Đêm ấy phân đội chôn cất Lý Sên và Mai tại khu vườn Đường Tắt rồi Minh ra lệnh bốc hàng, quày trở lại khu vực Lung Sình.
Sáng ra, Minh đến kiểm khu vực đóng quân của tiểu đội nữ, nơi đang nhốt tên giặc lái Mỹ vừa bắt được hôm qua. Đến nơi Minh ngơ ngác nhìn những chiếc võng, những khẩu súng máng lung tung trên cành cây. Họ bỏ đi đâu ? Tình hình nầy mà chủ quan địch sẽ xóa quân số cho ngay. Có tiếng cười bên kia chiếc hầm đấp nổi. Minh vòng qua xem. Trên sàn vạc, các cô đang làm trò gì mà cười nghiêng ngửa. Cô thì quát tháo, cô lại dậm dọa. Lớn tiếng nhất là thằng Kéo, tiếng nó gầm gừ xen với giọng ậm ự của tên giặc lái Mỹ. Đám nầy không kỷ luật gì cả. Minh bực mình, bước tới bảo :
- Có im giùm một chút được không ?
Thằng Kéo thản nhiên như không hay biết gì đến sự có mặt của Minh. Nói đúng hơn, nó vẫn biết nhưng cố khiêu khích. Nư giận tràn hông, Minh chảng biết phải làm gì với thằng ương bướng nầy. Bao nỗi bực bội anh đổ dồn hết vào Nhị :
- Cũng tại cô hết thảy...
Nhị ngần ngừ một lúc rồi ngước mắt nhìn Minh một cách hối lỗi. Cô quay qua gọi khẽ :
- Kéo !
Thằng Kéo vội buông tên giặc lái Mỹ, phóng con lê xuống đất, riu ríu bỏ đi. Thấy thế Minh càng nổi sùng. Uy tín của anh đối với phân đội nầy đã dồn hết cho Nhị rồi ư ? dù sao Nhị cũng là thuộc cấp của anh kia. Anh là cấp trên, anh có quyền tại sao lại không có uy ? Nhị mền dẻo, ôn hòa hay nhu nhược, theo đuôi chiến sĩ ?
- Nhị ! Tại sao...
Nghe giọng hỏi gay gắt và bỏ lửng của Minh, Nhị nhìn lên, lúng túng, chờ đợi. Minh tiếp :
- Cô chủ trương cho nó làm cái trò gì đó ?
Có lẽ chưa lấy lại sự bình tĩnh trước Minh, Nhị ấp úng :
- Em thấy... nó nói cũng có lý. Nếu không nhét giẻ vô miệng thằng Mỹ thì biết đâu lúc máy bay “cán gáo” tới, thằng Mỹ lại không kêu đồng bọn của nó đáp xuống cứu đi ?
Tuy trong lòng cũng thừa nhận ý kiến của thằng Kéo là đúng, nhưng Minh không dễ gì gật đầu ngay lúc nầy. Làm thế hóa ra thằng nhóc kia được nước, hí hửng trước mặt anh à ? Anh là chỉ huy, nó muốn gì phải thông qua anh.
Bước đến bên tên giặc lái Mỹ, Minh nhìn tận vào mặt nó. Bộ mặt nầy có khác những bộ mặt của mấy tên lái ngồi trên chiếc máy bay bay nghênh ngang trên trời đâu ? Cũng mũi lõ, mắt đục, miệng móm và đôi má bự như mông bò, thế thôi. Có điều hơi khác nhau là ở chỗ thần sắc. Những tên ngồi trên máy bay đi tìm vạch mục tiêu gây tội ác, bộ mặt chúng hồng hào, đầy tự tin và hiếu chiến, còn mặt tên tù binh nằm đây thì nhợt nhạt, thiểu não và đầy thảm bại.
Thấy Minh đến gần tay có cầm súng, tên giặc lái Mỹ há họng, trợn mắt nhìn trân trối, tuồng như anh là một sinh vật từ tinh cầu nào rớt xuống. Ánh mắt chết khiếp của nó không còn một chút hào khí của gã đàn ông. Hai tay nó choãi ngược ra trước, mặt hơi ngước lên, cổ rống ra những tiếng ồ ồ và nước mắt tuôn ràn rụa. Quanh chiếc miệng móm như hang ếch của tên giặc lái Mỹ tứa đầy máu vì thằng Kéo đã nại răng hắn xảm giẻ vào, gây những vết trầy xước. Tên Mỹ được ngồi trên mép sàn, hai chân xuôi về trước, chiếc đùi gãy được cặp nẹp bằng mấy thanh củi. Nó mặc sơ mi sọc và quần đùi bê bết bùn. Bộ đồ bay của nó đã bị mấy cô lột bỏ hôm qua. Minh dùng mũi AK đập nhẹ vào vai nó. Tên giặc Mỹ run bắn người, khiếp đảm đến chết lịm. Nó không còn đủ sức để van xin, khóc lóc nữa. Minh bảo Nhị mang giẻ đến và anh nắm tay ra dấu bảo thằng Mỹ hả họng ra. Nó ngoan ngoãn tuân theo. Nhét giẻ vào họng thằng Mỹ, Nhị bảo là cho nó ăn sô-cô-la kiểu Mỹ !
Làm xong, Minh định quay về chỗ tiểu đội một. Nhưng lúc ấy có tiếng máy bay “đàm già’ từ hướng Mỹ Lâm sè sè đến. Các cô chạy đi thu xếp đồ đạc. Minh và Nhị bước ra bìa đám tràm để xem xét. Chiếc L.19 bay thật thấp, không đảo tròn, cứ xắt thành ô trên không phận của phân đội đang ở.
Minh cúi xuống xít xoa dấu trầy ở dưới bàn chân, lầu bầu :
- Chưa tìm ra tung tích, chúng dễ để yên. Mất một L.19, một đại úy Mỹ, một thiếu tá ngụy là chuyện đâu phải chơi.
Nhị xem vết thương bàn chân Minh, cô ngước mắt lo âu :
- Sao thế nầy ?
- Đạp lưỡi dao cùn chỗ túp chòi đổ, hôm qua.
- Bị đứt bằng những mảnh sắt rỉ hay nhiễm trùng phong đòn gánh, nguy hiểm ! - Nhị nhìn Minh, phân vân - Trở vô em rửa ráy và băng lại !
Minh định nghe lời Nhị. Nhưng anh chợt nhớ trong ấy còn thằng Kéo. Bỗng có cái gì nhói trong ngực, Minh lắc đầu :
- Nhị à...
- Sao anh ?
Nhị nhìn Minh chờ đợi. Minh lúng túng không biết nói gì. Nói gì đây ? Mà tại sao mình đòi hỏi Nhị phải gần gũi, chăm sóc mình nhiều hơn các chiến sĩ khác kia chứ ? Làm vậy hóa ra : “Lạy ông, chúng tôi đang có tình cảm riêng tư đây nè”. Và tại sao mình không tìm thấy những dấu hiệu âu yếm trong ánh mắt của Nhị cố biểu hiện sự che giấu tình cảm một cách tế nhị kia ? Tiếng nói bằng ánh mắt nó chân thật bằng gấp trăm ngàn lần lời lẽ ở đầu môi... Minh thở ra, lắc đầu vu vơ. Và cuối cùng anh lặng thinh, theo Nhị vào trong.
Trên trời bây giờ có đến năm chiếc máy bay L.19 quần đảo, nhào lộn. Tiếng động cơ vang rào rào làm cụm tràm rung lá tê tê. Một vùng không khí đặc sệt âm thanh nhòe nhọet. Lúc sau lại có thêm nhiều loại máy bay bu đến. Tiếng hù hụ và vùn vụt của loại máy bay “F”, hơi bay nặng nề và lì lợm của loại máy bay “B”, tiếng kêu phành phạch, vo vo của các loại máy bay lên thẳng...
Chiếc L.19 nào đó phóng rốc-két hơi gần. Minh và Nhị đi nhanh vô cụm tràm. Chị em đã dọn đồ đạc xong xuôi. Họ xúm quanh chỗ tên giặc lái Mỹ trên sàn vạc mà đùa giỡn nữa. Các cô và thằng Kéo gom bổi khô, cành củi chất đầy chung quanh người thằng Mỹ, định thiêu sống hắn. Minh bước tới ra vẻ tươi cười :
- Làm cái giống gì vậy ?
Họ dừng lại và có ý lo ngại bị phê bình khi nghe Minh hỏi. Nhưng có lẽ sau đó thấy ánh mắt vui vẻ của Minh, thằng Kéo nhe răng cười :
- Tụi em ngụy trang cho nó. Để lát nữa mình ra lung “chém vè”, bỏ nó nằm trong nầy trống trải lạnh lưng tội nghiệp.
Minh gật đầu, rồi anh khoát tay ra hiệu cho chị em cất giấu đồ đạc. Sau đó, tất cả đều ra lung nước.
Mặt trời đã lên cao. Nắng trong. Nước phản chiếu lấp lánh. Từng đám cỏ mỏng xanh rêu xen lẫn trong màu sáng bạc. Những dãy rừng chồi, từng cụm tràm xông lên quây tròn trông như nhiều mảng cù lao nổi lềnh bềnh trên mặt biển phẳng lặng. Có những cụm tràm bị ánh nắng phản quang, đầu rừng cây còn hơi mù nhẹ. Ciữa khung cảnh nầy, nếu không gian không bị các loại máy bay đan lượn thì những chiếc võng treo vắt vẻo qua các tán cây tràm, con trai, con gái dễ bật lên những trận cười giòn tan qua câu chuyện nói vui của Bác Ba Phi từ Cà Mau tràn lên hoặc trầm bổng vài bài ca vọng cổ xen trong giọng hò Đồng Tháp kéo dài du dương.
Đến lúc có những loạt đạn bay vút qua tai chiu chíu, những chùm rốc-kết nổ nhích lại, đến đưa tay nắm bắt được từng nhúm bùn bắn vãi, thì các cô gái mới chịu trầm mình xuống nước. Minh ra lệnh nghiêm ngặt, mỗi người chỉ được quyền ló lên cái đầu, và đầu cũng phải nấp kín sau một gốc cây nào đó. Các cô trêu Minh nhát gan bằng cách nói trớ rằng anh có tinh thần “cảnh giác tối đa”.
Qua một loạt pháo gần nhất của hia chiếc “cá lẹp” vừa lao xuống phóng chếch bên cánh phải, Minh đứng lên nhìn về cánh trái, nơi có Nhị và Thanh đang nấp. Bất chợp anh thấy chỗ cụm tràm đang nhốt tên giặc lái Mỹ có một đám khói bốc lên. Nãy giờ chúng chưa phóng rốc- kết vào đó, khói lên là thế nào ? Minh ngẫm nghĩ, bỗng anh sực nhớ thằng Kéo bày trò chất bổi khô ngụy trang cho tên Mỹ, liền hỏi Nhị và Thanh :
- Thằng Kéo nấp đâu ?
- Nó mượn ống quẹt lúc nãy, - Thanh đáp - chắc lén đi hút thuốc đâu đó.
Qua một loạt pháo hơi xa, Minh thấy Kéo vừa chạy vừa bò về đến. Nhìn vẻ mặt nó ẩn giấu một cái gì, Minh hỏi :
- Mày bỏ về đằng ấy để làm gì ?
- Em... - Kéo ngập ngừng, đỏ mặt, ngước nhìn Nhị cầu cứu - Em về thăm thằng Mỹ...
- Thăm thằng Mỹ là làm sao ?
Ngoảnh nhìn ngọn khói bốc lên hiu hiu đằng kia, Kéo đáp :
- Nó sắp bị máy bay bọn nó phóng pháo...
- Nói dóc ! - Minh cười mũi - Bò về đốt chết thằng Mỹ rồi phải không ?
- Không. Em chỉ đốt khói lên gần đó để mượn “các đồng chí” của nó bay đến ném lựu đạn vào.
- Chi vậy ?
- Cho nó được nếm mùi “cán gáo” của chính bọn nó mà biết cơ cực với đời.
Thằng nhóc nầy lý luận cừ thật, Minh thấy tức và cũng buồn cười. Lợi dụng lúc phi đội “cán gáo” bâu vào đánh chỗ có khói, Minh đến bên thằng Kéo, điểm tay vào mặt nó :
- Mày quá lắm ! Ai ra lệnh cho mày làm việc đó ?
Sau câu hỏi, bất thần Minh xựng người, vì thằng Kéo đứng bật dậy, trừng mắt nhìn thẳng vào mặt anh sẵn sàng nghinh chiến. Nó mang đôi mắt của một con mèo lúc bị con chó rượt đuổi cùng đường :
- Bộ thằng Mỹ đó có bà con với anh sao ? Anh đừng binh nó rồi trợn trạo với tôi, hổng sợ đâu.
- Để nó sống giải về trên, mày không được quyền trái lịnh, biết chưa ?
- Lịnh ? Hai tiểu đội nam, thằng nào cái lưng cũng bằng tấm thớt, sao anh không lịnh cho họ giữ ? Trăm thứ cứ đổ dồn lên đầu chị Nhị.
- Như vậy có nghĩa là... mày cố đốt chết thằng Mỹ để cho Nhị được rảnh rang chớ gì ?
- Vậy rồi sao ? Tôi không phải ăn hiếp phụ nữ như anh đâu.
Giận run người, Minh định tát tai thằng Kéo một cái cho hả. Nhưng anh cảm thấy không tiện. Đứng cãi lẽ giằng co với nó, càng lời qua tiếng lại anh càng thất thế thôi. Minh lườm mắt sang chỗ Nhị cố ý “mắng vốn” với cô rằng : mọi sự cũng tại Nhị bao che để đưa thằng Kéo đến bất trị như vậy. Nhị cau mày khó chịu :
- Kéo ! Cứ cãi lẫy son sỏn như vậy, em đúng lắm phải không ?
Nhị vừa rầy dứt, thằng Kéo ngồi bẹp xuống nước, òa lên khóc. Nhị khoát nước kỳ cọ những vệt bùn bám hai bên cạnh tai cho nó. Minh cau mày, bỏ đi nơi khác.
Đám máy bay đã về hầu hết, chỉ còn vài chiếc quần đảo xa xa. Minh mang súng đi dần về chỗ giam tên giặc lái Mỹ. Vết thương ở bàn chân anh có lẽ nhiễm trùng, sưng lên và nóng giần giật. Thấy Minh khập khiểng, Nhị lội theo :
- Chân anh đau lắm à ?
- Ngâm lâu trong bùn làm như bị tê dại.
Anh lượm một khúc cây làm gậy. Nhìn anh chị em quây quần chung quanh, Minh nghe ấm ấp một thứ tình cảm gia đình, máu thịt thân thương quá ! Những con người chung quanh cứ tung tăng vui nhộn. Minh nghĩ : “Họ là nhóm tế bào nhỏ trong cơ thể cách mạng lớn, thật đáng tự hào ! Cuộc đời thật đáng quí biết bao ! Tình người thật đáng yêu biết bao ! Cuộc sống đẹp biết bao ! Sao tâm hồn mình chật chội ?” Tâm trạng bực bội của anh tan dần ra trước một cánh đồng bao la đầy ấp nước.
Ánh sáng đưa lên cao khi mặt trời chui vào vầng mây xám dày đặc nằm chếch phía đông. Ngay trên vòm cao lỗ chỗ những đốm xanh màu lá mạ sâu vời vợi. Tất cả những cụm mây xám mốc hình thù khác nhau nhưng chung quanh mép rìa đều mang hình răng cưa, đều được dát màu nắng bạc. Chúng ken lại rồi giãn ra trông tựa những kiện bông hay những tảng đá dữ dội biết di động. Phía sau đám người là đồng nước mênh mông. Trước mặt là một dãy rừng chồi cắt ra, tạo tầm nhìn thở thành một con sông nhỏ. Ngay sát bên kia bờ sông trở đi là một dãy rừng sầm uất, những vạt tràm bị xe lội nước của địch càn đổ, những lùm sậy âm u mù mịt. Bên phải, xa hơn phía bắc, nhiều cụm tràm xanh xen trong cánh đồng xám mốc chạy mút đến chân trời. Lưa thưa, những cụm rừng chồi đứt đoạn, với những đường nét xám vàng của chòm hoa điên điểm, những bóng dáng trắng xám chập chờn của vùng bông sậy, và những hình dáng gì đó chập chùng, xao xác. Và xa hơn nữa, toàn cảnh cánh đồng nước mênh mông cứ xôn xao lay động. Đó là một cung đường hành lang vận tải cuối cùng phía nam Tổ quốc. Cung đường mang tên “C1”.
Về đến nơi, Minh thấy tên Mỹ vẫn còn sống. Nó nằm ngoẻo đầu rên khừ khừ bằng đường mũi. Đôi mắt nó chứa đựng lênh láng sự khủng khiếp, cứ trợn trừng trắng dã. Chính nó lại sợ đồng bọn của nó đến táng đởm như thế ư ? Minh nghĩ bụng : “Nếu tên giặc nầy còn sống, sau đó truyền đạt lại hết nỗi sợ hãi của nó đối với chiến hữu chúng nó thì như thế nào ! Và rồi nó sẽ trở thành một con người có kinh nghiệm và thấm thía bậc nhất về tính năng tác dụng của các vũ khí và các phương tiện giết người hiện đại mà chính nó có phần góp công nghiên cứu và thực hiẹn”.
“Bọn giặc về ăn cơm”. Anh em thường gọi đùa những lúc nầy là như vậy. Lúc đến chúng hùng hùng hổ hổ, vội vội vàng vàng, quần đảo bất tận. Lúc về, chúng lơ lơ lãng lãng bỏ mặc cánh đồng vắng lặng lại chim loài chim cúm núm mặc sức gù, cho lũ nhái bầu mặc sức rên than. Sau những loạt điên loạn âm thanh mặt đồng trở lại im ắng đến cô quạnh. Anh chị em bung ra, kẻ đi hái rau, người đi bắt chuột, câu cá cải thiện đời sống. Họ thường gọi đó là giác “tan phèn”, có nghĩa đen là chất chua, chát trong nước được kết tinh váng màng màng, sau nửa buổi nắng lên, lượng ôxy trong nước được bốc nhẹ, nước trong sạch lại. Còn nghĩa bóng là đã qua thời gian hung sát, đến giờ khiết thịnh.
Tiểu đội nữ cùng thằng Kéo dắt đi đâu hết, chỉ còn lại Nhị và Thanh ở cụm tràm trên gò cát bên sàn vạc giam tên giặc lái Mỹ. Nhị căng võng cho Minh. Cô lầm bầm như nói với chính mình :
- Vết thương mương mủ, nhiễm trùng uốn ván là nguy !
Sau câu nói của Nhị, Minh định bảo : “Ăn nhằm gì ?”, nhưng anh thấy chiếc võng đã căng, gió hất lên bồng bồng lên như quyến rũ. Nghe xương sống đâm mỏi nhừ, mặt nóng ran, Minh thèm nằm một cách kỳ lạ ! Có lẽ Minh sắp lên cơn sốt. Đôi mắt anh lờ đờ, nặng trịch, quai hàm uể oải không muốn nói chuyện. Không cần phải kiểu cách, Minh máng súng qua đầu võng, ghé người ngồi lên. Chiếc võng căng thẳng nhún xuống theo độ cong của hai cây tràm, Nhị còn làm gì lục đục đằng kia ? Thanh cầm cục xà bông cà quanh chiếc bình toong Mỹ có đựng nước, để nấu. Làm như thế sau khi nấu rồi sẽ chùi sạch ngay, khói không ám vào thân bình. Rồi Thanh trao chiếc bình lủng lẳng trên một nhánh tràm và kê nắm chà khô có đầu lửa cháy, đốt vào đít bình.
Minh nằm ép má vào mép võng, nghe làn vải ni lông êm êm. Dường như chung quanh anh có vẩn chút không khí mền mại vào âu yếm. Cảm giác nầy làm cho Minh nghe lòng ngây thơ lại đôi chút. Nhiều ý nghĩ vẩn vơ trong anh cứ đặt ra lộn xộn... Anh đang sợ chết vì một vết trầy nhỏ ở bàn chân đây ? Anh đang lên cơn sốt. Có phải vết thương đã nhiễm trùng phong đòn gánh rồi ? Chết thì uổng lắm : giả sử như Nhị chưa mang đồ tới vựt dậy, không biết nằm ì một lúc nữa Minh còn nghĩ thêm những trò quái quỉ gì ?
Minh phụng phịu như đứa trẻ hay tủi thân lúc Nhị sờ vào trán và cổ anh :
- Mặt mày đỏ nhừ, lòng mắt láng ngời, độ sốt không thấy đâu.
Thấy Nhị lo âu, Minh bật cười, ngồi dậy nói đùa :
- Sốt cao đến băm bảy độ “xê” phải không bác sĩ ?
Nhị nguýt Minh bằng đôi mắt đen huyền hơi lồ lộ và cô cười. Lý thường bảo rằng : “Bọn con gái có những cái nhìn tàn bạo. Đôi mắt họ là hai hườn thuốc mất ngủ của lũ con trai”. Có phải cái nhìn và đôi mắt của Nhị hôm nay đúng thế không ? Minh lấy làm xấu hổ. Tại sao mình lại để ý đến những việc như vậy ?
Thanh đem bình toong lại đổ ra chiếc ca Mỹ. Nhị bắt tay làm việc. Bàn chân Minh sưng húp nặng trịch, nóng ran. Nhị dùng lưỡi lam gọt bỏ những mảnh da tưa tải chung quanh vết thương cho Minh, rồi cô cào bùn và rỉ sét xảm trong ấy ra. Những giọt máu nâu ri rỉ. Thanh cầm chéo khăn nhúng nước nóng chặm vào vết thương. Có lẽ Thanh chưa quen việc mổ xẻ, cô lúng túng đáng tội. Nhị thì làm rát tỉnh táo. Thanh lo lắng thúc cánh chỏ vào Nhị :
- Nhẹ tay chút chớ, bà ! Da thịt người ta làm như gỗ mục vậy. Ác ôn lắm !
- Ác đâu ? Sách có câu : “Lương y như từ mẫu” mà .
- Bà thì “ác mẫu” nói dễ nghe.
Nhị làm dỗi, đưa mảnh lưỡi lam cho Thanh :
- Có nóng ruột thì làm đi ! Nịnh thủ trưởng thì cũng vừa phải thôi, nịnh quá khó coi.
Thanh xô vai Nhị, cô gục đầu cười rũ rượi :
- Chút xíu vậy mà bà nầy nổi máu... ta ơi !
Minh nhìn lảng lên ngọn tràm cười buâng quơ và anh cứ giữ nguyên nụ cười trên khuôn mặt nhợt nhạt của mình. Nhị xé mảnh khăn choàng tắm băng vết thương lại cho Minh.
Minh chép môi :
- Về chuyến sau Thanh cố gắng đến phòng dược xin một số băng cá nhân và thuốc thông thường, nghe !
Thanh :
- Sau nầy em đề nghị băng của ai nấy giữ. Phải cất kỹ. Cứ nhét bừa vào yếm đạn, hết lội lung lại ”chém vè” hư hết. Ở chiến trường nầy mà...
Thanh nín im. Vì cô không muốn lập lại câu nói của Lý thường bảo : “Ở chiến trường nầy, lính ta nổi hắc lào từ lỗ chiếm đến đỉnh đầu ruồi”. Mà thật vậy, lính ta ở đây tìm nhiều kiểu nói để châm chọc nhau nghe đến đau lòng ! Lý thường bảo : “Ở chiến trường đồng nước nầy có mười thằng lính thì hết chín thằng lác, chẵn chục đứa lang beng, tròn trèm năm cặp ghẻ ngứa”. Bình, cậu tiểu đội phó tiểu đội một thì bảo : “Các cô gái giao thông vận tải đi trên gió cách hai cây số đã nghe “thơm nước””. Có lần Lý bảo Thanh, cô tiểu đội phó tiểu đội ba, người yêu “giò quốc” của cậu ta rằng : vừa xin được mớ thuốc xức lác hay đại tài. Lý bảo Thanh với thẳng hay cánh tay lên xem coi mặt lác gì, để trị cho. Thanh ngỡ thật, đến khi hạ tay xuống, Lý lắc đầu bảo: “Lác nầy quá với rồi, hãy cắt đem vô Mỹ Lâm bán cho người ta dệt chiếu ắt được nhiều tiền, chừng ấy sẽ mua một đôi bò về cày cho trốc củ hủ, xức thuốc vô mới công hiệu”. Thanh thua Lý một keo quá nặng, cô đâm ra giận người yêu suốt một tuần lễ, gặp mặt không thèm nói chuyện...
Minh trở lại cái ý còn bỏ dở của Thanh :
- Vấn đề quan trọng là chỗ ý thức bảo quản, giá gì có một cuộn băng. Sao không chống mắt xem thằng Bình kìa ? Từ cái chung đến cái riêng, bao giờ nó cũng tươm tất.
Nhị cười, cướp lời Minh :
- Thủ trưởng khen lính ra mặt coi chừng không có lợi. Ông bà thương nói : “Có yêu con thì hôn chúng trong lúc ngủ”.
- Thật mà ! - Minh thật thà cãi bướng - Nó làm việc có sút ai đâu? Hàng lên vai thì cây đàn măng-đô-lin day trước ngực. Cái thằng... tôi mà có em gái là gả cho nó liền. - Và anh cười, gõ tay vào vai Thanh, nói tiếp - Bây coi xếp nhỏ có đứa nào ưng thằng Bình, tao gả cho. Con Thế ham theo đoàn văn công khu mà bỏ thằng Bình là một điều chúa dại.
Nhị rầy :
- Giỡn hoài, để người ta băng nhanh cho mà.
Nhị cột vải băng gút cuối cùng. Trong lúc khom đầu cắn bỏ mối dây, cô hỏi :
- Nếp sống thằng Bình ngăn nắp vậy sao anh không học cho thiên hạ nhờ ?
Bị thọc đúng chỗ nhược, Minh xấu hổ, ngoéo ngón chân vào cô :
- Tại mang tật bầy hầy nó quen rồi.
- Hứ ! Cứ ấm ớ. - Nhị ngẩng lên, cú nhẹ vào lưng bàn chân Minh - Quen không nổi rồi à.
Chịu một cú đột tuy nhẹ, nhưng chân đau, Minh phải cắn răng, nhíu mày. Thấy thế, Nhị hối hận, xoa xoa bàn chân Minh ý xin lỗi. Nhị làm vậy, Minh càng muốn khóc. Thanh ngồi bên, hất mặt ngang nhìn Nhị. Trong cặp mắt nhỏ và tròn xoe ấy lóe lên những tia tinh nghịch. Mỗi chút Thanh bám trêu chọc Nhị cho kỳ được :
- Chừng nào hai người có con đùm đề với nhau rồi bà cũng phải ráng chịu cho quen thôi.
- Ơi, cái con nhỏ nầy...
Nhị thét lên, xô Thanh chúi nhủi. Thanh cười ngặc nghẹo rồi bỏ chạy ra đằng xa.
Tên giặc lái Mỹ nãy giờ nằm lim dim đôi mắt, chợt nhe tiếng họ đùa giỡi, mở trừng mắt ra, ngơ ngác. Minh liếc thấy không thèm đếm xỉa tới. Vì anh đang cầm bàn tay Nhị để xem những ngón tay bị nước ăn lở lói rớm đầy máu. Do cọ rửa trong nước nóng để chăm sóc vết thương cho Minh nãy giờ, Nhị bị ghẻ hành, than rát. Những ngón tay thon thon, đầu móng trắng hông vừa sần sùi, kẽ tay rin máu qua làn da nham nhở. Minh vói ngắt mấy lá tràm non, nhia nát, xát vào tay Nhị. Phương thuốc trị bệnh nước ăn duy nhất của họ là như thế. Ở đây không có cả lọ nồi, dầu trong và phèn xanh, thì biết lấy gì làm thuốc xức ghẻ ngứa khác hơn được ? Có lẽ bị chất chát của lá tràm làm rát da, những ngón tay Nhị run rẩy, mặt cô phụng phịu vừa chịu đựng và nũng nịu. Minh bảo :
- Ráng chút sẽ đỡ ngay !
Minh xít xoa tỏ vẻ thông cảm. Thanh trở lại xem, chặc lưỡi động viên thêm. Nhị nhìn Thanh và Minh, cô ngạc nhiên, rồi bậu môi, cười giễu cợt :
- Làm như người ta bị thương không bằng.
Nhị rụt tay. Minh và Thanh cố giữ, nhưng vẫn tuột ra. Nhị vả vào tay hai người. Cả ba cười om.
Trên sạp vạc, tên giặc lái Mỹ cất tiếng rên mỗi lúc một lớn. Thật là nó không biết mắc cỡ, lúc người ta đang vui cười thì nó lại khóc. Đến lúc tên giặc Mỹ cất tiếng ằng ặc như uất nghẹn, Minh mới chịu nhìn lại. Nó khóc vì uất ức chuyện gì chính Minh cũng đoán không ra. Minh nhìn đích tận bản mặt tên giặc cướp nước nhưng anh không thể nào hiểu nổi tâm địa của nó. Quả lộ hầu của nó nhúc nhích như có ai buộc dây trì kéo. Thấy Minh nhìn nó có vẻ dò xét, tên giặc lái Mỹ quay mặt chỗ khác. Nó xấu hổ hay nó sợ anh đọc được cái tâm địa vừa tàn ác vừa đê tiện của nó ? Đôi vai nó mỗi lúc một giật mạnh, nhưng tiếng nấc dần dần tắc nghẹn. Tên giặc lái Mỹ chỉ còn ngửa mặt lên trời, hả họng, nước dãi, nước mắt tuôn ra ràn rụa. Minh nhìn Nhị và Thanh, dò hỏi. Nhưng Thanh lại suy đoán :
- Có lẽ nó nó đang nổi cơn ghen.
- Ghen gì ?
- Ghen trước hạnh phúc của đối phương của nó.
Thanh nói nghe cũng xuôi tai. Trước cảnh vui đùa thân mật của tình đồng chí bên nầy làm cho tên Mỹ chạnh nhớ lại tình “chiến hữu” của nó; cái mối quan hệ “chết ai nấy chịu” ấy. Giờ nầy các bạn nó, đứa thì ngồi bên mân rượu ê chề, đứa thì tắm mát và ung dung nằm nghỉ trên chiếc giường sạch bóng trong hậu cứ. Còn nó, chỉ riêng mỗi mình nó, nằm đây, nằm để ngẫm nghĩ mọi hậu quả của một cuộc chiến tranh xâm lược.
Minh gật đầu bổ sùng lời nhận xét của Thanh :
- Có lẽ thằng Mỹ vừa ghen vừa tức cũng vừa tủi thân.
Riêng Nhị thì lắc đầu, cãi lại :
- Quân cướp nước, giống giết người ấy làm gì có lương tâm mà ghen với tủi.
Có lẽ vì lòng căm thù cao độ của Nhị đối với bọn xâm lược Mỹ, cô sinh ra thiên kiến chăng ? Minh nhìn Nhị phân vân :
- Có những động vật tuy là người nhưng chúng độc ác gấp ngàn lần thú dữ, ngược lại có những động vật đi bốn chân, đôi lúc chúng có tình người. Trong bọn xâm lược, cũng có tên còn đôi chút lương tâm chứ. Vì nó cũng có cuộc đời.
Lúc nầy có tiếng trực thăng phát máy phành phạch ở hướng Rạch Giá, họ ngừng lại, không tranh luận nữa. Minh chợt thấy đống bổi khô nấu nước lúc nãy còn bốc khói, anh kêu :
- Chết, nguy rồi ! Dập đống lửa !
Nhất định nãy giờ bọn giặc thấy ngọn khói nầy. Từ sáng đến giờ khói bốc lên một chỗ hai lần, chúng sẽ áp xuống đánh ngay. Nhị xáp lại dập tắt lửa. Thanh dẫn chị em chạy ra lung nước. Minh khập khiễng chạy ra bìa rừng. Anh thấy hai chiếc trực thang từ phía kinh xáng đang lao thẳng vào trông như hai cái đầu tròn vo tựa hai quả bóng đen.
Nhị dập tắt lửa, vội chạy theo Minh. Vừa tới, cô thấy tình huống nguy kịch vội thét lớn gần như lạc giọng :
- Nằm xuống !
Minh còn lúng túng vì bàn chân đau và mảnh vải băng đã tuột ra. Nhị nhảy bổ tới xô anh té nhủi. Đầu hai chiếc trực thăng phụt khói. Hằng chục trái rốc-két chín mươi ly và mấy loạt đạn đại liên quét xối xả vào cụm rừng có nhốt tên giặc lái Mỹ. Minh và Nhị còn loay hoay ở bìa rừng để băng lại vết thương. Họ ước lượng khoảng trống chạy tới lung nước, nhưng không kịp, đành dắt nhau quày lại chiếc hầm đắp nổi cạnh sàn vạc cột tên giặc lái Mỹ. Một loạt rốc-két nữa nổ ầm ầm nhưng hơi chồm về phía trước. Minh và Nhị chui tọt vào hầm. Sau loạt pháo Minh ló ra dòm chừng tên Mỹ. Nó vẫn còn nguyên. Vẻ mặt đang cực kỳ khủng khiếp ! Hai mắt nó láo liên, đảo ngược lên trời tựa một người bị chẹn họng. Toàn thân nó run bắn lên. Vì hãi quá nên tên Mỹ quên kêu khóc, nó chỉ rên khừ khừ. Bộ mặt nó bợt ra không còn một thần sắc, thịt hai bên má tím bầm và chảy xệ trông tựa hoại thư. Tên giặc Mỹ không ngớt lầm bầm nguyền rủa cái gì ? Nguyền rủa hay khấn vái ? ...
Hai chiếc trực thăng vũ trang bung ra đảo vòng rộng. Minh gọi Nhị xem coi thằng Mỹ đang làm gì. Nhị bảo :
- Nó đang cầu Chúa đó. Nếu hai tay không bị trói, anh sẽ thấy nó làm dấu thánh.
- Có đúng vậy không ? - Minh nhìn Nhị mỉm cười hoài nghi.
- Hồi còn ở thị xã thấy hoài. Có lần em bưng rổ rắn và rùa mời một thằng Mỹ mua, nó giật nẩy người, đưa tay làm dấu chữ thập trên trán, trước ngực, qua trái, qua phải.
Minh cùng Nhị dùng dao găm cắt dây trói cho tên giặc lái Mỹ, họ è ạch lôi nó vào hầm. Mấy dây đại liên cùng vài trái pháo từ trên máy ba quét xuống, hơi xa. Hai người bỏ tên Mỹ nằm trong hầm, họ tốc chạy ra lung nước với các bạn. Ngang đống tro lúc nãy Minh còn thấy một sợi khói phất phơ, anh dừng lại dẫm cho thật tắt. Minh nhớ một lần nghe một anh cán bộ quân sự cao cấp bảo : “ Lúc mặt trời vừa lên, không khí còn trong, những tên giặc ở trong một tháp canh nào đó xa bằng mười cây số, chúng bỏ ống dòm nhìn thấy những sợi khói thuốc của anh em mình đang hút trên cánh đồng nước nầy. Và thấy những con quạ bay chấp chới đi tìm mồi, chúng sẽ ghi nhận đó là vùng có “Việt Cộng” đang ăn ở”.
Hai chiếc trực thăng vũ trang không quần đảo tìm mục tiêu ngoài lung nước. Chúng quày lại cụm tràm có chiếc hầm nổi nơi tên giặc lái Mỹ đang trú ẩn. Đống tro có than lửa bị Minh dập vẫn chưa chịu tắt, gặp hơi gió, một làn khói lại bốc lên. Từng cụm khói xanh lam bay lên, bay lên tựa những chùm bông sậy được gió bốc lộng. Hai chiếc trực thăng đang bay nhanh lỡ đà vụt quay trở lại. Rồi chỉ nửa vòng đảo, chúng đã nghiêng mình đúng tọa độ, và chúc đầu xuống bơi bơi cái đuôi chổng ngược. Hơn một chục quả rốc-két chín mươi ly của hai chiếc trực thăng cắm đúng vào cụm tràm có chiếc hầm nổi. Đất và cành, lá cây tung lên như một quả núi hư ảo hiện lên rồi tan biến. Cụm tràm trông xác xơ thảm hại. Mùi khói thuốc đạn, mùi bùn và mùi lá non bị vò nát trộn vào nhau, theo gió bay lan lan ra tận ngoài lung nước. Nó cứ xộc vào mũi những người ở đây nghe tanh tanh lờm lợm.
Mấy chiếc trực thăng đã trở về căn cứ. Minh và chị em tiểu đội ba trở về cụm tràm của họ. Chiếc hầm nổi đã sụp đổ trộn vào cây lá trở thành một bãi bùn nhàu nhoẻo ngổn ngang. Tên giặc lái Mỹ tất nhiên hòa chung những kí lô xương thịt vào đó. Xác của hắn không ai tìm thấy đâu. Nhưng cũng chẳng ai tìm làm chi. Thế là đủ. Những chiến hữu của hắn đã tống táng dùm một cách mồ yên mả đẹp cho hắn. Mẹ cha, vợ con hắn có biết không ?
Minh ngao ngán thở ra. Anh nghe trong người lại bắt đầu lên cơn sốt nữa. Nhị căng cho anh chiếc võng qua mấy cây tràm còn lại. Minh nằm. Có lẽ cơn sốt lên cao, anh cảm thấy đầu óc choáng váng, mắt lờ mờ, chốc chốc một cái gì đó dường như bị sụp xuống, chới với, bừng lại trí nhớ rồi tuột nhanh qua. Và lúc bấy giờ, thậm chí trong chốc lát, Minh quên mình đang ở đâu. Từng khớp xương mỗi nhừ nhức nhối, mỗi lần anh cử động như nó sắp sút rời ra. Lớp da lưng ê ẩm, lạnh toát, bên trong có nhiều hạt cát châm chít xót xa. Minh nằm vùi trên võng, tay bấu chặt vào một thân cây tràm có lớp vỏ sù sì, nhám mặt lại để khỏi gặp cái nhìn của thằng Mỹ nằm trên sàn bên cạnh.
Đến lúc nghe một bàn tay lạnh toát đặt trên trán, Minh mới cố mở mắt ra. Nhị khe khẻ bảo :
- Để em xông vết thương cho anh !
Minh từ từ ngồi dậy. Vì lúc nãy nghe Lý bày cách xông vết thương bị sét rỉ nhiễm trùng bằng chai trét xuồng, Minh hỏi :
- Chai trét xuồng ở đâu mà có ?
- Ra chỗ giấu xuồng, em kéo lên mỗi chiếc cạy một mớ.
Minh thở dài, chíp môi : “Ra chỗ giấu xuồng ? Phải lội qua hai con lung sâu tới cổ, dường như hằng cây số, thế mà Nhị... “
Minh nghe lòng rưng rưng, mặt nóng bừng, đôi mi rân rấn. Nhị cứ vì mọi người mà chẳng nghĩ đến gia khổ của mình. Da thịt của Nhị đã bị nước ăn mà vẫn dầm nước suốt. Nhưng biết làm sao được, một khi phải đứng chiến đấu ở cung đường quá khắc nghiệt nầy, nó đâu chiếu cố trai hay gái. Đồng nước ở đây mỗi năm có đến chín tháng mùa nước. Tuần trăng, các cô gái bị tối ngày ngâm mình dưới nước, cô nào cũng sinh ra sốt lạnh, đau lưng và nhức đầu.
Minh không dám nhìn vào Nhị nữa sợ mình quá cảm kích mà bật khóc đi.
Nhị tìm đâu ra được một cái vỏ lon sửa bò móp méo và cắt sẵn mấy lá chuối nước có khoét lỗ đậy lên trên. Minh lại chép môi :
- Nếu có một nùi tóc rối nữa là đúng phương thuốc gia truyền của Lý. Nhưng thôi, ta cứ thử xông chai trước xem sao.
Nhị mò túi lấy nữa mảnh lưỡi lam, vừa cười vừa nói :
- Tóc chưa rồi thì ta vò cho nó rối, có khó gì ?
Minh chưa đáp, anh thấy Nhị tự cắt xuống một mớ tóc của mình. Anh giật mình kêu hoảng. Nhưng đã muộn. Nhị vò mớ tóc cho rối đi. Minh nghe quai hàm mình bóp cứng, muốn mở miệng mà không thốt ra lời. Có thứ nước cay cay ngồn ngột đang ứa ra mắt và mũi anh.
Nhị cắt vải băng cho Minh và nhồi chai vào tóc. Cô ngồi tựa vai vào một bên chân anh. Chiếc áo vải lin-prang màu xám mốc đã sờn nát được mạng vá lại kỹ lường từng đường kim, mụn vải, bọc lấy đôi vai tròn rỉnh và ngấn cổ rám nắng của Nhị. Mái tóc của Nhị hoe hoe dãi dầu sương nắng nhưng lúc nào cũng được chải gỡ suông sẻ. Không có dầu xức, tóc cứ khô cháy, cứ bồng bềnh và gãy rụng, trông tội làm sao ! Nhị kềm bàn chân Minh cho vết thương để ngay lỗ thủng của lá chuối nước đậy trên miệng lon. Mớ chai nhồi với tóc của Nhị trong lon đang bén lửa cháy xèo xèo. Hơi ấm của lửa từ dưới xông lên, hơi ấm của bàn tay Nhị từ trên áp xuống. Minh nghe bàn chân mình mỗi lúc một nhẹ nhàng dễ chịu. Sự dễ chịu nầy từ trong lòng anh tràn ra hay từ ngoài tay Nhị thấm vào ? Minh tự hỏi, và nghe dễ chịu hơn. Ráng lắm, Minh mới cất lên được giọng nói rung run :
- Tại sao Nhị cứ hay thương người lắm vậy ? Nhị cứ đem chia xớt bớt cho tất cả mọi người mà chẳng dành riêng cho mình chút nào ?
Câu nói ấy làm cho đôi má Nhị chín ửng, và cô mỉm cười :
- Cũng có chớ...
Ngoài trời đang có tiếng máy bay OV.10 quần đảo làm cho Nhị không nói thêm nữa. Nhị đứng lên. Vô tình Nhị mang luôn tay trái đang buông thỏng của Minh. Còn Minh, lúc ấy cũng quên rằng mình đang mơ màng chuyện gì. Nhị quay người lại đối mặt với Minh, cầm gọn bàn tay anh, nóng bỏng. Nhị nhìn sâu vào mắt Minh, nửa như âu yếm, nửa như hoảng sợ. Mặt Nhị na xám, môi run run và dường như đôi mắt râm rấm.
- Anh !
Sau tiếng thuốc lên nghe nhe tiếng kêu ấy, Nhị từ từ hạ bàn tay Minh xuống và buông ra. Trên trời, hai chiếc OV.10 đảo thấp và xiết nhặt vòng.
Minh vẫn còn bần thần với một thứ tình cảm êm đẹp trong lòng, nhưng anh cố lời đi :
- Chẳng biết Long đưa cánh Năm Hoa đến trạm quân y huyện thế nào mà giờ cũng chưa thấy về ?
Nhị nhìn thẳng vào Minh, nói sang ý khác :
- Không phải lo chuyện ấy nhiều. Phân đội ta đang bị vây khốn, không còn gì để ăn, phải tính việc nầy trước đi !
Minh vỗ tay vào trán suy nghĩ. Anh nhìn về phía núi Cô Tô. Nơi đó mấy hôm nay giặc chỉ để lại một số lính bảo vệ chỉ huy sở sư đoàn 9 ở lại, còn bao nhiêu bủa vây ra các mạch để ngăn đón chuyến hàng của ta dưới đồng nước nầy. Nơi ấy có đồng bào. Ban ngày không gặp, đêm ta bám ra các xóm có thể vận động ra lương thực. Anh em phân đội mệt mỏi quá rồi. Nghĩ vậy, Minh nói :
- Lôi lên hai chiếc xuồng nhỏ để chuyên chở chút ít đồ đạc cần thiết, còn bao nhiêu cứ giấu lún lại đây. Chúng bảo ta lên núi nghỉ quân, để cho thằng địch vây chặt cái cung đường trên cánh đồng nước mênh mông nầy đi. Bao giờ chúng thỏa mãn, thừa sơ hở, chúng ta trở xuống nhanh chóng chuyển hàng đi. Nhị thấy sao - Anh lại tiếp - Cứ bám đấy, đi không lọt, ở cũng không xong.