Những thợ theo ong, những kẻ tìm trầm, những người đi lượm hạt ươi bay hay lấy dầu ô dước… Hễ ai bước chân vô khu rừng đó, coi như một đi không trở lại.
Buổi trưa mùa hè, Ngài nằm trên tấm bảng lim xanh, ngó đàn bướm vàng chanh, lắng tai nghe tiếng ve rừng ra rả. Mọi người tưởng Ngài suy tư. Nhưng tôi biết Ngài đã ngủ. đó là thói quen của Ngài.
Quá ngọ, đột nhiên Ngài ngồi phắt dậy rồi hỏi: Ở đây là nơi đâu?. Tôi nói, giữa rừng. Bữa ni là mùng mấy? Tôi nói, không biết. Chừ là mấy giờ? Tôi trả lời, có thể là buổi chiều.
Ngài có vẻ hài lòng, đi một mạch xuống khe, vốc nước rửa mặt rồi khoát lên cả đầu tóc bạc phơ.
- Bọn bay về trại hết đi, tau đi tới rừng mê đây!
Lời của ngài là lệnh!
Ngài đi như bay dưới nắng chiều xiên qua tàng cây. Mấy con tắc kè núi chưa kịp nghe tiếng động lá khô để vụt chạy cứ ngơ ngác ngó theo hình dáng của ngài xa khuất. Trong lòng tôi dậy lên một nỗi niềm trắc ẩn pha lẫn cảm phục.
Khu rừng đó nằm ở ngã bảy của suối lớn. Bảy con khe nhỏ hợp về đây rồi cùng chảy lên hướng Tây hun hút. Thợ rừng kinh nghiệm lâu năm khi lạc vô rừng mê theo thói thường men theo dòng suối chảy xuôi thì mãi mãi sẽ đi lên tới trời. Linh hồn của những người này sẽ biến thành những con thú suốt đời lầm lũi giữa rừng mê.
Một con gấu già, một con khỉ đột, một con cọp ba chân, một con heo rừng, một con mang, con nhím, con chồn, con nai, cong cheo… sống chung trong khu rừng huyền bí lạ lùng này. Ngài nói, thú lớn chỉ sống một mình. Bọn chó rẫy, chó sói bất tài vô tướng tụ hội bầy đàn, săn mồi bất lương, dùng thủ đoạn chèn ép…
Rất tự phụ, ngài tin rằng kiếp trước của Ngài là con gấu già sống một mình giữa rừng mê. Ngài coi tôi là truyền nhân của Ngài nên từ nhỏ đã rèn luyện cho tôi những phẩm chất nghiệt ngã.
Bữa tối đầu tiên của Ngài hết sức đơn giản. Ngài bắt ba con ếch gai ở ngã bảy suối, đốt lửa nướng và nhắm vài hớp rượu mang theo. Ngài leo lên một tảng đá bằng phẳng, gác tay lên trán suy tư, không cần đốt lửa xua thú.
Sau này, khi ngài qua đời rồi tôi mới biết, thực ra Ngài không có tính tự phụ. Ngài thông minh tột bậc, phẩm chất đó Ngài cho chính là bi kịch của cuộc đời Ngài. Sự thông minh, đã biến Ngài thành huyền thoại khi một mình Ngài dấn bước vào rừng mê mà trở về bình an vô sự.
Hai đêm sau Ngài trở về trại. Đám thợ thấy Ngài bình an, lấy rượu uống mừng. Ngài uống liên miên, kể toàn chuyện đời xửa đời xưa. Từ thuở Ngài ấu thơ tới khi Ngài trưởng thành. Rồi chuyện Ngài yêu một cô nàng da diết cho tới chuyện Ngài bảy lần thoát chết giữa rừng sâu… Tuyệt nhiên, câu chuyện mọi người muốn nghe nhất Ngài không bao giờ hé miệng: Chuyện Ngài thoát khỏi rừng mê!
Mấy năm sau, trước khi Ngài qua đời, Ngài kêu tôi tới bên giường.
Buổi sáng đầu tiên Ngài thức dậy trên tảng đá, nhớ một con sóc hung trèo lên mặt dùng vuốt cào vào mũi. Ngài bỗng nghe mùi dâu sặt chín thơm lừng và mở mắt ra khi con sóc kịp biến vào ruột một cây trám hồng. Từ đó tiếng kêu của nó truyền lên ngọn cây, lơ lửng giữa không trung.
Ngài hút một điếu thuốc, ngó sao sớm, định hướng mặt trời rồi xuôi theo dòng suối lớn về hướng Tây. Khu rừng hoàn toàn lạ lùng so với những cánh rừng nhiệt đới ẩm thấp, nhiều dây leo. Không gian bao phủ một lớp mây mỏng huyền ảo. Đôi chân trần của Ngài đi như bay, êm ru trên tấm thảm đầy lá kim rụng xuống.
Dọc lối đi do Ngài tự vạch ra, vô số trái rừng. Những cây mật trám lá xanh ngọc, quả to như nắm tay, đỏ như màu máu. Những cây vàng nhợ lúc lỉu trái vàng màu nghệ củ. Những bụi trái nhăn xanh màu da trời tha thiết… Ngài chọn những trái cây xấu nhất để ăn buổi trưa. Ngài biết, bằng kinh nghiệm, những quả cây sặc sỡ nguy hiểm hơn độc dược. Chỉ cần Ngài mở miệng nhấm nó một miếng, coi như không có đường về. Quả chín đầy sắc màu có sức cám dỗ của ma túy và phụ nữ đẹp. Bằng sự suy đoán của cái đầu thông minh trác tuyệt, Ngài biết những loại quả kia giống y hệt thuốc mê sẽ làm trí nhớ Ngài khô cứng, suy nghĩ của Ngài sẽ chập chờn tựa mây bay hàng ngàn năm giữa rừng huyền bí.
Cây rựa cầm trên tay, Ngài đi lang thang giữa rừng không cần định hướng. Mắt Ngài vô định nhưng đôi tai ngài dỏng lên. Ngài tha thiết mong một âm thanh mà Ngài khao khát nhất vọng đến đôi tai nhạy cảm của Ngài. Đó là tiếng bước chân của con gấu già.
Mùa thu, Ngài thoát ra khỏi giấc ngủ, tỉnh cơn mộng mị và cả quyết rằng tiền kiếp của Ngài là con gấu già sống ở rừng mê. Con gấu già có màu xanh da trời, đôi mắt ban đêm bắt đốm như nước đại dương, nó trèo như thoăn thoắt lên ngọn cây vàng tâm, dùng hai tay nhẹ nhàng tách đôi ngọn cây ra lấy cái trúc mức đầy mật ong vàng óng nhâm nhi ưu phiền.
Cuộc đời trên lưng núi đã đem lại cho Ngài nhiều cay đắng. Ngài chỉ mơ mình được y hệt con gấu xanh mùa xuân lững thững đi tìm mật. Những tổ ong nghệ đầy mật ngọt gây nên những cơn say dịu dàng kéo dài suốt hai ba ngày trời. Đó là loại thuốc an thần tự nhiên chống lại sự cô đơn. Nó sống không bạn bè, không đồng loại, không bạn tình, không phản trắc… Cuộc đời của nó chỉ toàn kẻ thù. Con hổ ba chân rình rập nó suốt cuộc đời. Con khỉ đột giành hạt dẻ của nó, con rắn chúa lén ăn trộm mật ong… Thú vui duy nhất của nó là đi bắt cá dưới con suối chảy nược về hướng Tây. Những con cá khóa to bằng con mang lớn ẩn mình trong hang đá dưới vực nước màu xanh đậm. Con gấu già có thể ngồi hàng giờ bất động chờ con cá ra khỏi hang kiếm ăn để giả vờ vồ hụt một cái. Nó có thể tóm một cú một nhưng nó ưa thích như vậy. Nó muốn nhìn con vật chúa tể của vùng nước nhưng yếm thế trước nó thực sự đầu hàng. Nhiều ngày liên tiếp, nhiều mùa hạ trôi qua, con cá khóa khổng lồ đâm ra quen thuộc với kẻ thù. Nó trừng mắt nhìn bóng con gấu già soi dưới đáy nước rồi bất thần trồi lên quẫy đuôi một cái rồi biến mất trước sự giận dữ của con gấu.
Đêm thứ hai ngủ lại giữa rừng mê, Ngài thực sự thấy tâm hồn mình thanh thản. Ngaì không ưu tư, không lo lắng, không phiền muộn, không bực dọc bất thường như mọi khi. Cơ thể Ngài trôi tuột vào trạng thái rỗng tềnh toàng như một căn nhà không phên liếp. Ngài nằm trên đám lá tơi, châm điếu thuốc lá mỉm cưới với chìm sao vịt đang ngóc đầu lên phía trên. Ngày mai chắc chắn là một ngày nắng đẹp, mây lành…
Cứ thế, Ngài đi vào giấc ngủ hồi mô không biết. Nửa đêm, đột nhiên Ngài ngồi bật dậy. Có tiếng lá khô êm êm bởi bàn chân với lớp đệm mỡ dày dặn đang di chuyển nhè nhẹ. Ngài tỉnh ngủ hẳn, tim đập thình thình. Ngài vội vàng quơ cây đèn pin rọi về hướng gốc cây sến cổ thụ bên trái chỗ Ngài nằm. Hai luồng phong quang xanh màu đại dương thăm thẳm rọi ngược lại ánh đèn pin, xuyên thấu tim Ngài. Con gấu già cô độc đã xuất hiện và ăn đớm. Tim Ngài rộn rã hơn. Một nỗi hạnh phúc vô bờ xâm chiếm hết khiến thân thể lão run bần bật rồi rơi vào trạng thái không trọng lượng. Ngài đã tìm thấy bản lai diện mục của mình. Cơn khao khát điên cuồng cả đời Ngài đã được đền đáp. Ngài tìm thấy nó trong sự cô đơn tột cùng giữa cánh rừng mê.
Ánh đèn pin và hai luồng phong quang xanh thẳm chiếu rọi vào nhau suốt gần một canh giờ. Con gấu già chán đèn bỏ đi bằng một cú nhảy hùng dũng xuống hố sâu để lại thanh âm hùng hồn vang xa vô tận.
Ngài qua đời trên cánh tay tôi một buổi chiều thu. Lúc đó, tôi muốn khóc lắm nhưng không làm sao khóc được. Tôi thấy cuộc đời của tôi từ đó hoàn toàn tự do. Tôi thấy, không có một sợi dây nào níu kéo tự do của tôi nữa và tôi bắt đầu rơi vào trạng thái cô đơn của Ngài trước kia.
Một đoàn người dằng dặc đưa thi hài người về núi. Họ lặng lẽ cúi đầu bước qua cánh đồng vừa xong mùa gặt. Lũ chăn trâu đốt rơm rạ trên cánh đồng. Một đàn quạ đen đậu trên cây gạo kêu quàng quạc. Chấm hết cuộc đời trên lưng núi!
Năm ngày sau đám tang, tôi một mình vào lại khu rừng thời ấu thơ Ngài đã tập cho tôi làm núi. Đó là một ngọn núi cao gần làng, trên đỉnh có nhiều cây cổ thụ. Tôi bắt đầu nhớ lại tất cả. Những kỷ niệm yêu thương và kính phục tràn về không cách chi ngăn nổi.
Tôi trèo lên ngọn cây chò chỉ cao ngút, đứng trên chán ba, nhìn xuống làng, nhìn ra sông rồi ngó về phía biển mông lung. Lúc đó, tôi mới chợt bật khóc nức nở! ./.