Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.190
123.204.710
 
Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh
Đỗ Quyên

Ám ảnh và Bất an là hai nguồn nuôi các sáng tạo nghệ thuật sống dài lâu với đời. Cái đầu thường thấy ở thơ; cái sau hay gặp trong văn. [i]

 

“Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung là bài thơ đặc sắc đến rùng mình! Đọc lời bình của Trần Anh Thái (xin xem Phụ lục) trên phongdiep.net tôi cũng bị "ám ảnh" theo, và thấy nó ánh lên một thứ thi pháp khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling, ở đâu khác thì không biết chứ ở sáng tác này, Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi!

 

Chia sẻ với các nhận định khái quát của người bình, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng nên bài thơ đó:

 

1. Thủ pháp áp đặt:

 

Bí kíp thi pháp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras [ii] là ai - miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v... không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” - nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Do tựa đề đã có các từ “tưởng tượng”, sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Cái khiên cưỡng đã gợi hương vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về đời bình dị.

 

2. Thủ pháp phi lý:

 

2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh...”, rồi “ngày ta sinh...”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy họ Trương quả có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn, lại còn khéo nữa!

 

2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng loạt hình ảnh siêu thực, phi thực hay cực thực tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; Và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” “anh”. Nhân vật phụ ấy vụt trở thành “VIP” trong tác phẩm! Tính nhân bản của sáng tạo là chỗ này: Sinh nở gọi sinh nở! Chất trữ tình ở bài thơ cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng như một dòng hồi ức bằng thơ, khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan.

 

2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau ... làm đồ nhắm rượu”, “chuột ăn cắp tã vá”, “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”...) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, khoảng bốn mươi năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công của một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót”, cái “ấn tượng đau thương, quằn quại”, nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm văn chương. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!

 

2.4. Phi lý về kết cấu, bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một xâu “kỷ niệm" không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở bài và kết bài đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống câu chuyện cổ tích thời a-còng!

 

2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ Tình và cái Tự Sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự Sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.

 

3. Thủ pháp thành phần phụ:

 

Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã sử dụng hết mình thủ pháp này; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như nói trên, “ăn nhau” là ở các từ “tưởng tượng”. Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh”. Địa điểm, thời gian làm bài thơBudapest, 4-1983”, nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang mạng tạp chí Sông Hương, thì là các con số“5-1984”; chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ, ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”.) Tức là, bài thơ với“ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.

 

Thông thường, phần “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và cũng nhiều khi là được), những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí... liệng đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm. (Nói cho ngay, không thể nào coi tựa đề như một thành phần phụ! Ở đây chỉ mang ý khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ.) Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng mới có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài“Những kỷ niệm tưởng tượng”, xin được mạnh bút mà rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ. [iii]

 

4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây:

 

Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt nhi đồng “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”), v.v... mà cốt tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo / bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng lẫn cấu trúc, hình tượng.

 

Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa không nhân nhượng mọi đường biên quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ đã làm nổi lên một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với "Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai". Phải rồi, đó là của “chúng ta”, bởi đã “lớn lên cùng nhau”, “cùng nhau thấy...”, cùng nhau thấy....” “cùng nhau thấy...”! Chúng ta – đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hươngphongdiep.net, là v.v... và v.v... Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận thơ. Nghệ thuật thi ca là vậy!

 

5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ:

 

Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói - “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” - mà ngay bây giờ, 2009, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ. Nhưng vì thi ca Việt còn chưa qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của bài thơ.

 

 

Ám ảnh là nguồn sống của thơ ca.

Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hung, Việt Tác Phẩm Mới, Sông Hươngphongdiep.net, mời tất cả chúng ta hãy có lời tổng cám ơn Nàng Thơ – mẫu nghi của thiên địa này!

 

Vancouver, ngày 23 tháng 10 năm 2009

 

Phụ lục:

 

Bài bình của Trần Anh Thái và bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung:

 

(Theo http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=8037; và

http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=6&catid=24&ID=3242&shname=Tho-Song-Huong-06-2004)

 

 

 

Một bài thơ ám ảnh
TRẦN ANH THÁI

 

Khoảng cuối năm 2004, tôi vô tình đọc được bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng”,  đăng trên tạp chí Sông Hương, tác giả của nó là Trương Đăng Dung. Lúc đó tôi chưa biết Trương Đăng Dung chính là PGS-TS, tác giả của cuốn sách “Tác phẩm văn học như là quá trình” - Một chuyên luận nổi tiếng, được các học giả trong nước và ngoài nước đánh giá rất cao; chuyên luận nghiên cứu về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, dưới ánh sáng của mỹ học tiếp nhận... Nhưng bài thơ dài ba mươi hai câu, ông viết tưởng nhớ một người bạn nước ngoài là nhà thơ người Hungary Hollo Andras, đã gây nên chấn động mạnh mẽ đến gai người; một ấn tượng đau thương, quằn quại trong sâu thẳm người đọc là tôi. Đọc lại lần nữa, rồi một lần nữa, tôi càng yêu quí và trân trọng sự giản dị mà sâu xa ẩn chứa trong từng câu, từng chữ. Bài thơ không chỉ lôi cuốn tôi bằng một giọng lạ, mới và về một ký ức đau thương, xa xót mà còn vì nó có được một cách sử dụng hình ảnh, cách kiến tạo bài thơ, cách sắp xếp ngữ pháp câu thơ rất riêng, tạo nên một hiệu quả nghệ thuật khác thường. Bài thơ của Trương Đăng Dung được viết từ tháng 4-1983, tức cách nay đã gần ba mươi năm (đã in lần đầu trên tạp chí Tác Phẩm Mới của Hungary, số 10-1983). Vào thời điểm ấy, nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm. Cảm ơn Trương Đăng Dung đã cho tôi thưởng lãm bài thơ rất hay này:

 

 

Những kỷ niệm tưởng tượng

(Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras)

 

Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054

tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời

ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện

các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời

họ lấy nhau của mẹ ta chia nhau làm đồ nhắm rượu

các nữ y tá nhìn ta

kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói

không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.

 

Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên

những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện

chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm

rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.

 

Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó

cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng

cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống

và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí

trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.

 

Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm

chân người chết thò ra khỏi chiếu

cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra

vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn

và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo

bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...

Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời

khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,

(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)

em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn

giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.

 

Đã lâu rồi quạ cũng bay đi

có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống

để làm búp bê cho em tôi chơi

làm dùi cho em tôi đánh trống.

 

 

Budapest, 4-1983

TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

 

 



[i] Nhà văn Nguyễn Thành Long từng cho rằng bất an là đặc trưng thể loại của truyện ngắn. Tôi rất thấy không chỉ rất đúng (như với các tác giả Lỗ Tấn, Nguyễn Huy Thiệp, Daniil Kharms), mà cả với tiểu thuyết (như của Albert Camus), tùy bút (Hoàng Phủ Ngọc Tường).

[ii] Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tác giả Trương Đăng Dung đã học và nghiên cứu ở đó, là người dịch nhiều bài thơ của Hollo Andras ra tiếng Việt.

[iii] Chúng tôi cũng đã ít nhiều lưu tâm tới ý nghĩa của các thành phần phụ trong một bài thơ, và xin khất ở dịp khác. Một ví dụ khá rõ cho “sức mạnh” của lời đề tặng là với bài thơ Nếu của Nguyễn Đức Tùng từng làm lao xao độc giả trong và ngoài nước hồi năm ngoái (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12515&rb=0101)

 

Đỗ Quyên
Số lần đọc: 2988
Ngày đăng: 24.10.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đi suốt đời chưa hết niềm say - Bùi Công Thuấn
Nỗi đời riêng và ánh rằm xưa - Võ Quê
Đẹp dị biệt từ “ Dị hương “ - Nguyễn Hoàng Vân Anh
Thơ vài khắc của Nguyễn Hồng Nhung - Phương Giang
Điểm sách :Tạo dựng tương lai * - Phạm Toàn
Nháp, những vần thơ đêm trắng bạch - Lê Vũ
Mai Văn Phấn, ngòi bút phiêu lưu giữa những biến cố của tâm hồn - Nguyễn Hoàng Đức
Hoàng Vũ Thuật, một chặng đường Thơ - Yến Nhi
Giai điệu trầm quê hương của Trần Vạn Gĩa - Lê Khánh Mai
Vấn đề con người trong tiểu thuyết Hư thực của Phùng Văn Khai - Trần Thị Ngọc Lan
Cùng một tác giả
Hôn - 2 (thơ)
Em (thơ)
Thai phu (truyện ngắn)
Ăn tim (truyện ngắn)
Thư về thơ (phê bình)