sinh ngày 4/6/1962 tại Hà Nội.
Tốt nghiệp Đại học hàng hải, Baku, Liên Xô (1980-1986), sau đó làm thuyển trưởng một tàu đổ bộ (lữ 125-HQ).
Năm 1990 chuyển về Toà án Quân sự Trung ương và đi học chuyên tu Đại học luật.
Năm 1993, ngay sau khi tốt nghiệp, Ngô Tự Lập chuyển về làm biên tập viên văn học tại nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Năm 1993, anh sáng lập tờ <, có lẽ là tờ báo chuyên về quảng cáo đầu tiên ở Việt Nam và tồn tại hơn một năm. Năm 1995, anh tham dự một cuộc thi dịch văn học do Đại sứ quán Pháp tổ chức và nhận được học bổng đi học tại Đại học sư phạm Fontenay (Ecole Normale Superieure de Fontenay/St. Cloud, Paris). Năm 1996, anh bảo vệ thành công luận án thạc sĩ (DEA) tại Paris. Năm 1998, anh chuyển về nhà xuất bản Hà Nội. Năm 2000, anh ra khỏi biên chế nhà nước, làm Giám đốc điều hành Viện nghiên cứu phát triển InvestConsult. Tháng 8/2003, anh sang làm việc cho nhà xuất bản Dalkey Archive Press, nghiên cứu sinh tại Đại học Illinois State University (Hoa Kỳ).
Ngô Tự Lập bắt đầu sáng tác năm 1989. Truyện ngắn đầu tay, Lửa trong lòng biển, đoạt giải thưởng sáng tác về Hải quân và giải Hoa phượng đỏ (1990) của Hội Văn Học Nghệ Thuật Hải Phòng. Ngoài làm thơ, viết truyện ngắn và tiểu luận, Ngô Tự Lập còn là một dịch giả tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh. Anh là hội viên Hội nhà văn Việt Nam và Hội nhà văn Hà Nội.
Tác phẩm chính:
Thơ:
Thế giới và tôi, song ngữ (Việt Pháp), Văn hóa, Hà Nội, 1997, tái bản 2000, A l'index (Pháp) 2001.
Chuyến bay đêm tháng sáu, Văn hóa, Hà Nội, 2000.
Văn xuôi:
Vĩnh biệt đảo hoang, tập truyện ngắn, Văn hóa, Hà Nội, 1991.
Tháng có 15 ngày, truyện ngắn, NXB Hà Nội, Hà Nội, 1993 tái bản 1994.
Mùa đại bàng, truyện ngắn, Công an nhân dân, Hà Nội, 1995.
Mộng du và những truyện khác, tuyển tập, Văn học, Hà Nội, 1997, 1998 và 2001.
Tiểu luận:
Ma trong văn học kỳ ảo phương Đông và phương Tây, luận văn thạc sĩ, (Ecole Normale Superieure de Fontenay/St. Cloud), Paris, 1996.
Những đường bay của mê lộ, Hội nhà văn, Hà Nội, 2003.
Dịch thuật:
Hoa máu, truyện ngắn, từ tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga, Văn hoá, Hà Nội, 1993.
Người đàn bà trên tàu, tiểu thuyết của Jules Verne, Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1993.
Đôi mắt lụa, dịch chung với Ngô Huy Bội và Ngô Bích Thu, Văn học, Hà Nội, 1998.
Con bù nhìn, tiểu thuyết của Kolesnikov, từ tiếng Nga, Kim Đồng, Hà Nội, 1998.
Xứ sở của nước và thạch sùng, thơ văn xuôi của Jean-Michel Maulpoix, từ tiếng Pháp, Thanh Niên, 1999.
Chiếc bát mang hình thế giới, Trường ca của Werner Lambersy, từ tiếng Pháp, Văn học, Hà Nội, 2001.
Tuyển tập Edgar Allan Poe, dịch chung, từ tiếng Anh, Văn học, Hà Nội, 2002.
Biên soạn:
Đêm bướm ma, Tuyển truyện ma Việt Nam, Văn học, Hà Nội, 1998, tái bản 2001.
Truyện kỳ ảo thế giới, 6 tập, Văn học, Hà Nội, 1999, 2000, 2001.
Nhật Bản, đất nước con người, văn học, cùng với Ngô Minh Thuỷ, Văn hoá, Hà nội, 2002.
Theo tienve.org