Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.147
123.225.921
 
Hiến chương Nhân Bản 2000 : Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu Mới -1
Nguyễn Ước

Bản tiếng Việt Hiến Chương Nhân Bản 2000 được dịch từ toàn văn bản tiếng Anh "Humanist Manifesto 2000: A Call for a New Planetary Humanism" (Hiến Chương Nhân Bản 2000: Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Hành Tinh Và Mới). Nguyễn Ước dịch

 

 

I. Lời mở đầu


Chủ nghĩa nhân bản là một quan điểm đạo đức, khoa học cùng triết lý và đang làm thay đổi thế giới. Di sản của nó có nguồn gốc từ các triết gia và thi sĩ thời cổ Hi lạp và La mã, Khổng giáo Trung hoa và phong trào Carvaka thời cổ Ấn độ. Ròng rã hơn nửa thiên niên kỷ, các nghệ sĩ, nhà văn, nhà khoa học và nhà tư tưởng nhân bản hình thành kỷ nguyên hiện đại. Quả thật, chủ nghĩa nhân bản và chủ nghĩa hiện đại thường được xem có cùng một ý nghĩa; vì những tư tưởng và giá trị nhân bản biểu lộ niềm tin tưởng có tính tái tạo vào sức mạnh của con người nhằm giải quyết những vấn đề của loài người và khuất phục những ranh giới chưa được thăm dò.


Chủ nghĩa nhân bản hiện đại đơm hoa kết trái trong thời đại Phục hưng. Nó dẫn tới sự phát triển của khoa học hiện đại. Trong thời đại Khai sáng, nó làm nảy sinh những lý tưởng mới về công bằng xã hội và gây hứng khởi cho cuộc cách mạng dân chủ của thời đại chúng ta. Chủ nghĩa nhân bản giúp định hình một quan điểm đạo đức mới, nhấn mạnh vào giá trị của tự do và hạnh phúc cùng những hiệu quả tốt của các quyền phổ quát của con người.


Những người ký tên vào bản Hiến Chương này tin rằng chủ nghĩa nhân bản có nhiều điều cống hiến cho loài người khi chúng ta đối mặt với các vấn đề của thế kỷ 21 và của tân thiên niên kỷ bắt đầu từ đó. Nhiều tư tưởng cũ và truyền thống mà loài người thừa kế không còn thích đáng với các thực tại hiện nay và các cơ hội tương lai. Chúng ta cần tư duy tươi mới để đối phó với xã hội toàn cầu đang ló dạng lúc này; và tư duy tươi mới là dấu chỉ tính ưu việt của chủ nghĩa nhân bản. Do đó, chúng tôi công bố Hiến Chương Nhân Bản 2000: Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu Mới.


Những khuyến cáo dưới đây được đưa ra trong khiêm tốn nhưng với niềm xác tín rằng chúng có thể đóng góp vào cuộc đối thoại giữa các quan điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo khác nhau trên thế giới. Dù chúng tôi, những người tán đồng văn bản này, cùng chia sẻ những nguyên tắc và những giá trị chung, chúng tôi sẵn sàng sửa đổi quan điểm của mình dưới ánh sáng của kiến thức mới, những tình huống biến đổi và những vấn đề có thể bất ngờ phát sinh. Không thể nào tạo được một Hiến Chương bất biến nhưng thật hữu ích và khôn ngoan khi biên soạn một tài liệu dùng tạm và để ngỏ cho việc xét duyệt.

Đưa dẫn vào hiện tại


Trong thế kỷ 20, đã có công bố bốn Hiến Chương Tuyên ngôn Nhân Bản chính yếu: Hiến Chương Nhân Bản I, Hiến Chương Nhân Bản II, Tuyên Ngôn Nhân Bản Thế Tục và Tuyên Ngôn Về Liên Lập.

Hiến Chương Nhân Bản I xuất hiện năm 1933 vào cao điểm của cuộc suy thoái kinh tế thế giới lúc ấy. Ðược tán đồng bởi 34 nhà nhân bản Hoa kỳ (trong đó có triết gia John Dewey), nó phản ánh những quan tâm của thời đại ấy, khuyến cáo trước hết một hình thức nhân bản chủ nghĩa tôn giáo phi thần (nontheistic) như một chọn lựa cho các tôn giáo thời đại, và thứ đến, nền kinh tế quốc gia và việc thiết kế xã hội.


Hiến Chương Nhân Bản II được công bố năm 1973 để ứng xử các vấn đề phát sinh trên hiện trường thế giới kể từ thời đó: sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát-xít và việc nó bị đánh bại trong Thế Chiến Hai, sự gia tăng ảnh hưởng và sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lê và chủ nghĩa Mao, Chiến Tranh Lạnh, sự phục hồi nền kinh tế hậu chiến tại châu AÂu và châu Mỹ, cuộc giải thực tại những khu vực rộng lớn trên thế giới, việc thành lập Liên Hiệp Quốc, cuộc cách mạng tính dục, sự tăng trưởng của phong trào phụ nữ, sự đòi hỏi của thiểu số về quyền bình đẳng và sự xuất hiện của sức mạnh sinh viên trong các trường đại học.

Bản Hiến Chương ấy đã kích thích tranh luận rộng rãi. Nó được ký bởi nhiều nhà dẫn đạo tư tưởng và hành động trên khắp thế giới: Andrei Sakharov, nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng ở Liên Sô; Julian Huxley, nguyên Chủ tịch UNESCO; và trong số những người còn lại có Sidney Hook; Betty Friedan; Gunnar Myrdal; Jacques Monod; Francis Crick; Margaret Knight; Allan Guttmacher; Ritchie Calder; và A, Philip Randolph. Nó bảo vệ quyền con người trên cấp bậc toàn cầu, biện hộ cho quyền được du hành ra ngoài biên giới quốc gia vào thời điểm mà dân chúng đằng sau Bức Màn Sắt bị cấm làm điều ấy. Nhiều nhà nhân bản Mác-xít tại Ðông Âu đã tấn công chủ nghĩa nhà nước toàn trị và hoan nghênh việc bảo vệ dân chủ và quyền con người.


Hiến Chương Nhân Bản II không còn bảo vệ nền kinh tế qui hoạch nhưng để ngỏ vấn đề đó cho các hệ thống kinh tế tùy nghi chọn lựa. Do đó, nó được tán đồng bởi cả những người cấp tiến lẫn những người cổ động cho tự do kinh tế -những kẻ bảo vệ thị trường tự do, cũng như bởi cả những người dân chủ xã hội lẫn những người xã hội chủ nghĩa dân chủ -những kẻ tin rằng chính quyền nên đóng vai trò to lớn trong hệ thống phúc lợi xã hội. Nó tìm cách dân chủ hóa các hệ thống kinh tế và trắc nghiệm xem chúng có làm tăng hay không phúc lợi cho mọi cá nhân và mọi nhóm.


Hiến Chương Nhân Bản II được viết ra khi cuộc cách mạng mới về đạo đức dường như đang nhanh chóng ập tới: nó bảo vệ quyền hạn chế sinh sản, phá thai, li dị, tự do tính dục giữa người lớn thuận ý, và sự làm chết không đau. Nó tìm cách bảo vệ quyền của thiểu số, phụ nữ, người cao niên, trẻ em bị ngược đãi và những kẻ bị thua thiệt. Nó cổ vũ sự bao dung những lối sống khác nhau và sự thương lượng ôn hòa giữa những dị biệt, và nó phiền trách những xung khắc chủng tộc, tôn giáo và giai cấp. Nó kêu gọi chấm dứt sợ hãi và hận thù. Nó được viết ra theo sau Công Ðồng Vatican II, một công đồng nỗ lực giải phóng Giáo hội Công giáo La mã. Hiến Chương Nhân Bản II chừa chỗ cho chủ nghĩa nhân bản tự nhiên lẫn chủ nghĩa nhân bản tôn giáo khai phóng. Hiến Chương ấy lạc quan về triển vọng của loài người. Nó nêu rõ những lợi ích của khoa học và kỹ thuật cho sự thiện hảo của con người. Nó đoán trước thế kỷ 21 này có thể thành một thế kỷ nhân bản.


Tuyên Ngôn Nhân Bản Thế Tục được công bố năm 1980 vì chủ nghĩa nhân bản và đặc biệt Hiến Chương Nhân Bản II ngày càng bị công kích kịch liệt, đặc biệt từ những lực lượng tôn giáo bảo căn và lực lượng chính trị cánh hữu tại Hiệp chúng quốc Hoa kỳ. Nhiều người chỉ trích đã đề quyết rằng chủ nghĩa nhân bản thế tục là một tôn giáo. Họ cho rằng việc giảng dạy chủ nghĩa nhân bản thế tục trong học đường là vi phạm nguyên tắc tách rời giáo hội với nhà nước và thiết lập một tôn giáo mới. Bản Tuyên Ngôn ấy trả lời rằng chủ nghĩa nhân bản thế tục diễn tả một chuỗi giá trị đạo đức và một quan điểm khoa học và triết học phi thần nên không thể đánh giá nó ngang hàng với đức tin tôn giáo. Việc giảng dạy quan điểm nhân bản thế tục không thể nào là vi phạm nguyên tắc tách rời đó. Nó bảo vệ ý tưởng dân chủ rằng nhà nước thế quyền nên trung lập, không ủng hộ hoặc chống tôn giáo.


Vào năm 1988, Viện Quốc Tế Chủ Nghĩa Nhân Bản còn đưa ra tài liệu thứ tư, Tuyên Ngôn Về Liên Lập (Interdependence), kêu gọi một nền đạo đức toàn cầu và mới cùng việc xây dựng một cộng đồng thế giới mà đang ngày càng cấp thiết hơn vì các định chế toàn cầu đang nhanh chóng tự tiến triển.



Tại Sao Lại Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu?


Trong lúc hầu hết những điều mục của các Hiến ChươngTuyên Ngôn trước đây vẫn còn đúng đắn và khả thi, rõ ràng rằng khi thế giới đi vào một thiên niên kỷ mới thì cần một Hiến Chương mới. Vì dù các Hiến Chương trước đây lập được nhiều tiến bộ, hiện vẫn xuất hiện những tình huống mới thách thức chúng ta: chủ nghĩa cộng sản toàn trị sụp đổ tại Liên bang Sô viết cùng Ðông Âu, và lưỡng khối quyền lực Chiến Tranh Lạnh biến mất trên một qui mô lớn. Các khu vực mới của quả đất đang nỗ lực trở nên dân chủ hơn dù nhiều nước vẫn thiếu các định chế dân chủ hữu hiệu. Thêm nữa, nền kinh tế thế giới thậm chí trở nên toàn cầu hóa hơn. Các đại tổ hợp công ti quốc tế đang kết hiệp lại và trở thành xuyên quốc gia, và hiểu theo cách nào đó, mạnh mẽ hơn nhiều quốc gia trên thế giới. Nga, Trung hoa và các nước khác đang tìm cách gia nhập thị trường thế giới. Không xứ sở nào có thể làm chủ vận mệnh kinh tế mình độc lập với những giao thương và mậu dịch thế giới. Những thay đổi tận gốc ấy xuất hiện rộng rãi vì sự tăng trưởng quá nhanh của khoa học và kỹ thuật, đặc biệt cuộc cách mạng tin học dẫn tới một mạng lưới truyền thông văn hóa và kinh tế trên khắp thế giới. Người ta có thể lập luận rằng từ khi có Hiến Chương Nhân Bản II tới nay, thế giới đã xảy ra những biến đổi lớn lao và thậm chí còn lớn lao hơn những biến đổi của Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp hai thế kỷ trước đây, hoặc sự phát minh của Gutenberg về con chữ lắp ráp và máy in. Những hậu quả ấy sẽ tiếp tục tác động rất sâu rộng lên cuộc sinh tồn toàn cầu.


Tuy thế, khi thế giới thành một gia đình toàn cầu thì những đối thủ mang tính tôn giáo sắc tộc đã và đang tìm cách phân chia lãnh thổ thành những phe phái tranh đoạt. Các tôn giáo bảo căn đang nhen nhúm, phản bác những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân bản cùng chủ nghĩa thế tục và đòi hỏi trở về lòng sùng đạo của kỷ nguyên tiền hiện đại. Cũng thế, cái gọi là những niềm tin huyền bí Thời Ðại Mới đang xuất hiện, được khuyến khích bởi truyền thông đại chúng và đang dai dẳng khuyến mãi một cái nhìn tâm linh/siêu linh về thực tại. Truyền thông được toàn cầu hóa. Vô tuyến truyền hình, vô tuyến truyền thanh, điện ảnh, và các nhà xuất bản sách báo, đều đang bị khống chế bởi các đại tổ hợp công ti truyền thông vốn hầu như chỉ quan tâm tới việc quảng cáo và bán hàng hóa cho thị trường thế giới. Thêm vào đó, trong nhiều trường đại học đã và đang xuất hiện chủ nghĩa hậu hiện đại, thắc mắc những tiền đề căn bản của phẩm chất hiện đại và của chủ nghĩa nhân bản, tấn công khoa học và kỹ thuật, và chất vấn các lý tưởng và các giá trị nhân bản. Nhiều kiến thị hiện nay về tương lai mang tính bi quan, thậm chí, tính tận thế. Nhưng chúng tôi phản đối vì chúng tôi tin rằng có khả năng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Các thực tế của xã hội toàn cầu là như thế nên phải có Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu mới để có thể cung cấp những định hướng có ý nghĩa cho tương lai.


II. Triển Vọng Một Tương Lai Tốt Ðẹp Hơn


Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta sở hữu những phương tiện - được cung cấp bởi khoa học và kỹ thuật - để cải thiện thân phận con người, tiến tới hạnh phúc và tự do, đồng thời nâng cao đời sống con người cho hết thảy mọi người trên hành tinh này. Nhiều người khi nói tới thiên niên kỷ mới này thì sợ hãi những gì sẽ xảy ra. Nhiều người đưa ra các dự báo tận thế về những tai ương sắp đến, hoặc tôn giáo hoặc thế tục. Những người bi quan đưa tay chỉ tới các cuộc chiến tranh tàn bạo của thế kỷ 20 và cảnh báo rằng những hình thức khủng bố và bất ổn mới có thể nhấn chìm loài người trong thế kỷ đang tới.

Chúng tôi nghĩ rằng một đánh giá tích cực và thực tế hơn về triển vọng của loài người trong thế kỷ 21 là thuận với trình tự. Chúng tôi ao ước vạch ra rằng bất chấp những bất ổn chính trị quân sự và xã hội, thế kỷ 21 chứng kiến một số lượng to tát những thành tựu đầy phúc lợi. Tuy những kẻ khước bác đang thất vọng nhưng sự sung túc, hoà bình, y tế tốt hơn và việc nâng cao những định mức của đời sống là một thực tế và có khả năng tiếp tục. Những thành tựu lớn lao ấy về kỹ thuật, khoa học và xã hội thường bị bỏ qua. Dù được áp dụng rộng rãi trong thế giới phát triển, lúc này, những phúc lợi của chúng được cảm thấy gần như khắp nơi. Chúng tôi cần liệt kê một số:

 

– Dược phẩm khoa học cải thiện sức khỏe một cách lớn lao. Nó giảm đau đớn khổ sở và nâng tuổi thọ. Sự khám phá các chất kháng sinh và phát triển thuốc chủng ngừa, các kỹ thuật hiện đại về giải phẫu, gây mê, dược lý và ứng dụng sinh học di truyền đều đóng góp vào những tiến bộ trong việc chăm sóc y tế.

– Những phương tiện phòng ngừa y tế công cộng, cải thiện việc cung cấp nước và bố trí hệ thống thoát nước làm giảm rất nhiều phạm vi xúc tác của bệnh truyền nhiễm. Việc áp dụng rộng rãi những phương pháp chữa bệnh làm sụt rõ rệt tỉ lệ tử vong của trẻ em.

 

– Cuộc Cách Mạnh Xanh cải biến việc sản xuất lương thực và tăng hoa lợi thu hoạch, giảm đói và nâng mức dinh dưỡng cho những thành phần đông đảo trên quả đất.

 

– Các phương pháp hiện đại trong việc sản xuất hàng loạt làm tăng năng suất, giải phóng người lao động khỏi nhiều hình thức lao dịch thể xác và khả dĩ tạo những phúc lợi và xa hoa trong hàng hóa và dịch vụ dành cho người tiêu thụ.


– Những phương cách vận chuyển mới thu ngắn khoảng cách và chuyển biến xã hội. Xe hơi và máy bay khiến con người có khả năng vượt đại lục và khắc phục sự cô lập về địa dư. Việc nghiên cứu không trung mở ra cho loài người cuộc phiêu lưu thám hiểm không gian đầy lý thú.

 

– Các phát minh kỹ thuật làm tăng nhanh và rộng những phương cách truyền thông mới, trên căn bản khắp thế giới. Cùng với ích lợi của máy điện thoại, máy fax, máy vô tuyến truyền thanh và máy vô tuyến truyền hình và việc truyền qua vệ tinh viễn thông, kỹ thuật máy vi tính chuyển biến tận gốc mọi khía cạnh của đời sống kinh tế xã hội. Trong thế giới phát triển, không một văn phòng hoặc nhà riêng nào không bị cuộc cách mạng tin học chạm tới. Internet và Mạng Lưới Toàn Cầu làm cho có khả năng thông tin lập tức tới hầu hết mọi nơi trên quả đất.


– Việc nghiên cứu khoa học mở rộng kiến thức của chúng ta về vũ trụ và nơi chốn của loài người bên trong vũ trụ. Hiện nay, việc thẩm tra con người có khả năng tiến xa và có những phát hiện được khoa học và lý trí xác nhận, trong khi đó những lý đoán siêu hình và thần học trước đây thì tới nay đạt rất ít hoặc không có tiến triển nào. Những khám phá của thiên văn học, vật lý, lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử làm tăng sự am hiểu của chúng ta về vũ trụ - từ cấp vi hạt tới cấp thiên hà. Sinh học và di truyền học đóng góp vào kiến thức của chúng ta về sinh quyển. Lý thuyết của Darwin thế kỷ 19 về sự tuyển chọn tự nhiên cho chúng ta khả năng am hiểu sự sống tiến hóa như thế nào. Những khám phá về DNA và sinh học phân tử tiếp tục vén lộ những cơ chế của diễn biến tiến hóa và của sự sống tự nó. Khoa học động thái (behavior) và khoa học xã hội làm sâu sắc thêm kiến thức của chúng ta về các định chế chính trị và xã hội, kinh tế và văn hóa.



Trong thế kỷ 20 cũng xuất hiện nhiều phát triển tích cực về chính trị và xã hội và chúng báo điềm lành cho tương lai.

 

– Các đế quốc thực dân thời thế kỷ 19 chỉ còn cách hoàn toàn biến mất.


– Sự đe dọa của chủ nghĩa toàn trị bị giảm.


– Ngày nay, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được hầu hết các nước trên thế giới công nhận (nếu không bằng hành động thì cũng bằng lời nói).


– Các lý tưởng dân chủ, tự do và xã hội mở lan truyền rộng rãi ở Ðông AÂu, châu Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi.


– Ngày nay, tại nhiều nước, phụ nữ vui hưởng quyền cá nhân tự quản, các quyền luật pháp và xã hội, và có chỗ đứng trong nhiều lãnh vực doanh nghiệp.


– Khi kinh tế quốc gia trở nên toàn cầu hóa thì sự thịnh vượng kinh tế được mang từ châu AÂu và Bắc Mỹ tới các phần đất khác trên thế giới. Thị trường tự do và các phương thế doanh nghiệp mở các khu vực kém phát triển ra cho đầu tư vốn liếng và phát triển tư bản.

 

– Vấn đề gia tăng dân số được giải quyết tại các nước thịnh vượng ở châu Âu và Bắc Mỹ. Tại nhiều khu vực, dân số tăng không phải vì sinh suất nhưng vì tử suất sụt và tuổi thọ tăng - một sự phát triển tích cực.

– Ngày nay, sự gia tăng giáo dục và biết đọc biết viết cùng bổ túc văn hoá càng lúc càng có sẵn cho trẻ

em trên thế giới dù trong đó vẫn còn nhiều điều cần thực hiện thêm.

Dù có các xuyên phá ấy, chúng ta cần thẳng thắn đối mặt với những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế nghiêm trọng mà thế giới vẫn đương đầu. Các nhà tiên tri về tận thế đều bi quan; những kẻ theo tiên tri Giêrêmia đoán trước các bất hạnh và tai ương. Chúng tôi trả lời rằng chúng ta chỉ có thể giải quyết được các vấn đề ấy chủ yếu bằng lý trí, khoa học và nỗ lực của con người mà thôi.

 

– Tại các vùng rộng lớn trên thế giới, dân chúng vẫn không được hưởng hoa trái của sự thịnh vượng; họ tiếp tục héo hon vì nghèo và bệnh, đặc biệt tại thế giới đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hàng triệu trẻ em và người lớn đang sống trong tình cảnh xoay xở với sự thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ sinh và y tế. Ðiều này cũng đúng với nhiều người dân sống trong các xã hội được gọi là thịnh vượng.

– Tại nhiều phần đất trên thế giới, dân số tiếp tục tăng với tỉ lệ hằng năm 3%. Năm 1900, ước lượng thế giới có khoảng một tỉ bảy trăm triệu người. Tới năm 2000, dân số lên tới sáu tỉ người. Nếu tiếp tục đà tăng nhân khẩu hiện nay, trong nửa thế kỷ tới sẽ có thêm ba tỉ người.


– Nếu dân số tiếp tục tăng đúng như dự kiến, sẽ dẫn tới việc giảm trầm trọng đất canh tác mà tại nhiều nước, tới năm 2050 có thể sụt xuống còn một sào tây cho mỗi người (đặc biệt tại Ấn độ, Pakistan, Ethiopia, Nigeria và Iran). Việc cung cấp nước tưới đã bị đánh thuế quá nặng làm giảm sản lượng hoa lợi; nhiều dòng sông trên thế giới bắt đầu cạn dần (trong đó có sông Nile, sông Colorado và sông Hoàng hà ở Trung hoa).


– Khi dân cư thế giới dàn rộng và phát triển kỹ nghệ tăng quá nhanh, rừng mưa nhiệt đới và rừng trồng cây lấy gỗ bị tàn phá. Hằng năm, có khoảng 2% rừng trên quả đất bị biến mất. Số lượng đó sẽ tiếp tục nếu không kiên quyết thực hiện biện pháp ngăn chặn.


– Việc quả đất nóng dần có thể ngày càng thêm, phần vì hậu quả nạn phá rừng tại các nước nghèo và việc thải khí cac-bô-nic đi-ô-xit vào khí quyển, đặc biệt tại các nước thịnh vượng là nơi tiếp tục phung phí tài nguyên thiên nhiên. Một người trung bình sống ở Hoa kỳ và các nước phương Tây tiêu thụ cùng gây ô nhiễm gấp khoảng từ 40 tới 60 lần một người trung bình sống ở thế giới đang phát triển. Sự tiêu thụ lãng phí ấy thường được khuyến khích bởi các công ti đang khuếch trương, vốn quan tâm rất ít tới sự phóng uế làm hại sinh thái.


– Dân số của các chủng loại khác đang suy tàn đều đặn; nhiều hình thái thực vật và động vật đang tuyệt chủng dần - có lẽ đây là cuộc tuyệt chủng lớn lao nhất kể từ sự biến mất của loài khủng long 65 triệu năm trước.


– Nhiều chính quyền trên thế giới đang đối mặt với các vấn đề kinh tế nghiêm trọng trong khi dân quê kéo lên tràn ngập thành thị mà trong số đó, rất nhiều người thất nghiệp và rõ ràng không có khả năng xoay xở.


– Thất nghiệp vẫn là một vấn đề nghiêm trọng tại các nước thịnh vượng ở châu AÂu là nơi hiện không thu dụng hết lao động trẻ, tái trang bị kỹ thuật, tu nghiệp cho công nhân hoặc tìm việc làm cho họ.

– Những hiệp ước trên cấp bậc rộng lớn nhằm tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế về môi sinh và xã hội mà loài người đang đối phó, từng được thành tựu trong một chuỗi các hội nghị quốc tế quan trọng, nhưng các chính phủ không giữ đúng những cam kết đã được lập ra đó; vài nước giàu không đặt ưu tiên việc giúp đa số nước nghèo, thậm chí việc giúp người bị ruồng bỏ và người bị tước quyền sở hữu ngay trong chính xã hội của mình.


– Dân chủ vẫn còn yếu hoặc không hiện hữu tại nhiều nước. Tự do báo chí rất thường bị bịt miệng và các cuộc bầu cử rất thường bị ngăn trở.


– Việc không tán thành quyền bình đẳng của phụ nữ vẫn lan rộng tại hầu hết các nước trên thế giới.

– Nhiều khu vực thuộc địa cũ bị ngập lún trong tình trạng suy sụp kinh tế.

 

– Các bệnh từng có thời được cho là đã bị khống chế, thí dụ bệnh lao và bệnh sốt rét, nay đang tăng, trong khi đó tại nhiều phần đất rộng lớn trong thế giới đang phát triển, bệnh AIDS ngày càng không kiểm soát nổi.


– Dù thế giới không còn bị chia thành hai siêu quyền lực, loài người vẫn có đủ sức mạnh để tự hủy diệt. Những kẻ khủng bố cuồng tín, những nhà nước bất trị, hoặc thậm chí các cường quốc vẫn có thể khinh suất gây ra các biến cố có tính tận thế bằng việc thả lỏng những vũ khí tàn sát hàng loạt.

– Tại một số khu vực, niềm tin rằng thị trường tự do sẽ chữa trị hết thảy các vấn đề xã hội vẫn còn là một đức tin. Tại nhiều nước trên thế giới, việc làm thế nào cân bằng giữa các đòi hỏi của thị trường tự do với nhu cầu dành cho các chương trình xã hội hợp lý nhằm hỗ trợ người bị thiệt thòi và người bị bần cùng hóa vẫn còn là một vấn đề không được giải quyết.


Chúng tôi cho rằng những vấn đề ấy là nghiêm trọng và chúng ta cần những phương cách thích đáng để giải quyết. Chúng tôi tin rằng chỉ có thể khắc phục chúng bằng trí tuệ có tính phê phán và những nỗ lực có tính hợp tác. Trong quá khứ, loài người từng đối mặt với những thách đố và đã kiên trì ứng phó, thậm chí chiến thắng chúng. Những vấn đề đang xuất hiện lờ mờ đằng chân trời ấy có lẽ không lớn lao hơn những vấn đề mà tiền nhân của chúng ta từng đối mặt.


Trên thế giới vẫn còn những khuynh hướng nguy hiểm khác chưa được nhận diện đầy đủ. Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những khuynh hướng chống khoa học, chống hiện đại, bao gồm sự xuất hiện những tiếng nói lanh lãnh bảo căn và mù quáng cố chấp hoặc bất bao dung dù chúng có nguồn gốc tôn giáo, chính trị hoặc bộ lạc. Cũng chính chúng là những lực lượng chống đối các nỗ lực giải quyết những vấn đề xã hội hoặc cải thiện thân phận con người tại nhiều phần đất trên thế giới:


– Sự cố chấp trong thái độ tâm linh truyền thống thường khuyến khích những tiếp cận các vấn đề xã hội theo lối phi hiện thực, thoát ly thực tế hoặc nghĩ tới một thế giới khác, khắc sâu vào tâm trí sự thiếu tôn trọng khoa học và thông thường, đều bảo vệ các định chế xã hội cổ hủ.

 

– Nhiều nhóm tôn giáo và chính trị chống đối việc ngừa thai hoặc việc tài trợ các chương trình được hoạch định nhằm giảm sinh sản và ổn định sự gia tăng dân số. Hậu quả là gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế và việc giảm nghèo.


– Cũng có nhiều lực lượng như thế chống lại sự giải phóng phụ nữ và muốn giữ cho nữ giới quị lụy nam giới.

– Thế giới ngày càng chứng kiến các xung khắc sắc tộc đầy cay đắng và chúng làm mãnh liệt thêm những kình chống có tính bộ lạc. Những chiều kích tôn giáo đối với các xung khắc ấy vẫn chưa được tường trình rộng rãi: tại Nam tư giữa người Serbe theo Chính thống giáo, người Croate theo Công giáo La mã, và người Hồi giáo (tại Bosnia và Kosovo); tại Israel và Palestine giữa người Do thái giáo chính thống và người Hồi giáo; tại Bắc Ái nhĩ lan giữa người Tin lành và người Công giáo; tại Tích lan giữa người Ấn giáo Tamil và người Phật giáo Sinhalese; tại Punjab và Kashmir giữa người Ấn giáo, người Hồi giáo và người đạo Sikh; tại Ðông Timor giữa người Kitô giáo và người Hồi giáo.

 

– Thế giới đang quan tâm một cách chính đáng tới sự gia tăng nạn khủng bố và nạn diệt chủng vốn rất thường được những kẻ yêu nước có tính sắc tộc hoặc các tín đồ tôn giáo có tính sô-vanh tôn giáo châm lửa cho bốc cháy thêm lần nữa.


– Chủ nghĩa đa văn hóa cổ vũ sự bao dung các truyền thống sắc tộc và tôn giáo dị biệt và sự thừa nhận quyền tồn tại của chúng. Nhưng chúng ta cũng thấy tình trạng rạn nứt của xã hội và những đòi hỏi phân ly cùng cô lập - một cách trớ trêu - ngay thời điểm lý thuyết kỳ thị chủng tộc của Quốc xã và phân biệt chủng tộc tại Nam Phi đã bị bác bỏ hoàn toàn. Sự bất bao dung ấy làm phát sinh hành động tẩy rửa sắc tộc và những biểu lộ hiểm độc khác trong hận thù chủng tộc.


– Tại nhiều nước phương Tây, xuất hiện cái gọi là hệ tư tưởng hậu hiện đại vốn phủ nhận tính khách quan của khoa học, phiền trách sự sử dụng kỹ thuật hiện đại, tấn công quyền con người và nền dân chủ. Một số hình thức của chủ nghĩa hậu hiện đại khuyến cáo chủ nghĩa thất bại: trong điều kiện tốt nhất, chúng không đưa ra chương trình giải quyết các vấn đề của thế giới; trong điều kiện xấu nhất, chúng phủ định các giải pháp khả thi hoặc có thể thành tựu. Tác dụng của phong trào mang tính văn chương triết lý ấy là phản tác dụng, thậm chí có tính hư vô chủ nghĩa. Chúng tôi nghĩ rằng phong trào ấy lầm lẫn sâu xa vì khoa học đưa ra những tiêu chuẩn khách quan và hợp lý cho việc phán xét những tuyên bố chân lý của nó. Quả thật, khoa học đã trở thành một ngôn ngữ phổ cập, phát biểu với tất cả mọi người, nam giới cũng như nữ giới, mà không đặt thành vấn đề bối cảnh văn hóa của mỗi người.



Chúng tôi tin rằng điều thiết yếu là trình bày một thị kiến có tính chọn lựa về ngày mai. Chính quyền của các nước và lãnh đạo của các công ti phải từ bỏ những chính sách ngắn hạn và phải hỗ trợ việc thiết kế có tính nhìn xa trông rộng. Thông thường, hết thảy các nhà lãnh đạo đều lơ là lời khuyên tốt nhất của các nhà khoa học lẫn các nhà nhân bản và đặt chính sách của mình trên nền tảng cuộc bầu cử sắp tới hoặc vào bản báo cáo thành tích ba tháng sắp tới. Chính quyền các nước không nên chỉ quan tâm tới những cân nhắc chính trị và kinh tế cấp thời mà còn nên chú ý tới nhu cầu của toàn thể hành tinh và tới tương lai lâu bền của loài người.


Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu tìm cách tái khuyến cáo về những mục tiêu lâu dài và có thể sở đắc. Ðó là sự phân biệt chủ yếu giữa chủ nghĩa nhân bản và những giá trị đạo đức đặt căn bản trên tính cách tôn giáo, tiền hiện đại. Chủ nghĩa nhân bản phát biểu có hệ thống những hình ảnh mới và đầy can đảm về tương lai và làm phát sinh niềm tự tin của loài người vào khả năng giải quyết các vấn đề ấy bằng những phương thế dựa trên lý trí và quan điểm tích cực.



Thời đại Khai sáng thế kỷ 18 tạo niềm hứng khởi cho Hiến Chương này và rõ ràng là không bị giới hạn bởi thời đại nó xuất hiện. Quan điểm của nó về Lí Trí như một công cụ chắc chắn hơn là một công cụ dò dẫm - và có thể sai lầm - nhằm phục vụ mục đích nhân sinh, đã bị phóng đại. Tuy nhiên niềm xác tín của nó rằng khoa học, lý trí, dân chủ, giáo dục và các giá trị nhân bản có thể nâng cao sự tiến bộ của con người thì đối với chúng ta ngày nay vẫn hấp dẫn lớn lao. Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu mà Hiến Chương này trình bày thì có tính hậu-hậu hiện đại trong quan điểm của nó. Nó gợi tới những giá trị tốt nhất của phẩm chất hiện đại, tuy thế nó tìm cách vượt quá tính chất phủ định của chủ nghĩa hậu hiện đại và nó hân hoan trông đợi kỷ nguyên thông tin đang rạng sáng lúc này và tất cả những cái đó báo trước một tương lai kỳ diệu của loài người.



III. Chủ Nghĩa Tự Nhiên Khoa Học


Ngày nay, thông điệp độc đáo của chủ nghĩa nhân bản trên hiện trường thế giới là sự gắn bó của nó với chủ nghĩa tự nhiên có tính khoa học. Hầu hết những cái nhìn về thế gian được người ta chấp nhận hôm nay đều có tính tâm linh, thần bí và thần học thích hợp với chúng. Chúng có nguồn gốc trong các xã hội nông nghiệp, du mục, tiền đô thị cổ đại chứ không trong nền văn hoá thông tin toàn cầu hậu kỹ nghệ hoặc công nghệ hiện đại đang ló dạng lúc này. Chủ nghĩa tự nhiên khoa học khiến cho con người có khả năng xây dựng cái nhìn chặt chẽ về thế gian, thoát khỏi những rối rắm của siêu hình hoặc thần học, và đặt căn bản trên khoa học.


– Thứ nhất, chủ nghĩa tự nhiên khoa học gắn bó với một chuỗi những mệnh lệnh có tính phương pháp luận. Ðối với chủ nghĩa tự nhiên có tính phương pháp luận, mọi giả thuyết và lý thuyết phải được thử nghiệm qua qui chiếu với các căn nguyên tự nhiên và các sự kiện. Nó không chấp nhận việc đưa ra các nguyên cớ thần bí hoặc những giải thích tiên nghiệm. Các phương pháp của khoa học thì không phải là không thể sai lầm, nó không trình bày cho chúng ta những chân lý tuyệt đối và bất biến; tuy thế, sau khi cân nhắc, chúng là những phương pháp đáng tin cậy nhất mà chúng ta hiện có, để mở rộng kiến thức và giải quyết các vấn đề của con người. Chúng đã và đang tác động mạnh mẽ trong việc làm chuyển biến văn minh thế giới. Ngày nay, các lãnh vực rộng lớn của công chúng chấp nhận tính chất hữu ích của các ngành khoa học; người ta thừa nhận rằng khoa học có những hệ quả tích cực.


Rủi thay, đối với những chuyên ngành nhỏ hẹp, việc áp dụng các phương pháp khoa học thường bị hạn chế, và đối với quan điểm của chúng ta về thực tại, việc áp dụng khoa học rộng rãi hơn bị lơ là. Người theo chủ nghĩa nhân bản xác quyết rằng chúng ta cần mở rộng phương pháp khoa học tới các lãnh vực khác trong nỗ lực của con người và rằng không nên có những hạn chế trong việc nghiên cứu khoa học, trừ phi việc nghiên cứu ấy xâm phạm quyền con người. Trong quá khứ, những nỗ lực ngăn chặn sự thẩm tra tự do vì những lý do tôn giáo, hệ tư tưởng, chính trị và đạo đức đều đã bị thất bại. Không thể đánh giá thấp các kết quả khả dĩ hữu ích do những khám phá liên tục của khoa học.



– Thứ hai, khoa học cung cấp những cơ hội rất lớn lao cho việc mở rộng kiến thức của chúng ta về thiên nhiên và động thái của con người. Chủ nghĩa tự nhiên khoa học thể hiện một quan điểm có tính vũ trụ dựa trên những giả thuyết và những lý thuyết đã được kiểm nghiệm. Nó không rút tỉa chủ yếu từ tôn giáo, thi ca, văn chương hoặc nghệ thuật vì nó tường trình về thực tại - dù các bộ môn vừa kể là những diễn tả quan trọng sở thích của con người. Người theo chủ nghĩa tự nhiên khoa học duy trì một chủ nghĩa duy vật không giảm trừ (nonreductive); những diễn tiến tự nhiên và những sự kiện được giải thích thỏa đáng qua qui chiếu với các căn nguyên vật chất. Hình thức này của chủ nghĩa tự nhiên chừa chỗ cho một vũ trụ đa nguyên. Dù về mặt căn bản, thiên nhiên mang tính hoá lý tận gốc rễ, các diễn tiến và các đối tượng tự biểu thị chúng trên nhiều cấp bậc quan sát: vi hạt, nguyên tử, và phân tử; gen và tế bào; các bộ phận trong thân thể con người, bông hoa, cây cối, và thú vật; nhận thức và tri thức về tâm lý; các định chế văn hóa và xã hội; hành tinh, ngôi sao và thiên hà. Ðiều ấy cho phép có những giải thích có tính bối cảnh, rút ra từ những lãnh vực thẩm tra động thái, xã hội, sinh học và thiên nhiên. Ðiều ấy không phủ định nhu cầu thưởng ngoạn những biểu lộ văn hóa khác nhau, thẩm mỹ và đạo đức muôn hình muôn vẻ trong kinh nghiệm của con người.


– Thứ ba, người theo chủ nghĩa tự nhiên xác quyết rằng có bằng chứng thiếu khoa học đối với những cắt nghĩa tâm linh về thực tại và sự mặc nhận các căn nguyên thần bí. Rõ ràng những học thuyết của người tin theo thuyết tiên nghiệm cổ điển đã diễn tả các khát vọng sinh tồn và đầy tha thiết của loài người nhằm khắc phục cái chết. Tuy thế, lý thuyết khoa học về tiến hoá cung cấp một tường trình dè sẻn hơn về nguồn gốc con người và đặt căn bản trên bằng chứng rút tỉa từ phạm vi rộng lớn của nhiều ngành khoa học. Chúng tôi công khai phản bác nỗ lực của một số ít ỏi các nhà khoa học, thường được quảng bá bởi truyền thông đại chúng, nhằm áp đặt những giải thích tiên nghiệm lên trên những hiện tượng tự nhiên. Thậm chí, cả khoa vũ trụ học với thiết bị nối các máy móc vi tính đạt tiêu chuẩn lẫn diễn biến tiến hóa cũng không thể cung cấp bằng chứng thỏa đáng cho họa đồ trí tuệ vốn là bước nhảy vọt của đức tin vượt ra ngoài bằng chứng dựa trên cơ sở quan sát hoặc thực nghiệm. Chúng tôi nghĩ rằng nay là thời điểm cho loài người nắm lấy giai đoạn trưởng thành của mình để bỏ lại đằng sau lối tư duy thần bí và việc tạo huyền thoại vốn là những cái thay thế cho kiến thức về tự nhiên đã được thử nghiệm.


IV. Những Ích Lợi Của Kỹ Thuật


Người theo chủ nghĩa nhân bản biện hộ trước sau như một cho giá trị hữu ích của kỹ thuật khoa học đối với phúc lợi của con người. Các triết gia từ Francis Bacon tới John Dewey đều nhấn mạnh tới sức mạnh gia tăng trên thiên nhiên mà kiến thức khoa học cung cấp và cách mà nó có thể đóng góp vô lượng vào tiến bộ và hạnh phúc của con người.


Với sự ứng dụng các kỹ thuật mới, xuất hiện những phó sản tiêu cực ngoài dự kiến. Những người chỉ trích, từ các kẻ lạc hậu của thế kỷ 19 tới các kẻ theo chủ nghĩa hậu hiện đại của thế kỷ 20, đã và đang phiền trách các áp dụng kỹ thuật. Người theo chủ nghĩa nhân bản nhận biết sâu xa rằng một số sáng kiến kỹ thuật có thể gây ra vấn đề. Rủi thay, những áp dụng kỹ thuật, thông thường chứ chẳng phải là không bao giờ, bị quyết định bởi những cân nhắc kinh tế - do sản phẩm có sinh lợi nhuận hay không - hoặïc bởi những sử dụng quân sự và chính trị. Có những nguy hiểm sâu rộng và cố hữu trong việc sử dụng kỹ thuật mà không kiểm soát. Các vũ khí tàn sát hàng loạt (bom hạt nhân, vũ khí sinh học và hóa học) vẫn không được cộng đồng thế giới qui định một cách hữu hiệu. Cũng thế, nhiều xuyên phá trong di truyền học, sinh học và nghiên cứu y học (thí dụ kỹ thuật di truyền học, nhân bản vô tính [cloning], thay các bộ phận trong con người, v.v...) đặt ra những nguy cơ tuy chúng cống hiến những tiềm năng lớn lao cho y tế và phúc lợi của loài người.


– Thứ nhất, người theo chủ nghĩa nhân bản cực lực phản đối những nỗ lực nhằm giới hạn sự nghiên cứu kỹ thuật hoặc nhằm kiểm duyệt hay thu hẹp sự thẩm tra khoa học trước khi tiến hành. Thật khó nói trước rằng một nghiên cứu khoa học sẽ dẫn tới chỗ nào hoặc đoán trước những lợi ích khả dĩ của nó. Chúng ta nên thận trọng hành động kiểm duyệt như thế về việc nghiên cứu.

 

– Thứ hai, chúng tôi cho rằng phương cách ứng xử tốt nhất những vấn đề liên quan tới các áp dụng kỹ thuật là qua những tranh luận có đầy đủ thông tin chứ không qua việc viện dẫn giáo điều chuyên chế hoặc hô hào khẩu hiệu sách động. Mỗi sáng kiến kỹ thuật cần được đánh giá theo tiềm năng nguy hiểm và tiềm năng lợi ích cho xã hội và môi sinh. Việc này bao hàm một trình độ am hiểu căn bản nào đó về khoa học.

 

– Thứ ba, chúng ta không thể từ bỏ các giải pháp kỹ thuật. Cấu trúc xã hội và kinh tế của thế giới đương đại đang ngày càng tùy thuộc thêm nữa vào sáng kiến kỹ thuật. Ðể giải quyết những vấn đề của chúng ta thì không phải bằng việc rút về trạng thái tự nhiên bình dị mà bằng việc phát triển các kỹ thuật mới nhằm thành toàn các nhu cầu cùng cứu cánh của loài người và thực hiện việc đó một cách khôn ngoan và nhân đạo.


– Thứ tư, phải khuyến khích các sáng kiến kỹ thuật nhằm giảm hoàn toàn sự va chạm của con người lên môi sinh.

 

– Thứ năm, nên khích lệ việc truyền bá các kỹ thuật cấp thời có khả năng cung ứng cho người nghèo, để họ được hưởng lợi ích của cuộc cách mạng công nghệ.



V. Ðạo Ðức Và Lí Trí


Theo quan điểm nhân bản, điều thiết yếu là nhận rõ các giá trị đạo đức cao nhất. Chúng tôi tin rằng sự tăng trưởng kiến thức khoa học sẽ khiến loài người có khả năng chọn lựa khôn ngoan hơn. Theo đường lối này thì giữa sự kiện giá trị, giữa đang là nên là (is and ought) không có bức tường nào là không thể xuyên phá. Việc sử dụng lí trí và nhận thức sẽ khiến chúng ta thẩm định hữu hiệu hơn các giá trị, dưới ánh sáng của bằng chứng cụ thể và xét theo các hệ quả của chúng.


Người theo chủ nghĩa nhân bản bị lên án một cách bất công rằng không có khả năng đưa ra những nền tảng khả dĩ tồn tại cho các trách nhiệm đạo đức. Quả thật, người theo chủ nghĩa nhân bản thường bị qui trách về cái bị cho là suy đồi đạo đức của xã hội. Luận cứ ấy lầm lẫn sâu xa. Suốt nhiều thế kỷ, các triết gia cung cấp những nền tảng thế tục vững chắc cho hành động đạo đức nhân văn. Thêm nữa, có tới hàng triệu người theo chủ nghĩa nhân bản, không đếm xuể, đã và đang dẫn đầu cuộc sống gương mẫu; họ là những công dân có trách nhiệm, nuôi dưỡng con cái với sự chăm sóc đầy thương yêu và đóng góp đầy ý nghĩa vào việc nâng cao đạo đức của xã hội.


– Các học thuyết đạo đức thần học thường phản ánh những khái niệm thừa kế và tiền khoa học về tự nhiên và về bản tính con người. Những giới răn đạo đức đầy mâu thuẫn có thể bị rút ra từ di sản ấy và các tôn giáo khác nhau thường bảo lưu những quan niệm bất đồng rộng lớn về các vấn đề đạo đức. Người hữu thần và người theo chủ nghĩa tiên nghiệm đều đã và đang bênh vực và chống đối chế độ nô lệ, hệ thống đẳng cấp, hình phạt tử hình, nữ quyền, và chế độ một vợ một chồng. Những người theo tôn giáo bè phái này thường tàn sát tín đồ trung thành của bè phái kia mà không bị trừng phạt. Trong quá khứ cũng như trong hiện tại, nhiều cuộc chiến tranh kinh hoàng được khởi hứng bởi các giáo điều tôn giáo bất bao dung. Chúng tôi không phủ định rằng các tín đồ tôn giáo đã và đang làm nhiều việc thiện, cái chúng tôi phủ định là việc cho rằng lòng mộ đạo là bảo đảm độc nhất cho đức hạnh.

– Khắp nơi, người theo chủ nghĩa nhân bản bảo vệ sự tách rời tôn giáo và nhà nước. Chúng tôi tin rằng nhà nước nên là thế quyền dù nó ủng hộ hoặc chống tôn giáo. Như thế, chúng tôi không chấp nhận các chế độ chính trị thần quyền tìm cách áp đặt luật lệ tôn giáo hoặc đạo đức độc tôn lên trên hết thảy mọi người. Chúng tôi tin rằng nhà nước nên để cho sự đa nguyên rộng rãi của các giá trị đạo đức được cùng nhau hiện hữu.


– Những nguyên tắc căn bản về đức hạnh thì có tính cách chung đối với hầu hết các nền văn minh - dù có tính tôn giáo hay không. Các khuynh hướng đạo đức đều cắm rễ sâu xa trong bản tính con người và tiến hoá suốt chiều dài lịch sử loài người. Như thế, đạo đức nhân bản không đòi hỏi sự đồng thuận về các tiền đề tôn giáo hoặc thần học - có thể chúng ta không bao giờ đạt được sự đồng thuận đó - nhưng nó liên quan một cách tối hậu tới những chọn lựa đạo đức đối với các sở thích, nguyện vọng, nhu cầu và giá trị mà loài người cùng chia sẻ. Chúng tôi phán xét chúng dựa theo hệ quả của chúng đối với hạnh phúc con người và công bằng xã hội. Thực tế, người ta thuộc các bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau đang áp dụng những nguyên tắc đạo đức tổng quát giống nhau dù những phán đoán đạo đức cá biệt có thể khác nhau vì những dị biệt trong điều kiện sống. Như thế thách thức đối với xã hội là làm nổi bật những cái giống nhau chứ không phải làm nổi bật những cái khác nhau của chúng ta.

Những nguyên tắc chính của đạo đức nhân bản chủ nghĩa là gì?


– Thứ nhất, nhân phẩm và sự tự quản của cá nhân là giá trị trung tâm. Ðạo đức nhân bản chủ nghĩa gắn bó mật thiết tới sự tự do chọn lựa được gia tăng tối đa: tự do tư tưởng và tự do lương tâm, tâm trí tự do và tra vấn tự do và quyền của cá nhân theo đuổi lối sống khi cảm thấy nóù thích hợp với mình và không làm hại tới người khác. Ðiều này đặc biệt thích đáng trong xã hội dân chủ là nơi có thể hiện hữu vô số hệ thống các giá trị cho người ta chọn lựa. Như thế, người theo chủ nghĩa nhân bản tôn trọng sự đa dạng.

– Thứ hai, bảo vệ nhân bản cho quyền tự quyết của cá nhân không có nghĩa rằng người theo chủ nghĩa nhân bản dung dưỡng bất cứ loại hạnh kiểm nào của con người. Sự bao dung của người theo chủ nghĩa nhân bản đối với các lối sống đa dạng không nhất thiết bao hàm ý nghĩa chấp thuận. Người theo chủ nghĩa nhân bản quả quyết rằng đi kèm sự gắn bó với xã hội tự do là nhu cầu liên tục nâng cao trình độ chất lượng của thị hiếu và sự am hiểu giá trị. Người theo chủ nghĩa nhân bản tin rằng tự do phải được hành xử có trách nhiệm. Họ nhận biết rằng hết thảy các cá nhân đều sống trong cộng đồng và rằng có những hành động nào đó mang tính phá hủy và lầm lạc.

 

– Thứ ba, các triết gia đạo đức nhân bản chủ nghĩa bảo vệ một nền đạo đức xuất sắc (từ Aristotle và Kant tới John Stuart Mill, John Dewey và M.N. Roy). Ở đây có biểu lộ sự chừng mực, tiết chế, tự chế, tự chủ nào đó. Giữa những định chuẩn của sự xuất sắc ấy là khả năng tự mình chọn lựa và quyết định, óc sáng tạo, thưởng ngoạn thẩm mỹ, động cơ chín chắn, hợp lẽ phải, và đòi buộc thành toàn các năng khiếu cao nhất của con người. Chủ nghĩa nhân bản nhắm làm nổi bật cái tốt đẹp nhất trong con người để mọi người có được cái tốt nhất trong cuộc sống.

 

– Thứ tư, người theo chủ nghĩa nhân bản thừa nhận trách nhiệm và bổn phận của chúng ta đối với người khác. Ðiều này có nghĩa rằng chúng ta không nên đối xử với những con người khác như những vật thể chỉ nhằm làm thoả mãn nguyện vọng của chúng ta; chúng ta phải đánh giá họ là những con người có quyền được hưởng bình đẳng trong cứu xét. Người theo chủ nghĩa nhân bản quả quyết rằng "mỗi cá nhân nên được đối xử nhân đạo". Cũng thế, họ chấp nhận Luật Vàng rằng "đừng làm với kẻ khác điều mà ta không muốn kẻ khác làm với ta." Họ chấp nhận huấn thị có tính kinh thánh rằng chúng ta nên "chấp nhận người lạ ở giữa chúng ta", tôn trọng những cái mà họ dị biệt với chúng ta. Căn cứ vào vô số tín điều tôn giáo, chúng ta đều là người lạ - tuy thế có thể trở thành bạn hữu - trong một cộng đồng rộng lớn hơn.


– Thứ năm, người theo chủ nghĩa nhân bản tin rằng đức tính cảm thông và đức tính quan tâm là thiết yếu cho đức hạnh. Ðiều này hàm ý rằng chúng ta nên phát triển lòng vị tha, quan tâm tới nhu cầu và sở thích của người khác. Những nền tảng của đức hạnh đều là "những chuẩn mực ứng xử đạo đức chung", nghĩa là, đức tính đạo đức tổng quát thì được chia sẻ rộng rãi bởi những người thuộc các bối cảnh tôn giáo và văn hóa khác nhau. Chúng ta phải nói thật, giữ lời hứa, lương thiện, giản dị, rộng lượng, xác thực, đáng tin cậy, nghĩa khí, cảm kích, và biết ơn; không thiên vị, chính trực, và bao dung; chúng ta phải vượt qua những dị biệt của nhau một cách hợp lý và nỗ lực hợp tác; chúng ta đừng trộm cắp hoặc làm tổn thương, làm tàn tật hoặc làm đau đớn kẻ khác. Dù người theo chủ nghĩa nhân bản kêu gọi giải phóng khỏi luật lệ đạo đức khắt khe và trấn áp, họ cũng bảo vệ trách nhiệm đạo đức.

 

– Thứ sáu, chiếm vị trí cao trên nghị trình của chủ nghĩa nhân bản là nhu cầu cung ứng nền giáo dục đạo đức cho trẻ em và thanh thiếu niên, để phát triển cá tính và kiến thức, hiểu rõ giá trị của những chuẩn mực ứng xử đạo đức chung, và khuyến khích sự tăng trưởng đạo đức và khả năng lập luận đạo đức.

– Thứ bảy, người theo chủ nghĩa nhân bản khuyến cáo chúng ta sử dụng lí trí trong khi đề ra các phán đoán đạo đức. Họ lưu ý rằng nhận thức là thiết yếu trong khi đề ra các chọn lựa đạo đức. Ðặc biệt, nếu sắp giải quyết các tình trạng đạo đức nan giải thì chúng ta cần dấn thân vào một quá trình cân nhắc thận trọng. Các nguyên tắc và giá trị con người có thể được minh chứng tốt nhất dưới ánh sáng của một sự thẩm tra có suy nghĩ chín chắn. Ở nơi hiện hữu những dị biệt, chúng ta phải thương lượng chúng tại bất cứ chỗ nào mình có thể, bằng đối thoại hợp lý.

 

– Thứ tám, người theo chủ nghĩa nhân bản xác quyết rằng chúng ta nên chuẩn bị để sửa đổi các nguyên tắc và giá trị đạo đức dưới ánh sáng của thực tại hiện nay và những kỳ vọng tương lai. Chúng ta cần rút tỉa sự khôn ngoan đạo đức tốt nhất trong quá khứ nhưng đồng thời triển khai những giải pháp mới cho các vấn đề đạo đức nan giải, dù cũ hoặc mới.

 

Thí dụ, cuộc tranh chấp về việc tự nguyện chết không đau đang ngày càng mạnh mẽ cách riêng trong các xã hội thịnh vượng, vì kỹ thuật y khoa ngày nay cho chúng ta khả năng giữ sống sót kẻ bệnh nặng hết phương cứu chữa mà lý ra có thể chết sớm hơn. Người theo chủ nghĩa nhân bản lập luận biện hộ cho cái chết có phẩm cách và quyền của người trưởng thành có đủ nhận thức cần thiết để từ chối những cứu chữa của y khoa, nhằm giảm đau khổ không cần thiết và thậm chí thúc cho mau chết. Họ cũng thừa nhận tầm quan trọng của phong trào cổ động việc thành lập bệnh viện dành cho người hấp hối nhằm xoa dịu quá trình hấp hối.

 

Cũng thế, chúng ta nên được chuẩn bị để lựa chọn một cách sáng suốt các khả năng sinh sản mới mà có thể trở nên khả thi do nghiên cứu khoa học - thí dụ thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm, người mẹ mang thai dùm, kỹ thuật di truyền, cấy ghép bộ phận con người, và nhân bản vô tính. Ở đây, chúng ta không thể ngoái nhìn những cái tuyệt đối đạo đức thời quá khứ để tìm chỉ dẫn. Chúng ta cần tôn trọng quyền tự quyết trong lựa chọn.

 

– Thứ chín, người theo chủ nghĩa nhân bản lập luận rằng chúng ta nên tôn trọng tính chất đạo đức của các nguyên tắc. Ðiều này có nghĩa cứu cánh không biện minh cho phương tiện; ngược lại, cứu cánh của chúng ta được định hình bởi phương tiện của chúng ta, và có các giới hạn đối với những gì mà chúng ta được phép làm. Ngày nay, điều này đặc biệt quan trọng khi xem xét các chế độ độc tài chuyên chế của thế kỷ 20 mà trong đó các hệ tư tưởng chính trị được tán thành với nhiệt tâm gần như có tính tôn giáo và những phương thế đạo đức bị thỏa hiệp, nhằm đạt những cứu cánh hão huyền. Chúng tôi nhận thức một cách sắc bén về tình trạng khổâ đau bi đát giáng xuống trên hàng triệu người bởi những kẻ muốn bỏ qua cho sự độc dữ cực kỳ nhằm mục đích giành bằng được cái thiện mà họ giả định là lớn lao hơn.....

 

Nguyễn Ước
Số lần đọc: 2790
Ngày đăng: 10.11.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lyotard với chủ nghĩa Hậu Hiện Đại - Khổng Ðức
Mỹ học của Thuyết Giải Cấu Derrida - Khổng Ðức
Nhà vua chết rồi, Hoàng đế vạn tuế! - Phạm Toàn
Ðại cương Thiền tông - 1 - Nguyễn Ước
Ðại cương Thiền tông - 2 - Nguyễn Ước
Ðại cương Thiền tông - 3 - Nguyễn Ước
Bài 4 – Mary Oliver: Đường chúng ta đi - Nguyễn Đức Tùng
Ðại cương Mật tông - 1 - Nguyễn Ước
Ðại cương Mật tông - 2 - Nguyễn Ước
Một nền giáo dục hiện đại hóa - Phạm Toàn
Cùng một tác giả
Ðạo đức học-1 (tiểu luận)
Ðạo đức học-2 (tiểu luận)
Ðạo đức học-3 (tiểu luận)
Ðôi nét Hồi giáo (tiểu luận)
Ðôi nét Kitô giáo (tiểu luận)
Cứu cánh luận (tiểu luận)
Cứu cánh luận-2 (tiểu luận)
Bàn về Giá trị-2 (tiểu luận)
Bàn về Chân lý -1 (tiểu luận)
Bàn về Chân lý -2 (tiểu luận)
Ấn giáo - 1 (tiểu luận)
Ấn giáo - 2 (tiểu luận)
Ấn giáo - 3 (tiểu luận)
Ðám rước- 1 (tiểu luận)
Nụ hôn với quỉ -1 (truyện ngắn)
Nụ hôn với quỉ II (truyện ngắn)
Vua một năm (truyện ngắn)
Minh Triết -1 (triết học)
Minh Triết -2 (triết học)
Những kẻ thờ Satan (truyện ngắn)
Bài giảng trên núi (truyện ngắn)
Cơn bão (truyện ngắn)