Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.122
123.228.646
 
Chân lý là đất không lối mòn
Krishnamurti

Nguyễn Ước dịch

Lời người dịch:

Jiddu Krishnamurti (thường được gọi tắt là K) chào đời tại miền nam Ấn Ðộ năm 1895 trong một gia đình nghèo, thuộc đẳng cấp Bà la môn. Thân phụ của K là nhân viên ban Bí truyền của Hội Thông thiên học (Theosophy Society), một hội được thành lập chủ yếu bởi nữ nhà văn Nga Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), tác giả đại tác phẩm The Secret Doctrine, the Synthesis of Science, Religion and Philosophy (1888, Mật thuyết, một tổng hợp khoa học, tôn giáo và triết học) và  cựu đại tá Anh Henry S. Olcott (1832–1907), người trình bày Phật giáo theo lối hiện đại cho phương Tây và vẽ nên lá cờ ngũ sắc của Phật giáo.

Hội TTH là một tổ chức có tính cách tôn giáo và thần bí, mưu tìm sự tổng hợp của Ðông và Tây cho một tình huynh đệ đại đồng và chuẩn bị thế giới cho biến cố được Hội gọi là sự ra đời lần thứ ba của Ðấng Cứu thế, tức Bồ tát Di lặc hoá thân làm Ðạo sư Thế giới (Teacher of the World). Hai lần hoá thân trước, theo Hội, là tại Ấn trong thần Krishna và tại Do Thái trong Ðức Giêsu Kitô. Hội có cơ sở tại hơn 40 quốc gia, đa số hội viên thuộc giới trí thức hoặc quí tộc hay doanh gia thành đạt. Trụ sở quốc tế của Hội đặt tại Madras, nam Ấn. Tại Sài Gòn trước tháng 5.1975, Hội có trụ sở ở Phú Nhuận, với nhiều hội viên khá nổi tiếng trong chính giới và thương giới, sinh hoạt đều đặn và xuất bản một số kinh điển của TTH. 

Năm 1909, K 14 tuổi, được Hội TTH “khám phá sẽ là hoá thân của Ðức Di lặc”. Ông được đem sang Luân Ðôn, Anh, để chuẩn bị vào đại học. Nhưng sau đó, K không đủ điểm tuyển sinh, và suốt đời không tiếp nhận một nền giáo dục chính qui nào, cũng như theo K, ông không bao giờ đọc một cuốn sách nào về triết học và tôn giáo.  

Song hành với việc giáo dưỡng K, Hội TTH còn chuẩn bị cho vai trò Ðấng Cứu thế của ông bằng cách lập Dòng tu Ngôi sao (Order of the Star) năm 1911 mà có lúc lên tới 40.000 thành viên, với ngân khoản lớn lao và nhiều bất động sản do các hội viên hiến tặng tại châu Âu, châu Úc, Ấn – và đặt K làm Thủ lãnh. Năm 1923, Hội xác nhận sự thành tựu “chuyển biến tâm linh” của K và chuẩn bị thời điểm đăng vị hoá thân của ông.

Thế nhưng đến ngày 2 tháng 8 năm 1929, trước 3.000 thành viên trong một cuộc trại hằng năm tại Ommen, Hà Lan, K tuyên bố giải tán Dòng tu Ngôi sao, có nghĩa từ khước ngôi vị “Giáo chủ”, đồng thời tuyên bố rằng chân lý là “đất không lối mòn, không thể đến với chân lý qua bất cứ thẩm quyền, hệ thống, tổ chức tôn giáo, xã hội, chính trị nào”. Mỗi người phải đích thân khám phá chân lý qua sự tự biết mình, quan sát và lắng nghe cái đang là (what is), với sự chú ý bằng toàn bộ con người mình. Ngay tự thân hành động ấy ẩn chứa sự biến đổi tận gốc bản thân mỗi người, cái làm một với thế giới. Như thế, bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng, và cá nhân mỗi người phải là ánh sáng cho chính mình.

Kể từ đó, K đoạn tuyệt với Hội TTH, quyết định cư trú chính thức tại Hoa Kỳ và chia đều thời gian để đi rao giảng khắp thế giới, tại châu Âu, Nam Phi, Ấn Ðộ và Hoa Kỳ, Nam Mỹ, v.v. Tuy không phủ nhận vai trò Ðạo sư Thế giới, nhưng K đến với cử tọa như một người bạn đời đầy minh triết và “cầm tay nhau” cùng khám phá chân lý. Suốt hơn 60 năm, trong hàng chục ngàn cuộc diễn thuyết, thảo luận nhóm, gặp gỡ những cá nhân muốn tâm sự riêng tư, K mời gọi cử tọa cùng với ông, như những người bạn, thăm dò các chủ đề muôn thuở như tư tưởng, đau khổ, cái chết, thời gian, không gian, sự tĩnh lặng, tính thiêng liêng...  

Cũng theo K, con người có thể chấm dứt đau khổ ngay lập tức để có tình yêu, lòng từ bi, trí tuệ và đạt tới cái bên kia tư duy, cái được con người gọi là chân lý, Thượng đế, bản ngã tối cao, nguyên lý tối thượng, cái thiêng liêng nhất, cái hằng cửu... Và nhiệm vụ của tôn giáo là đồng hành với con người trong cuộc hành trình khám phá thực tại đó, chứ không phải là thực hiện những cái vô nghĩa như phẩm trật, nghi lễ, mê tín...

Ðược xem là nhà thuyết giảng tôn giáo tuy đứng riêng và hoàn toàn thù nghịch với các tôn giáo có tổ chức, Krishnamurti cung ứng cho tôn giáo một ngôn ngữ thích hợp với thời đại, một lối nói chuyển tải được những sắc thái và những cái nhìn thấu suốt mà lối nói “thần bí, thẩm quyền” thuở trước ngày nay lắm khi không còn thích đáng với các vấn đề và những thao thức của con người thời hiện đại.

Lời giảng, sự từ bỏ thế tục và lòng từ bi của K tác động lên vô số người trên khắp thế giới, thuộc nhiều trình độ và lãnh vực khác nhau, trong đó có những người quen biết ông, thân tình hoặc chỉ mới đọc ông, nghe ông diễn thuyết, như Pablo Casal, Aldous Huxley, Joseph Campbell, Henry Miller, Van Morrison, Lý Tiểu Long..., đặc biệt các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật và các phong trào thanh niên. 

Sau lần đầu gặp K. tại Ấn năm 1956, Ðức Ðạt lai Lạt ma (1937-  ) đã cảm giác ông là “Một Long Thọ,” gọi ông là “Một tâm hồn vĩ đại, một kinh nghiệm vĩ đại”. Gần 40 năm sau, 1995, ngài tuyên bố tại Madras rằng, “Krishnamurti là một trong những triết gia vĩ đại nhất của thời đại”. David Bohm (1917-1992), triết gia và nhà vật lý cơ học lượng tử hàng đầu đã nói, “Tác phẩm của Krishnamurti thẩm thấu cái cốt tủy của lối tiếp cận khoa học trong hình thức cao nhất và thuần khiết nhất”. Sau khi nghe K diễn thuyết, nhà văn Aldous Huxley (1894-1963) dõng dạc tuyên bố, “Như thể nghe huấn từ của Ðức Phật. Quyền năng như thế, thẩm quyền nội tại như thế”.

Radha Rajagopal, nhà văn Mỹ, người từ lúc chào đời sống chung một mái nhà với K cho tới khi tốt nghiệp đại học, trong một cuốn sách đặt nhiều vấn đề gây tranh cãi về cuộc đời của K, cũng phải thừa nhận: “Với Krinsh [tên thân mật bà thường dùng để gọi K], tôi cảm thấy biết ơn vì nhiều việc. Từ những ngày thơ ấu của tôi, ông đã dạy tôi giải thoát khỏi cuộc tìm kiếm và truy lùng vô vọng sự vị vọng và sự an toàn, các đại sư, tôn sư, các ý thức hệ. Từ ông, tôi học được rằng những so sánh và những nhãn hiệu đưa đến thành kiến và bất hạnh, rằng sự qui thuận đưa đến sự bắt chước tầm thường và rằng không thể có tự do khi còn phạm tội và sợ hãi. Ông khiến tôi tự do thoát khỏi ông và dạy tôi chớ sợ khi đi trên vùng đất không có lối mòn nào”. Lives in the Shadow with Krishnamurti (Những cuộc đời trong bóng tối với Krishnamurti), Nxb Bloomsbury Publishing Ltd., London, 1991, t.323.

Thuyết giảng từ thời hoang mang sau Ðệ nhất Thế chiến tới thời cao kỹ và bùng nổ thông tin, phong cách của K gợi cho ta nhớ tới Trang Tử trong Nam hoa kinh và bước nhảy giải thoát của K làm ta nghĩ tới diễn biến đốn ngộ của Phật giáo. Một sự liên tưởng như thế có thể giúp cho người á đông dễ tiếp cận K hơn nhưng không khỏi gượng ép và chắc chắn bị K phản đối quyết liệt.

Krishnamurti qua đời tại Ojai, California, Hoa Kỳ, năm 1986, hưởng thọ 91 tuổi; tro cốt hoả táng được đem rải tại Ấn, Anh và Mỹ. Ông để lại cho đời các Sáng hội Krishnamurti và các trung tâm sinh hoạt, các trường học mang tên Krishnamurti tại Ấn, Anh và Mỹ, cùng một số lượng khổng lồ lời giảng trong hàng chục ngàn cuốn băng ghi âm, ghi hình, cả chục ngàn trang sách, bản viết tay và thư từ. Lời giảng của K được nghiên cứu trong hơn 200 trường đại học và cao đẳng. Sách ghi lại tư tưởng của K hoặc viết về ông lúc nào cũng thuộc danh sách các sách bán chạy nhất, và thường được dành riêng một khoảng trên kệ sách của các nhà sách lớn.

Tại Nam Việt, từ giữa thập niên 1960, có tới cả chục cuốn sách giới thiệu và dịch tác phẩm của Krishnamurti; tư tưởng của ông rất được các sinh viên, trí thức và giới tu học đón nhận rộng rãi, háo hức tìm đọc. Kể từ tháng 5.1975, Hội TTH Việt Nam bị giải tán, toàn bộ sách Krishnamurti bị tịch thu, tiêu hủy, cấm tàng trử và lưu hành, trong lúc tuổi trẻ ở thế giới bên ngoài ngày càng quan tâm đến ông, đặc biệt trong học giới, tôn giáo, nghệ thuật, các phong trào môi sinh và nhân quyền.... Mãi tới hơn 25 năm sau (2000), sách Krishnamurti mới được phép xuất bản trở lại.

Dưới đây là toàn văn bài ứng khẩu Truth is a Pathless Land  (Chân lý là đất không lối mòn) của Krishnamurti khi ông tuyên bố giải tán Dòng tu Ngôi sao, lấy từ cuốn Krishnamurti: Total Freedom, The Essential Krishnamurti, (Krishnamurti: Tự do hoàn toàn, Krishnamurti tinh yếu), Nxb The Krishnamurti Foundation of America, 1966, tt. 14-18. Bạn đọc có thể tìm thấy bản tiếng Anh ở www.tphta.ws/TPH_TIPL.HTM

Trước khi đi vào phần chính văn, chúng tôi xin được nhắc lại lời K thường nói, “Hãy cùng nhau thăm dò như những người bạn. Hãy quên vị đạo sư và hãy chỉ để ý tới lời giảng, dùng nó như chiếc gương, soi mình trong đó và đích thân khám phá.” Và trả lời cho một người đặt câu hỏi về ông, K nói rằng “K là ai, không quan trọng, điều quan trọng là bạn nên thắc mắc mình là ai?” N.U

 

Chân lý là đất không lối mòn

Sáng nay, chúng ta sẽ thảo luận việc giải tán Dòng tu Ngôi Sao. Nhiều người sẽ hài lòng và nhiều người khác sẽ cảm thấy buồn bã. Việc này không mang tính cách hân hoan hoặc buồn bã vì đó là việc không thể tránh, như tôi sắp sửa giải thích.

Có thể các bạn còn nhớ câu chuyện con quỉ và một người bạn của nó cùng đi xuống phố. Cả hai thấy đằng trước họ một người cúi xuống đất, lượm cái gì đó, nhìn cái đó rồi đút nó vào túi mình. Người bạn nói với con quỉ, “Người kia lượm cái gì vậy?” “Anh ta lượm một mảnh của Chân lý”, con quỉ nói. “Thế thì đó là việc rất tệ hại cho ngươi”, người bạn nói. “Ô, không, chẳng tệ hại chút nào”, con quỉ trả lời, “Tôi sắp sửa để cho anh ta tổ chức cái mảnh đó”.

Tôi xác nhận rằng Chân lý là miền đất không có lối mòn, và các bạn không thể tiếp cận nó bằng bất cứ con đường có sẵn nào, bất cứ tôn giáo nào, bất cứ tông phái nào. Ðó là quan điểm của tôi và tôi trung thành với quan điểm đó một cách tuyệt đối và vô điều kiện.

Vốn không giới hạn, không điều kiện, không thể tiếp cận bằng bất cứ lối đi có sẵn nào, Chân lý  không thể bị tổ chức, cũng không nên thành lập bất cứ tổ chức nào để dẫn đạo hoặc để thúc ép người ta đi theo bất cứ con đường cá biệt nào. Nếu trước tiên các bạn hiểu điều đó, thì kế tiếp các bạn sẽ thấy việc tổ chức một tín ngưỡng là bất khả thi biết bao. Lòng tin thì thuần khiết và là một việc cá nhân, và các bạn không thể và không được tổ chức nó. Nếu các bạn làm như thế, nó trở nên chết cứng, cô kết; nó trở thành một tín điều, một tông phái, một tôn giáo, áp đặt lên người khác. Ðó là việc mà mọi người trên khắp thế giới này đang ra sức hoàn thành. Chân lý [vì thế] bị thu hẹp và làm đồ chơi cho những kẻ yếu đuối, cho những kẻ chỉ bất mãn thoáng qua. Chân lý không thể bị hạ xuống mà đúng ra, cá nhân phải nỗ lực tiến lên nó.

Các bạn không thể đem đỉnh núi xuống thung lũng. Nếu muốn lên tới đỉnh núi, các bạn phải vượt qua thung lũng, trèo dốc, không sợ hãi các vách dựng đứng nguy hiểm. Các bạn phải leo tới Chân lý, Chân lý không thể “bước xuống” hoặc tổ chức hóa cho các bạn. Phúc lợi bằng ý tưởng được lưu giữ chủ yếu nhờ các tổ chức, thế nhưng các tổ chức lại chỉ nhận thấy phúc lợi từ bên ngoài. Một phúc lợi không phát sinh từ tình yêu Chân lý vì Chân lý mà phát sinh từ một tổ chức thì phúc lợi ấy chẳng có chút giá trị nào. Tổ chức trở thành một bộ khung và các thành viên của nó có thể tùy nghi thích ứng mình vào đó. Không còn phấn đấu đi theo Chân lý hoặc leo lên đỉnh núi, họ chỉ khoét lấy cho mình một lỗ hốc để chính tay mình hoặc phó cho tổ chức đặt mình vào lỗ đó và họ cho rằng qua đó, tổ chức sẽ dẫn dắt họ tới Chân lý.

Vậy đó là lý do đầu tiên, theo quan điểm của tôi, tại sao nên giải tán Dòng tu Ngôi sao. Bất chấp việc này, có lẽ các bạn sẽ thành lập các Dòng tu khác, các bạn sẽ tiếp tục thuộc về các tổ chức khác đang tìm kiếm Chân lý. Tôi không muốn thuộc về bất cứ tổ chức thuộc loại tinh thần nào, xin các bạn hiểu cho điều này. Hẳn tôi sẽ phải dùng đến một tổ chức mang tôi về Luân Ðôn, thí dụ như vậy; nhưng đó là một loại tổ chức hoàn toàn khác, hoàn toàn có tính cách máy móc như nhà bưu tín hoặc bưu điện. Tôi sẽ dùng xe cộ hoặc tàu bè để đi đó đi đây; những cái đó là máy móc vật chất, hoàn toàn không dính dáng tới trạng thái tâm linh. Thêm lần nữa, tôi xác nhận rằng không một tổ chức nào có thể dẫn đường con người tới trạng thái tâm linh.

Nếu một tổ chức được lập ra vì mục đích ấy, nó trở thành một cái nạng, một yếu kém, một câu thúc, và chắc chắn làm cho cá nhân què quặt, ngăn cản khiến cá nhân không trưởng thành, không xây dựng được tính độc đáo của mình, cái vốn nằm sẵn ở đó để bản thân y tự khám phá Chân lý tuyệt đối và vô điều kiện. Như thế, đó là một lý do nữa tại sao tôi, kẻ ngẫu nhiên làm Thủ lãnh của Dòng tu, quyết định giải tán nó. Ðối với quyết định này, không một người nào thuyết phục tôi cả.

Ðây không là một hành động cao cả, [chẳng qua là] vì tôi không muốn có đệ tử, và tôi có ý như thế. Hễ khoảnh khắc nào các bạn đi theo ai thì khoảnh khắc ấy các bạn ngưng đi theo Chân lý. Tôi không quan tâm việc các bạn có chú ý tới điều tôi nói hay không. Tôi muốn làm một điều nhất định trên thế giới này và tôi sắp sửa làm điều đó với sự tập trung kiên định. Bản thân tôi chỉ đang quan tâm tới việc cốt tủy độc nhất đó: là sao cho con người tự do. Tôi khao khát giải phóng con người khỏi mọi chiếc lồng, khỏi mọi sợ hãi và không mưu tìm một tôn giáo, một tông phái mới, cũng không kiến lập các học thuyết mới, các triết thuyết mới.

Thế thì tất nhiên các bạn sẽ hỏi tôi tại sao tôi lại đi khắp thế giới và liên tục phát biểu. Tôi sẽ nói cho các bạn biết lý do nào khiến tôi làm như thế: không phải vì tôi thèm muốn có sự đi theo mình, không phải vì tôi thèm muốn có một nhóm đặc biệt gồm các môn đệ đặc biệt. (Người ta thích biết mấy được khác biệt với đồng môn, tuy sự phân biệt đó của họ có thể là khôi hài, phi lí và tầm thường! Tôi không muốn khích lệ sự phi lí ấy). Tôi không có môn đệ, không có tông đồ, cả ở chốn trần tục lẫn ở cảnh giới tâm linh.

Sức quyến rũ của tiền tài cũng như sự thèm muốn sống đời tiện nghi không thu hút tôi. Nếu muốn theo đuổi cuộc sống tiện nghi tôi đã không đến dự Trại này hoặc sống ở xứ sở ẩm ướt này! Tôi nói một cách thẳng thắn vì tôi muốn việc này được giải quyết dứt khoát một lần rồi thôi. Tôi không muốn những cuộc thảo luận ấu trỉ này kéo dài hết năm này qua năm nọ.

Một phóng viên báo chí phỏng vấn tôi, anh ta đánh giá lớn lao hành động giải tán một tổ chức có hàng ngàn và hàng ngàn thành viên. Ðối với anh ta thì đó là một việc làm cao cả vì anh ta nói:

“Sau đó ông sẽ làm gì, ông sẽ sống như thế nào? Ông sẽ không có ai theo, người ta không còn lắng nghe ông nữa” Nếu chỉ có năm người sẽ lắng nghe, sẽ sống, hướng mặt tới vĩnh cửu, thế là đủ. Lợi ích gì khi có hàng ngàn người không am hiểu, những kẻ hoàn toàn ghi sâu, một cách trang trọng, trong lòng họ các thành kiến, những kẻ không muốn cái mới, nhưng đúng hơn, chỉ muốn thông giải cái mới ấy sao cho phù hợp với cái tôi cằn cỗi, mụ mẩm của họ? Nếu tôi có phát biểu một cách mạnh mẽ thì xin đừng hiểu lầm tôi; tôi làm như thế không phải là thiếu lòng từ bi. Nếu bạn đến với một bác sĩ để được giải phẩu, và trong khi tiến hành mỗ xẻ, vị bác sĩ ấy làm bạn đau đớn thì có phải ông ta không tử tế với bạn? Vậy, bằng cách giống như thế, nếu tôi có nói một cách thẳng thắn thì đó không phải là thiếu lòng thương cảm chân chính, mà ngược lại.

Như đã nói, tôi chỉ có một mục đích: làm cho con người tự do, thúc giục con người hướng tới giải thoát và giúp cho con người phá vỡ hết thảy các giới hạn, vì chỉ riêng hành động đó cũng sẽ cho con người hạnh phúc vĩnh cửu, sẽ cho nó một sự nhận biết không bị điều kiện hóa cái bản ngã của mình.

Vì tôi tự do, không bị điều kiện hóa, toàn bộ – không phải một phần, không phải tương đối, nhưng toàn bộ Chân lý là vĩnh cửu – nên tôi khao khát những ai tìm cách am hiểu tôi đều được tự do, không đi theo tôi, không từ tôi làm ra chiếc lồng, cái sẽ trở thành tôn giáo, tông phái. Mà là họ được giải phóng khỏi mọi sợ hãi – khỏi sự sợ hãi tôn giáo, khỏi sự sợ hãi của tình trạng nô lệ, khỏi sự sợ hãi của trạng thái tinh thần, khỏi sự sợ hãi của tình yêu, khỏi sự sợ hãi của cái chết, khỏi sự sợ hãi của chính cái sống. Như một nghệ sĩ vẽ bức tranh vì người ấy tìm thấy niềm thích thú trong bức tranh, vì nó là sự tự thể hiện mình, là vinh quang của mình và hạnh phúc của mình, thì tôi làm việc này cũng như thế, tôi không muốn bất cứ điều gì từ bất cứ ai.

Các bạn quen với tình trạng có thẩm quyền hoặc với bầu khí thẩm quyền mà các bạn nghĩ rằng nó sẽ dẫn dắt mình tới trạng thái tâm linh. Các bạn nghĩ và hy vọng rằng một người khác có thể, bằng những quyền năng khác thường – bằng phép lạ – mang các bạn tới cảnh giới giải thoát vĩnh cửu, cái là Hạnh phúc. Toàn bộ cách nhìn của các bạn về cuộc đời bị đặt trên tính chất thẩm quyền ấy.

Các bạn đã lắng nghe tôi suốt ba năm nay, bền lòng chẳng chút đổi thay trừ một ít người. Giờ đây các bạn hãy phân tích những gì tôi phát biểu, hãy phê bình, để có thể hiểu trọn vẹn, hiểu tận nền tảng. Khi tìm kiếm một thẩm quyền để dẫn dắt mình tới trạng thái tâm linh, các bạn buộc lòng phải tự động dựng lên một tổ chức chung quanh kẻ thẩm quyền đó. Bằng chính việc tạo ra một tổ chức mà các bạn cho rằng nó sẽ giúp cho kẻ thẩm quyền hướng dẫn các bạn tới trạng thái tâm linh, các bạn lại khiến cho mình bị nhốt vào một chiếc lồng.

Nếu tôi phát biểu một cách thẳng thắn thì xin nhớ cho rằng tôi làm như thế không phải phát xuất từ sự khắc nghiệt, không phải phát xuất từ sự thô bạo, không phải phát xuất từ lòng sôi nổi với cứu cánh của mình, mà chỉ vì tôi muốn các bạn hiểu rõ điều tôi có ý nói. Ðó là lý do tại sao các bạn có mặt nơi đây, và hẳn sẽ mất thì giờ nếu tôi không giải thích quan điểm của mình một cách rõ ràng và dứt khoát.

Mười tám năm nay các bạn đã chuẩn bị cho biến cố này, cho sự Giáng lâm của Ðạo sư Thế giới. Trong suốt 18 năm, các bạn tổ chức, các bạn tìm kiếm ai đó ban cho tâm hồn và tâm trí của các bạn niềm thú vị mới, ai đó làm biến đổi toàn bộ cuộc đời của các bạn, ai đó cho các bạn sự am hiểu mới, ai đó nâng các bạn lên và đưa các bạn vào một tầm mức phát triển mới cho cuộc sống, ai đó cho các bạn sự khích lệ mới, ai đó làm cho các bạn được giải thoát – và giờ đây các bạn hãy nhìn những gì đang xảy ra!

Các bạn hãy cân nhắc, hãy lý luận bằng chính bản thân mình và hãy khám phá bằng cách nào niềm tin làm cho mình khác biệt – không phải là sự khác biệt bề mặt của việc đeo phù hiệu, [vì] cái đó vốn tầm thường và phi lý. Bằng cách nào mà niềm tin quét sạch tất cả những gì không cốt tủy của cuộc sống? Chỉ có một cách thẩm xét thôi:  bằng cách nào các bạn tự do hơn, lớn lao hơn, nguy hiểm hơn cho mọi Hiệp hội đang đặt nền tảng trên sự giả trá và trên những gì không cốt tủy? Bằng cách nào mà thành viên của tổ chức Ngôi sao này trở nên khác biệt?

Như tôi đã nói, suốt 18 năm nay các bạn đã chuẩn bị cho tôi. Tôi không màng tới việc các bạn có tin tôi là Ðạo sư Thế giới hay không. Ðiều ấy chỉ quan trọng chút ít thôi. Vì thuộc về tổ chức của Dòng tu Ngôi sao nên các bạn cống hiến thiện cảm của các bạn, năng lực của các bạn, trong việc thừa nhận Krishnamurti là Ðạo sư Thế giới – một cách cục bộ hay toàn bộ: toàn bộ đối với những ai đang thật sự tìm kiếm, cục bộ đối với những ai đang mãn nguyện với một nửa mảnh chân lý của mình.

Các bạn đã và đang chuẩn bị suốt 18 năm nay và hãy nhìn bao nhiêu nỗi khó khăn đang ở trên con đường am hiểu của các bạn, bao nhiêu sự phức tạp, bao nhiêu cái tầm thường. Thành kiến của các bạn, sợ hãi của các bạn, các kẻ thẩm quyền của các bạn, các giáo hội tân và cựu của các bạn – hết thảy những cái đó, tôi quả quyết rằng, đều là hàng rào ngăn cản sự am hiểu. Ðiều này tôi không thể tự mình làm cho rõ ràng hơn. Tôi không muốn các bạn đồng ý với tôi. Tôi không muốn các bạn đi theo tôi. Tôi chỉ muốn các bạn am hiểu điều tôi đang phát biểu.

Sự am hiểu này là thiết yếu vì niềm tin của các bạn chẳng những đã không tạo được sự khác biệt cho các bạn mà chỉ khiến cho các bạn rối rắm, và cũng vì các bạn không có ý muốn đối mặt với mọi sự đúng như chúng đang là. Các bạn muốn có những thần linh của chính mình – những thần linh mới thay thế cho những thần linh cũ, những tôn giáo mới thay thế cho những tôn giáo cũ, những hình thức mới thay thế cho những hình thức cũ – tất cả những cái đó đều vô giá trị như nhau, đều hoàn toàn là những rào cản, những giới hạn và là những chiếc nạng.

Thay thế vào những phân biệt tinh thần cũ, thay thế vào những thờ phượng cũ, các bạn có những thờ phượng mới. Các bạn hoàn toàn để tinh thần của mình lệ thuộc vào người nào khác, để hạnh phúc của mình lệ thuộc vào người nào khác, để sự giác ngộ của mình lệ thuộc vào người nào khác; và mặc dù các bạn đã và đang chuẩn bị cho tôi suốt 18 năm nay nhưng khi tôi nói rằng hết thảy những việc đó không cần thiết, khi tôi nói rằng các bạn phải bỏ hẳn chúng mà nhìn vào nội tâm mình, để giác ngộ, để cho sự vinh quang, sự thuần khiết và sự bất hoại của bản ngã, thì không một người trong các bạn đang có ý muốn làm điều đó. Có thể có một ít, nhưng rất ít, rất ít.

Thế thì tại sao có tổ chức?

Tại sao có người giả dối, giả nhân giả nghĩa đi theo tôi, xem tôi là biểu hiện của Chân lý? Xin các bạn nhớ cho rằng tôi không có ý nói tới điều gì khắc nghiệt hoặc không tử tế nhưng chúng ta đang với tới một tình trạng ở đó có những vấn đề các bạn phải đối mặt. Năm ngoái tôi đã nói rằng tôi sẽ không thỏa hiệp. Lúc ấy chỉ rất ít người lắng nghe tôi. Năm nay tôi nói rõ ra điều ấy, minh bạch một cách tuyệt đối. Tôi không hiểu tại làm sao hàng ngàn người trên khắp thế giới – thành viên của Dòng tu – đã và đang chuẩn bị cho tôi suốt 18 năm qua, nay lại không có ý muốn nghe, một cách vô điều kiện và toàn bộ, những gì tôi nói.

Thế thì tại sao có tổ chức?

Như tôi đã nói trước đây, mục đích của tôi là làm cho con người giải thoát vô điều kiện, vì tôi xác nhận rằng chỉ có tâm linh là trạng thái bất hoại của bản ngã, là vĩnh cửu, là sự hoà hợp giữa lý trí và tình yêu. Ðó là Chân lý tuyệt đối, vô điều kiện, và là chính Sự sống. Bởi thế tôi muốn sao cho con người tự do, hân hoan như chim giữa bầu trời trong trẻo, không nặng gánh, độc lập và ngây ngất trong tự do đó. Và vì các bạn, những người đã chuẩn bị 18 năm nay, lúc này tôi nói rằng các bạn phải được giải thoát khỏi toàn bộ những điều ấy, giải thoát khỏi những rối rắm của mình. Vì sự giải thoát ấy nên các bạn không cần có một tổ chức đặt căn bản trên niềm tin tinh thần. Tại sao có một tổ chức cho năm hoặc mười người trong một thế giới mà họ am hiểu, họ phấn đấu, họ đặt sang một bên tất cả những cái lặt vặt không đáng kể? Còn đối với những kẻ nhu nhược thì không tổ chức nào có thể giúp cho họ nhận ra Chân lý, vì Chân lý ở trong mỗi người; nó không ở xa, nó không ở gần; nó vĩnh viễn ở ngay đó.

Các tổ chức không thể làm cho các bạn tự do. Không ai bên ngoài có thể làm cho các bạn giải thoát: không sự thờ phượng có tổ chức và không sự hãm mình vì một nguyên cớ có thể khiến cho các bạn được giải thoát, không việc lao bản thân mình vào công tác có thể khiến cho các bạn được giải thoát. Các bạn dùng máy đánh chữ để viết thư nhưng các bạn không đặt nó lên bàn thờ mà thờ phượng nó. Thế nhưng đó là điều các bạn hẳn sẽ làm khi các tổ chức trở thành mối quan tâm chính của các bạn. 

“Có bao nhiêu trại sinh ở đây nằm trong tổ chức?” Ðó là câu đầu tiên các phóng viên báo chí hỏi tôi.

“Ông có bao nhiêu người theo ông? Bằng vào số lượng người đi theo ấy chúng tôi sẽ phán xét điều ông phát biểu đúng hay sai.” Tôi không biết có bao nhiêu người đang ở đây. Tôi không quan tâm tới điều đó. Như tôi đã nói, thậm chí nếu chỉ có một người muốn sao cho giải thoát thì đối với tôi như thế là đủ.

Thêm nữa, các bạn có ý tưởng rằng nhất định phải có người đang giữ chìa khóa của Vương quốc Hạnh phúc. Không ai giữ chìa khóa ấy. Không ai có quyền giữ nó cả. Chìa khóa ấy chính là bản ngã của bạn, và Vương quốc Vĩnh cửu ấy hiện hữu trong sự triển khai, trong sự thuần khiết và trong sự bất hoại của tự thân bản ngã mà thôi.

Như thế các bạn thấy phi lý biết bao toàn bộ cấu trúc được các bạn dựng lên trong khi các bạn tìm kiếm sự phù trợ vĩnh cửu, trong khi lệ thuộc vào người khác để có ủi an, để có hạnh phúc, để có sức mạnh của mình. Các bạn chỉ có thể tìm kiếm những cái ấy trong chính bản thân mình, trong chính các bạn.

Thế thì tại sao có tổ chức?

Các bạn có thói quen để cho ai đó nói cho biết rằng các bạn đã tiến bộ ngang đâu, trạng thái tâm linh của các bạn tới lúc này ra sao? Thật ấu trỉ! Nếu nội tâm các bạn đẹp đẽ hoặc xấu xa thì ngoài các bạn ra còn ai có thể nói cho các bạn biết? Nếu các bạn bất hoại thì ngoài các bạn ra còn ai có thể nói cho các bạn biết? Trong các việc này, các bạn chẳng nghiêm chỉnh chút nào!

Thế thì tại sao có tổ chức?

Nhưng chính những người thật sự khao khát thông hiểu, những người đang trông mong sẽ tìm thấy cái là vĩnh cửu, không bắt đầu, không kết thúc và cùng nhau bước đi với sự tập trung sâu xa các nỗ lực của mình, họ sẽ là mối nguy cho tất cả những gì không cốt tủy, cho những gì không hiện thực, cho các bóng tối. Và những người ấy sẽ tập họp, họ sẽ trở thành ngọn lửa, vì họ am hiểu. Chúng ta phải tạo ra bộ phận như thế và đó là mục đích của tôi. Do bởi sự am hiểu chân chính mà sẽ có tình bằng hữu chân chính. Do bởi tình bằng hữu chân chính – cái hình như các bạn không biết – sẽ có sự hợp tác thật sự trong phần của mỗi người. Và điều đó không do bởi thẩm quyền, không do bởi sự cứu độ, không do bởi sự hi sinh cho một nguyên cớ, nhưng do bởi các bạn thật sự am hiểu, và từ chỗ đó có các bạn có khả năng sống trong vĩnh cửu. Ðây là cái lớn lao hơn mọi khoái cảm và mọi hy sinh.

Như thế, đó là một số lý do tại sao, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng suốt hai năm qua, tôi lập quyết định này. Nó không xuất phát từ sự bốc đồng trong khoảnh khắc. Tôi không bị bất cứ ai thuyết phục về quyết định này – tôi không để cho mình bị thuyết phục trong những sự việc như thế này. Trong hai năm qua, tôi đã suy nghĩ về vấn đề này, một cách chậm rãi, thận trọng, nhẫn nại, và giờ đây tôi quyết định giải tán Dòng tu như tôi đã ngẫu nhiên là Thủ lãnh của nó. Các bạn có thể hình thành các tổ chức khác và kỳ vọng vào người nào đó khác. Tôi không quan tâm tới việc đó, cũng như tới việc làm ra các chiếc lồng mới cùng những trang trí mới cho chiếc lồng ấy. Quan tâm độc nhất của tôi là sao cho con người tự do một cách tuyệt đối, vô điều kiện.

           

Krishnamurti
Số lần đọc: 1854
Ngày đăng: 03.06.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trung Quốc phải chấm dứt ngay giọng điệu hiếu chiến - Đinh Kim Phúc
Bàn về Không gian và thời gian-1 - Nguyễn Ước
Bàn về Không gian và thời gian-2 - Nguyễn Ước
Thơ cần thiết cho ai - Billy Collins: Một ngày nữa thôi - Nguyễn Đức Tùng
Bàn về Lượng tính - 1 - Nguyễn Ước
Bàn về Lượng tính - 2 - Nguyễn Ước
Heuréka! - Imre Kertész
Di sản hằn sâu của châu Âu - Imre Kertész
Xác định chủ quyền văn hoá của Tổ tiên Việt tộc - Vũ Khánh Thành
Văn hóa biển miền đông nam bộ- nhìn từ lễ hội dân gian của ngư dân - Đinh Văn Hạnh
Cùng một tác giả