nhắc kỹ.
--------------------------------------------------
[1] Phu nhân.
VII
Thế nên giờ đây tôi phải tự mình nói với Grindhusen, và chuẩn bị tinh thần cho anh ta trước sự sắp xếp mới. Và để anh ta không hướng sự ngờ vực vào tôi, tôi đổ mọi thứ cho ông mục sư, bảo rằng đó là ý tưởng của ông ta, nhưng tôi cũng ủng hộ ông ta. Grindhusen không phản đối; anh ta nhận ra ngay điều đó có nghĩa là chúng tôi có thêm việc làm, vì trong bất cứ trường hợp nào chúng tôi cũng phải đào giếng, ngoài ra còn những mương đặt đường ống nữa.
May làm sao, vào sáng Thứ hai ông mục sư bước ra và nói nửa đùa nửa thật với Grindhusen:
“Người bạn của anh đây và tôi đã quyết định sẽ đào giếng trên đồi, và đưa một đường ống tới nhà. Anh nghĩ sao về việc đó? Một ý tưởng điên rồ?”
Grindhusen nghĩ đó là một ý tưởng loại nhất.
Nhưng khi chúng tôi bàn bạc và cả ba người cùng đi lên để xem vị trí đào giếng, Grindhusen bắt đầu nghi ngờ tôi dính dáng tới việc này nhiều hơn mức tôi nói. Chúng tôi nên hạ thấp đường ống, anh ta nói, khi xét tới sương giá…
“Một mét ba mươi là khá rồi,” tôi nói.
…. và điều đó sẽ tốn một món tiền to.
“Bạn anh đây đã nói tất cả chỉ tốn hai trăm Kroner,” ông mục sư trả lời.
Grindhusen không biết gì về việc ước đoán, và chỉ có thể nói:
“Tốt, tốt, dù sao thì hai trăm Kroner là một khoản tiền lớn.”
Tôi nói:
“Ở Aabot sẽ ít hơn nhiều khi ông dời đi.”
Ông mục sư kinh ngạc nhìn tôi.
“Aabot? Nhưng tôi đâu có nghĩ tới việc rời khỏi nơi này,” ông ta nói.
“Sao, vậy thì ông sẽ sử dụng nó hết công suất. Và có thể ông sẽ tận hưởng nó trong suốt nhiều năm,” tôi nói.
Tới đây ông mục sư nhìn tôi chằm chặp, rồi hỏi:
“Anh tên gì vậy?”
"Knut Pedersen."
“Anh từ đâu đến?”
“Từ Nordland.”
Nhưng tôi hiểu vì sao ông ta hỏi, và quyết không nói theo cung cách sách vở đó thêm nữa.
Dù sao, cái giếng và đường ống đã được quyết định, và chúng tôi bắt tay vào việc…
Những ngày kế tiếp khá vui vẻ. Thoạt tiên tôi hơi lo âu về việc chúng tôi có thể tìm ra nước ở trên đồi hay không, và tôi ngủ không ngon giấc trong vài đêm. Nhưng khi nỗi e sợ đó qua đi, tất cả những gì còn lại là công việc giản đơn, minh bạch. Có đủ nước; sau vài hôm chúng tôi phải dùng xô múc nước ra mỗi buổi sáng. Ở dưới thấp hơn là đất sét, và chẳng bao lâu quần áo của chúng tôi đã trở nên thảm hại vì công việc.
Chúng tôi đào một tuần, và tuần kế tiếp thu lượm đá để xây thành giếng. Đây là công việc mà cả hai chúng tôi đã quen thuộc từ những ngày trước ở Skreia. Sau đó, chúng tôi đào tiếp một tuần nữa, tới lúc này chúng tôi đã đào được đủ sâu. Đáy giếng sớm mềm đi đến nỗi chúng tôi phải bắt đầu xây thành ngay, không thì những bức tường đất sét sẽ đổ ập lên đầu chúng tôi.
Tuần lại tuần cứ thế trôi qua, với công việc đào và xây. Đó là một cái giếng lớn, và là một công trình đẹp đẽ; ông mục sư rất hài lòng về nó. Grindhusen và tôi bắt đầu hòa hợp với nhau hơn; và khi anh ta nhận ra tôi không đòi hỏi gì hơn là một khoản tiền công công bằng, dù phần lớn công việc được thực hiện dưới sự hướng dẫn của tôi, anh ta mong muốn làm một điều gì đó để đền đáp cho tôi, và lưu tâm hơn tới cách xử sự ở bàn ăn của mình. Tôi hoàn toàn không thể ước ao có được một khoảng thời gian hạnh phúc hơn; và chẳng có thứ gì trên đời có thể thuyết phục tôi quay lại cuộc sống thị trấn thêm lần nữa!
Vào những chiều tối, tôi đi lang thang trong rừng, hay trong khu nghĩa trang, đọc những câu khắc trên các mộ bia, suy nghĩ tới chuyện này chuyện khác. Tôi cũng tìm kiếm một cái móng tay từ một cái xác nào đó. Tôi muốn có một cái móng tay; đó là một ham thích của tôi, một ý thích bất chợt nhỏ nhoi. Tôi đã tìm được một mẩu rễ bạch dương xinh xắn mà tôi muốn chạm thành một cái tẩu với hình dáng một nắm tay nắm chặt; ngón cái sẽ là cái nắp, và tôi muốn có một cái móng tay để dán vào, làm cho nó đặc biệt giống như thật. Ngón đeo nhẫn sẽ có một chiếc nhẫn nhỏ xíu vòng quanh.
Việc suy nghĩ về những chuyện vặt vãnh như thế khiến tâm trí tôi bình thản và thoải mái. Giờ đây tôi không còn vội vã với bất kỳ điều gì trong cuộc sống. Tôi có thể mộng mơ tùy thích, không có gì khác để làm; những chiều tối là của riêng tôi. Nếu có thể, tôi cũng sẽ tới xem và bày tỏ một cảm giác tôn kính nào đó đối với sự thiêng liêng của nhà thờ và sự kinh khủng của cái chết; tôi vẫn còn một ký ức về sự thần bí từ những ngày mà giờ đây đã tụt lại sau lưng rất xa, và ước gì tôi có thể có chút phần chia sẻ nào trong đó thêm lần nữa. Có lẽ khi tôi tìm được cái móng tay đó, từ những ngôi mộ sẽ phát ra một giọng nói: “Đó là của tôi!” và tôi sẽ buông rơi cái móng tay trong niềm khiếp hãi, rồi co giò bỏ chạy.
“Tôi ước gì cái chong chóng trên kia đừng có kêu cọt kẹt như thế,” thỉnh thoảng Gridnhusen lại nói.
“Anh sợ à?”
“Ồ, không hẳn là sợ; không. Nhưng đôi khi nó mang tới cho anh một cảm giác ghê ghê khi nghĩ tới tất cả những cái xác đang nằm đó rất gần.”
Con người hạnh phúc!
Một hôm Harald chỉ tôi cách trồng quả thông và những bụi cây nhỏ. Trước kia tôi không biết tới loại công việc này; hồi còn đi học chúng tôi không học thứ này. Nhưng giờ khi đã thấy cách làm, tôi bận bịu trồng cây vào những ngày Chủ nhật; và để đáp lại, tôi dạy cho Harald một hai thứ nho nhỏ mới mẻ đối với lứa tuổi của cậu ta, và chúng tôi trở thành bạn bè.
VIII
Mọi thứ hẳn sẽ tốt đẹp nếu không vì Frøkenen, cô con gái trong nhà. Càng ngày tôi càng ưa thích nàng hơn. Tên của nàng là Elischeba, Elisabeth. Có lẽ không đẹp sắc sảo; nhưng nàng có đôi môi đỏ thắm, và một ánh mắt thiếu nữ biếc xanh buộc người ta phải nhìn thấy vẻ đẹp của nàng. Elischeba, Elisabeth – con của bình minh đầu tiên của cuộc đời, với đôi mắt nhìn xuống cõi trần. Một chiều nọ nàng nói chuyện với chàng trai Erik đến từ Gaard (khu vườn) lân cận, và đôi mắt nàng tràn ngập sự ngọt ngào và một thứ gì đó chín muồi.
Với Grindhusen thì mọi việc đều tốt đẹp. Anh ta đã săn lùng các cô gái hồi còn trẻ, và vẫn còn lượn lờ với cái mũ kéo lệch sang một bên, do thói quen. Nhưng giờ đây anh ta khá lặng lẽ và thuần tính, có thể nói thế – đó là cung cách của tự nhiên. Nhưng có một số người không theo cung cách tự nhiên và trở nên thuần tính; và rốt cuộc làm sao nó thích hợp với họ? Rồi còn có Elisabeth bé bỏng; và nàng không hề bé nhỏ chút nào, mà cao như mẹ nàng. Và nàng giống mẹ nàng như đúc.
Từ hôm Chủ nhật đầu tiên đó, họ không còn mời tôi vào bếp uống cà phê, và tôi tự lo cho mình nếu họ không quan tâm, nhưng tránh xa họ. Tôi vẫn còn xấu hổ khi nhớ lại. Nhưng rồi, cuối cùng, vào giữa tuần, một trong các cô hầu tới với một tin nhắn rằng tôi đừng bỏ vào rừng mỗi chiều Chủ nhật nữa, mà hãy tới uống cà phê với những người còn lại. Chính Fruen đã nói thế.
Tốt!
Bây giờ tôi có nên mặc bộ đồ đẹp nhất hay không? Không có hại gì, có lẽ, trong việc để cho nàng thiếu nữ đó nhận ra rằng tôi là một kẻ đã chọn cách quay lưng khỏi cuộc sống thành đô, khoác lớp áo ngụy trang của một người giúp việc, vì tôi là một người trong số họ, có thể đưa nước vào một ngôi nhà. Nhưng khi đã mặc đồ xong, tôi cảm thấy bộ quần áo lao động của tôi giờ thích hợp với tôi hơn; tôi lại cởi bộ đồ đẹp nhất ra, và cẩn thận giấu chúng trong giỏ xách.
Nhưng, như chuyện đã xảy ra, Frøkenen không phải là người tiếp đón tôi vào chiều Chủ nhật đó, mà là Fruen. Bà trò chuyện với tôi một lúc, và đã trải một mảnh vải trắng bên dưới cốc của tôi.
“Cái kiểu ăn trứng của anh có khả năng khiến chúng tôi phải tiêu tốn thêm trước khi chúng tôi ăn xong,” Fruen nói với tiếng cười nhân hậu. “Thằng bé đã ăn hết nửa chục trứng rồi.”
Tôi đã dạy Harald cách tuồn một quả trứng đã luộc chín còn vỏ qua cổ một cái bình thon cổ, bằng cách rút bớt không khí bên trong. Đó là thí nghiệm vật lý duy nhất mà tôi biết.
“Nhưng cái cách bẻ gãy chiếc que trong hai thòng lọng giấy thì thật sự thú vị,” Fruen nói tiếp.
“Bản thân tôi không hiểu loại đó… Nhưng khi nào thì cái giếng hoàn thành?”
“Cái giếng đã xong. Mai chúng tôi bắt đầu đào mương.”
“Việc đó mất bao lâu?”
“Khoảng một tuần. Rồi người thợ có thể tới và đặt các đường ống.”
“Không! Thật thế sao?”
Tôi nói lời cám ơn rồi bước ra. Fruen có một cách thức mà bà đã duy trì từ nhiều năm trước, không còn ngờ gì nữa; thi thoảng bà lại liếc mắt sang một phía, dù không có chút ranh mãnh nào trong những gì bà nói…
Lúc này cánh rừng phô bày một lớp lá vàng ở nơi này nơi khác, mặt đất và không khí bắt đầu tỏa mùi của mùa thu. Hiện chỉ có những cây nấm đang phát triển tối đa, lú lên ở khắp nơi, và nảy nở dày đặc xum xuê trên những nhánh gỗ – nấm sữa, và loại nấm thường, và nấm nâu. Đó đây, một cây nấm độc vươn cao cái mũ nấm lốm đốm, khoe màu đỏ rực một cách không xấu hổ. Một sự vật kỳ diệu! Ở đây nó mọc trên cùng một chỗ với các loại nấm không độc, được bồi bổ bởi cùng loại đất, ánh mặt trời và mưa xuống từ trời như chúng; nó bổ dưỡng và đậm đà, ăn ngon, chỉ trừ việc nó đầy chất muscarin độc hại. Có lần tôi đã nghĩ tới việc bịa ra một câu chuyện cổ hay ho về loài nấm độc, và bảo rằng tôi đã đọc được trong một cuốn sách.
Với tôi, luôn là một lạc thú khi ngắm nhìn những loài hoa và côn trùng trong cuộc đấu tranh sinh tồn của chúng. Khi mặt trời nóng lên chúng sẽ quay lại với sự sống, và tận hưởng trong khoảng một giờ niềm hân hoan cũ; những con ruồi to, mạnh mẽ cũng linh hoạt không kém gì lúc giữa mùa hạ. Ở đây có một loại rệp đất mà tôi chưa từng thấy trước đó – những con vật nhỏ bé màu vàng, không to hơn một dấu phẩy cỡ nhỏ, thế nhưng chúng có thể nhảy một khoảng cách gấp nhiều ngàn lần chiều dài của chúng. Hãy nghĩ tới sức mạnh của một cơ thể trong tỷ lệ kích thước của nó! Có một loài nhện tí hon với bộ phận cản trở giống như một chiếc giáo màu vàng nhạt. Và chiếc giáo nặng tới mức con vật phải trèo ngược đầu lên một cọng cỏ. Và khi gặp một vật chướng ngại mà chiếc giáo không thể vượt qua, nó chỉ đơn giản buông mình thẳng xuống và bắt đầu một cuộc leo trèo khác. Một con nhện-giáo như thế không chỉ là một con nhện mà thôi đâu. Nếu tôi chìa một chiếc lá về phía nó để giúp nó đặt chân lên một cái nền, nó dọ dẫm một lúc trên chiếc lá, và tự nhủ: “Hừm, có gì đó không ổn ở việc này!” và lui trở lại, từ chối bị mắc bẫy trên một cái nền với bất cứ giá nào…
Từ mé dưới khu rừng có ai đó gọi tên tôi. Đó là Harald; cậu ta đã bắt đầu một buổi dạy học ngày Chủ nhật với tôi. Cậu ta cho tôi học một bài học trích từ Pontoppidan1, và lúc này cậu ta đang nghe tôi đọc. Thật xúc động khi giờ đây được dạy về tôn giáo khi lẽ ra tôi phải tự học hồi còn bé.
--------------------------------------------------
[1] Erik Pontoppidan là một tác giả Đan Mạch, giám mục, sử gia kiêm nhà khảo cổ, (1698 – 1764).
IX
Cái giếng đã hoàn thành, mương đã đào xong, và người thợ đã tới để đặt những đường ống. Anh ta chọn Grindhusen giúp mình làm việc, và tôi được cắt cử mở một con đường cho những đường ống chạy lên từ tầng hầm qua hai tầng của ngôi nhà.
Một hôm Fruen đi xuống khi tôi đang bận rộn trong tầng hầm. Tôi cất tiếng gọi bà để nhắc bà để ý tới cái hố trên sàn nhà, nhưng bà tỏ ra rất bình thản.
“Giờ thì chưa có cái hố nào ở đó, phải không?” bà hỏi, chỉ sang một phía. ‘Hay ở đó?” Nhưng rốt cuộc bà vẫn bị vấp, và trượt vào cái hố tôi đang đứng. Và chúng tôi đứng đó. Dù sao thì ở đó không được sáng; và với bà, vừa đi vào từ ánh sáng phía ngoài, hẳn nó phải tối đen. Bà sờ soạng cạnh hố và bảo:
“Làm sao tôi trở lên lại đây?”
Tôi nhấc bà lên. Chuyện này không có gì đáng nói; bà có một thân hình mảnh khảnh, dù đã có một cô con gái lớn.
“Chà, tôi phải nói là…” Bà đứng lên, phủi đất ra khỏi chiếc váy. “Một, hai, ba, và lên – gọn gàng hết sức…. Nghe này, tôi muốn anh giúp tôi vài việc trên gác hôm nào đó, được không? Tôi muốn dời một số đồ đạc. Chỉ có điều chúng ta phải đợi tới hôm chồng tôi làm xong phần chái; ông ấy không thích việc tôi di chuyển các thứ. Bao lâu nữa anh mới làm xong mọi thứ ở đó để làm tại đây?”
Tôi nói ra một thời gian, một tuần hay khoảng đó.
“Rồi anh sẽ đi đâu?”
“Tới nông trại gần đây. Grindhusen đã xác định chúng tôi sẽ tới đào khoai ở đó…”
Sau đó là công việc trong bếp; tôi phải cưa xuyên qua sàn nhà ở đó. Tiểu thư Elisabeth vào bếp một hai lần trong lúc tôi đang ở đó; hầu như không thể làm khác được khi xét tới việc đây là nhà bếp. Và dù không ưa tôi, nàng cố nói một đôi từ, và đứng nhìn tôi làm việc một lúc.
“Cứ tưởng tượng, Oline ạ,” nàng nói với người giúp việc, “khi mọi thứ xong xuôi, và bà chỉ cần mở một cái vòi nước.”
Nhưng Oline, đã già, trông không có gì vui vẻ. Việc đưa nước qua một cái ống thẳng vào nhà giống như chống lại Đấng Toàn năng, bà nói. Bà đã xách tất cả số nước bà cần trong suốt hai mươi năm qua, giờ bà sẽ làm gì?
“Nghỉ ngơi,” tôi nói.
“Nghỉ ngơi, đúng thật là! Chúng ta được tạo ra để làm việc. Tôi chọn công việc chứ không phải nghỉ ngơi.”
“Và may vá các thứ để chống lại thời gian bà có chồng,” Frøken Elisabeth nói, với một nụ cười.
Đó chỉ là cách nói của con gái, nhưng tôi biết ơn nàng về việc tham gia một phần nhỏ trong cuộc chuyện trò và ở đó một lúc. Và lạy Trời, tôi đã cố cư xử nói năng một cách thông minh và hợp lý, cố thu hút sự chú ý như một cậu con trai. Tôi vẫn còn nhớ. Rồi đột nhiên dường như Frøken Elisabeth nhớ ra việc ở đây với chúng tôi lâu hơn là không thích hợp, vì thế nàng đi.
Chiều hôm đó tôi ra nghĩa trang, như từng làm trước đó nhiều lần, nhưng khi nhìn thấy Frøkenen đã có mặt ở đó, tôi quay đi, bước vào rừng. Sau đó tôi nghĩ: chắc chắn giờ đây nàng sẽ cảm động vì sự khiêm tốn của tôi, và nghĩ: anh chàng tội nghiệp, anh ta tỏ ra thật sự thanh lịch trong việc đó. Và điều kế tiếp, tất nhiên, là tưởng tượng rằng nàng đi theo tôi. Tôi sẽ đứng lên từ tảng đá đang ngồi và cất tiếng chào hỏi. Khi đó nàng sẽ bối rối chút đỉnh và nói: “Tôi chỉ đi tản bộ một chút – chiều hôm nay thật đẹp – anh đang làm gì ở đây vậy?” “Chỉ ngồi đây thôi,” tôi đáp, với đôi mắt thơ ngây, như thể những ý nghĩ của tôi đã biến đi đâu hết. Và khi nghe nói tôi chỉ ngồi đó trong chiều muộn, nàng phải nhận ra rằng tôi là một gã mơ mộng và một tâm hồn có chiều sâu tiềm ẩn, và rồi nàng sẽ yêu tôi…
Chiều hôm sau nàng lại có mặt ở nghĩa trang, và một ý nghĩ rất tự cao tự đại đột ngột bay vào tâm trí của tôi: nàng đến là để gặp tôi! Nhưng, khi quan sát nàng kỹ hơn, tôi thấy rằng nàng đang bận rộn làm gì đó cạnh một ngôi mộ, vậy là nàng tới không phải vì tôi. Tôi len lén đi tới chỗ gò mối trong rừng và quan sát những con côn trùng một lúc lâu; sau đó, tôi ngồi lắng nghe tiếng rơi của những quả thông và những chùm quả thanh lương trà. Tôi ngâm nga một giai điệu, huýt sáo cho mình nghe và suy nghĩ; thỉnh thoảng tôi phải đứng lên đi một chút để làm ấm người. Nhiều giờ trôi qua, đêm buông xuống, và tôi yêu nàng đến nỗi tôi bước đi ở đó với mái đầu trần, để lộ mọi vẻ mặt ra trước ánh nhìn đăm đăm của những vì sao.
“Mấy giờ rồi?” Grindhusen có thể sẽ hỏi khi tôi quay về cái kho thóc.
“Vừa hết mười một giờ,” tôi sẽ đáp, dù có thể đã là hai ba giờ sáng.
“Chà! Và là một giờ hay ho để lên giường. Fansmagt! Đánh thức người ta khi họ đang say giấc!”
Và Grindhusen trở người để rơi lại vào giấc ngủ trong khoảnh khắc. Với Grindhusen thì không có gì rắc rối.
Phải, đúng là một gã đàn ông sẽ trở nên ngốc nghếch quá mức khi yêu trong lứa tuổi chớm tàn. Và ai là người có thể chỉ ra một phương cách để tìm được sự yên tĩnh thanh bình trong tâm trí?
X
Một người đàn ông tới vì mấy thứ đồ nghề thợ nề của mình; anh ta muốn lấy lại chúng. Gì chứ? Vậy ra Grindhusen không lấy cắp chúng! Nhưng Grindhusen luôn là thế: tầm thường, tối dạ, không hề xuất chúng trong bất cứ việc gì, chưa bao giờ là một tâm hồn cao thượng.
Tôi nói:
“Anh đó, Grindhusen, ở anh chả có gì khác ngoài ăn, ngủ và làm việc. Giờ thì một gã tới để lấy mấy thứ đồ nghề đó. Vậy là anh chỉ mượn chúng; anh chỉ giỏi những việc đó. Tôi sẽ không trở thành anh vì bất cứ thứ gì.”
“Đừng có ngốc thế,” Grindhusen nói.
Anh ta bị xúc phạm, nhưng tôi lại xoa dịu anh ta, như từng làm nhiều lần trước đó, bằng cách vờ rằng tôi chỉ nói đùa.
“Giờ chúng ta sẽ làm gì?” anh ta hỏi.
“Anh sẽ xoay xở tốt thôi,” tôi đáp.
“Xoay xở, được sao?
“Phải, không thì tôi sai lầm nhiều lắm.”
Và một lần nữa Grindhusen dịu xuống.
Nhưng vào lúc nghỉ giữa trưa, khi tôi đang cắt tóc cho anh ta, tôi lại chọc giận anh ta khi đề nghị anh ta nên gội đầu.
“Một người ở tuổi của anh nên hiểu biết hơn để đừng nói những câu như thế,” anh ta nói.
Và có Trời biết, nhưng có thể anh ta nói đúng. Mái tóc đỏ của anh ta vẫn dày như cũ, dù anh ta đã có cháu ngoại rồi…
Chuyện gì sắp xảy đến với cái kho thóc của chúng tôi? Có những hồn ma quanh quất hay không? Ai đã đột ngột tới đó một ngày kia và quét dọn sạch sẽ nơi đó, biến mọi thứ trở nên dễ chịu và ngăn nắp? Grindhusen và tôi, mỗi người có chỗ ngủ của mình; tôi có mua hai tấm chăn, nhưng hàng đêm anh ta đi ngủ với đầy đủ quần áo, anh ta khoác mọi thứ đó lên mình, rồi cuộn người vào đống cỏ khô. Và lúc này hai tấm chăn của tôi nằm gọn gàng, chờ đợi toàn thế gian như một cái giường. Tôi không phản đối việc này; chắc chắn là một trong số những người giúp việc đã sắp xếp để dạy tôi những cách thức ngăn nắp và trật tự. Với tôi thì không có gì khác biệt.
Giờ tôi đã sẵn sàng để bắt đầu cắt qua sàn nhà ở tầng trên, nhưng Fruen năn nỉ tôi hãy dời việc đó qua hôm sau; chồng bà sẽ hoàn tất cái chái, và tôi không nên làm phiền ông ta. Nhưng sáng hôm sau, chúng tôi lại phải hoãn nó lần nữa; Frøken Elisabeth sẽ tới cửa tiệm để mua vô số thứ, và tôi cùng đi với nàng để mang chúng.
“Tốt,” tôi nói, “tôi sẽ tiếp tục làm sau vậy.”
Cô gái lạ lùng! Phải chăng nàng đã nghĩ tới việc thôi đi chung với tôi trên đường? nàng nói:
“Nhưng anh nghĩ anh có thể một mình tìm ra đường đi không?”
“Chắc chắn, tôi từng tới đó trước đây. Đó là nơi chúng tôi mua sắm đồ cho mình.”
Tôi không thể băng qua cả ngôi làng trong bộ quần áo lao động lấm lem đất sét: tôi mặc cái quần tốt nhất, nhưng khoác lên người cái áo blu. Cứ thế tôi đi ở phía sau. Chặng đường dài khoảng hai dặm; ở phần cuối chặng đường thỉnh thoảng tôi nhìn thấy Frøken Elisabeth ở phía trước, nhưng tôi cẩn thận không tới gần. Có lần nàng nhìn quanh, lúc ấy tôi thu người bé lại hết mức, và nép vào bìa rừng.
Sau khi mua sắm xong, Frøken Elisabeth ở lại sau với vài cô bạn gái; tôi mang các thứ trở về nhà vị cha xứ, tới nơi vào khoảng giữa trưa, và được mời vào ăn trong bếp. Ngôi nhà có vẻ vắng người. Harald đang rời khỏi nhà, những người hầu đang vắt quần áo, chỉ có Oline bận rộn trong bếp.
Sau bữa ăn, tôi lên gác, và bắt đầu cưa trong hành lang.
“Anh tới đây giúp tôi một tay được không?” Fruen nói, bước tới trước mặt tôi.
Chúng tôi đi qua thư phòng của chồng bà và vào phòng ngủ.
“Tôi muốn dời cái giường của tôi,” Fruen nói. “Nó quá gần lò sưởi vào mùa đông, và tôi không chịu được sức nóng.”
Chúng tôi dời cái giường tới cửa sổ.
“Anh có nghĩ nó ở đây thì tốt hơn không? Mát hơn,” bà nói.
Và, tình chờ liếc sang bà, tôi thấy bà đang quan sát tôi với cái nhìn nghiêng kỳ quặc đó… Phải… Trong khoảnh khắc cả người tôi tươi tỉnh, tràn máu nóng và sự xuẩn ngốc. Tôi nghe bà nói:
“Anh điên à? – Ồ không, xin anh đấy… cánh cửa…”
Rồi tôi nghe tên tôi được thì thầm lặp đi lặp lại…
Tôi cưa qua sàn nhà trong hành lang, và hoàn tất mọi thứ. Fruen ở đó suốt buổi. Suốt buổi, bà nôn nao nói, giải thích, cười và khóc.
Tôi nói:
“Cái bức tranh đang treo trên giường bà đó, có dời cả nó đi hay không?”
“Vâ-âng, có lẽ nên dời,” Fruen nói.
(còn tiếp)