Phải vào mùa thu năm nay, khi chớm bước sang buổi xế chiều của tuổi tác, tôi mới sực tỉnh và nhận ra, nhiều năm qua mình đã quá vô tình với những sáng tác của bạn bè, bỏ lướt qua biết bao những giá trị được chắt ra từ bầu máu nóng mà bạn hữu đã vật vã trút lên trang giấy của nghiệp mệnh. Những giá trị thi ca thì vẫn nguyên vẹn. Nhưng quả là nó có bị phủ lên những lớp bụi của thời gian cùng sự quên lãng một thời của dư luận. Những ánh sáng mà nó chất chứa ở trong chính mình, vẫn lấp lánh và ngời sáng như buổi đầu nó hiển lộ. Tôi đã bỏ cái thời cơ mà lẽ ra mình đã có, là chiêm ngưỡng vẻ đẹp đích thực của chúng ngay từ lúc nó ra đời. Tôi từng tự vấn, rằng trong mấy chục năm đeo đuổi nghiệp bút mực, mình đã dành ra bao nhiêu khoảng thời gian thích đáng để chiêm nghiệm, suy ngẫm về sáng tác của những người cùng thời, cùng trang lứa, một cách sâu sắc, thấu tỏ tinh thần thi ca của họ, trong sự thanh tĩnh cao nhất của tâm thế. Rồi thời gian cứ trôi xuôi mải miết và vô tình. Giờ đã bắt vào mùa đông, đêm qua những đợt gió mùa ào ào thổi suốt đêm. Hình như thời tiết và sự biến đổi của mùa đã truyền những thông điệp và năng lượng của vũ trụ một cách thật mạnh mẽ, trực tiếp. Nó đánh thức và làm trồi lên bề mặt của ý thức những xung động tiềm ẩn sâu kín nhất của con người
Chót buổi cuối chiều ngày đầu tuần của tuần trước, tôi và nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu ngồi ở một quán trà, dưới tán những cây bằng lăng treo đầy quả trên hè đường phố Hà Đông. Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu phàn nàn, Hà Đông gần đây sao đông đúc quá mức vậy. Rồi nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu nói với tôi, anh vẫn cứ băn khoăn về cái quả bưởi anh thả ở bến Âu Lâu – Yên Bái từ mùa xuân năm 1998, chắc nó phải qua bao ghềnh thác, qua bao vùng đất. Liệu quả bưởi đó có về được quê anh, Mỹ Lộc – Thái Bình hay không? Tôi chợt nhắc tới thơ của nhà thơ Trần Hùng, sắc diện nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu sinh động hào hứng một cách kỳ lạ. Anh nói trào chảy say đắm về Trần Hùng và thơ Trần Hùng, như không có tôi trước mặt, như anh đang đứng trên bục giảng đường Đại học Tổng hợp vậy. Đó là những suy nghĩ và cảm nhận sâu sắc của nhà thơ Nguyễn
Linh Khiếu khiến đầy tâm huyết về một nhà thơ, một vùng đất mà anh tâm đắc.
Tôi nhận thấy trong khoảng trời đất bao la rộng lớn này, còn gì quý hớn là những sự đồng cảm của con người. Sự đồng cảm giống như những luồng gió lớn đưa con người lên cao vút.
Mẹ
Xa một ngàn cây số
Cong đang nói cùng mẹ đây
Con quỳ xuống tắt đèn
Con nhắm mắt cho tối thêm lần nữa
mẹ ơi quay lại với con
mẹ đứng trước bàn thờ
rồi tới ngồi bên lửa
để đun cho nồi nước nóng lên
rồi lại đun cho nóng lên
ngoài hiên
những bông lửa trên trời đỏ rực
mẹ chợt nhận ra
mình còn nhiều đứa con
chúng ra đi đã lâu mà không về,
sao lại như thế nhỉ?
mẹ ơi
giao thừa rồi
con quỳ xin mẹ đây
xin mẹ uống một liều thuốc ngủ
rồi nằm xuống-nhẹ nhàng thôi
thanh thản cho đến sớm mai
sẽ trở dậy thắp hương mẹ nhé
(Giao thừa)
Đây là nguyên văn bài thơ Giao thừa của nhà thơ Trần Hùng viết năm 1989, tôi chép lại bằng bút mực trong cảm xúc thức dậy từ sâu thẳm chợt dâng lên mãnh liệt. Trong cuộc đời của một người mẹ, sự mất mát thiếu vắng những đứa con của mình, sự thiếu vắng này nó trào đến và vút lên đau thương nhất là vào đêm giao thừa. Trong những giờ phút thiêng liêng của một năm này, hình ảnh những người thân trở về một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất, nó làm sống lại từng hơi thở, cử chỉ, bước đi của người thân, như có thể nghe thấy, chạm vào được. Không thời điểm nào trong cuộc đời, mà người ta sống trong ảo giác với thế giới của những hồi ước mạnh mẽ bằng những ngày cuối năm và đêm giao thừa. Mẹ ơi/giao thừa rồi/ con quỳ xin mẹ đây/ xin mẹ uống một liều thuốc ngủ/ rồi nằm xuống-nhẹ nhàng thôi/ thanh thản cho đến sớm mai/ sẽ trở dậy thắp hương mẹ nhé. Đau thương này, sức của một con người khó có thể chịu đựng nổi.
Bài thơ Giao thừa của nhà thơ Trần Hùng đã dựng lên tượng đài của sự vĩnh hằng. Tượng đài của sự hy sinh cao cả vô bờ bến của người mẹ. Con người với sự hy sinh cho lý tưởng của mình, là phẩm chất cao quý bậc nhất mà loài người đã kết tinh đựoc và truyền nối cho các thế hệ kế tiếp. Đó là bài ca mãi mãi thuộc về vĩnh hằng.
Tôi đọc thơ Trần Hùng, không chỉ thấy thơ mà thấy trào ra những khối tâm huyết đã kết tụ ở trong tâm can và huyết mạch xiết chảy của nhà thơ.
Trung thu
áp thấp về đêm Hà Nội
cha như ông trăng sau màn trời
con đang làm gì con ơi
chiếc đèn ông sao trung thu năm ngoái
vẫn nằm trến giá sách đầy bụi
hay con đang ngồi ôm
ngoài kia
những ngôi sao đang bò ra từ các góc tối
rủ con cùng chạy chơi
nếu thiếu nến thì con bắt đom đóm bỏ vào
không có đom đóm thì cầm sao ra ngoài ngõ
rồi đèn sẽ sáng lên
và con sẽ tin
cha trở về cho con đêm trung thu khác
một đêm trăng xà cừ tíu tít
trên những dấu chân bé bỏng của con
(Nhớ con)
Tôi thấy đây không chỉ còn là thơ thuần tuý nữa, mà đây là tấm lòng của người cha rộng như trời đất, đang dõi theo và ôm trọn những đứa con của mình trong tết Trung thu. Đây là áng thơ hay và vô cùng xúc động về tình phụ tử và Tết Trung thu mà tôi được đọc. Đọc thơ Trần Hùng gợi cho tôi liên tưởng về loài chim Đan Tước chuyên sinh sống ở trên núi cao, cả vòng đời của loài chim này chỉ cất lên tiếng hót vào giờ hoàng đạo của những ngày thời tiết đẹp nhất. Tiếng hót của loài chim Đan Tước trong trẻo vang vọng. Những dải âm của tiếng hót như làn gió thanh nhẹ vút lên cao rồi toả xuống một vùng không gian rộng lớn của núi rừng, âm thanh của nó vọng đến cả những thung lũng và khe sâu dưới chân núi.
Những bài thơ của nhà thơ Trần Hùng thường được hắt lên bởi một ánh sáng mạnh, đó là ánh hồi quang toả ra từ miền thẳm sâu của tiềm thức, từ niềm trắc ẩn như xuyên thấu vào lõi của trái đất. Tôi cảm nhận được cái xung động cảm xúc cực kỳ mãnh liệt này. Nếu chỉ bằng với trái tim bình thường của con người, thì sẽ không thể chịu nổi cái áp lực của năng lượng quá mạnh xuyên qua nó. Có lẽ những câu thơ của nhà thơ Trần Hùng đã truyền dẫn trực tiếp những xung lực mang đầy năng lực của cảm xúc từ trái tim của nhà thơ - và những câu thơ là điểm cuối cùng chứa đựng cái xung lực quá mạnh mẽ đó.
Gánh nặng nào
nắng vang vang trên đầu
gió hoang trên đồng
cá hoang dòng suối
tôi hoang lòng tôi
kìa con trai
hãy tới gục đầu vào ngực gầy mà khóc
con sẽ về hiền ngoan với đất
(…)
thôi
chị xin nào em trai
chị sẽ đền cho em
bờ sông đầy cát
tôi biết tôi biết
có một mặt trăng ban ngày
một mặt trời ban đêm
lớn lên tôi mới lơ mơ hiểu thêm
đấy chính là đôi mắt của một bé nào đó
(Tự thoại kẻ tâm thần)
Đây là bài thơ của nhà thơ Trần Hùng trực diện viết về lời tự thoại của người tâm thần. Một người mắc bệnh lý nhiễu loạn tâm thần, gần giống hình bóng một số người mắc bệnh tâm thần mà ta thi thoảng gặp trên đường phố ở một nơi nào đó. “ha ha/ họ thua ta rồi/ đập đầu vào tường/ máu máu mắt mắt/ nụ cười bay bay”. “Người đàn ông kia/ gánh nặng nào/ khiến người kêu cầu/ khiến người xua đuổi/ (…)/ lặng im lời giẻ rách/ ánh sáng đang về/ từng dàn voi cao lớn/ đuôi sao chổi lê thê”. Sự cảm thông chia sẻ của nhà thơ thật lớn lao nhường vậy. Thế giới của người tâm thần hiện lên thật đẹp dưới ánh sáng của ký ức và tình yêu thương che chở của những người thân. Sự cảm thông, chia sẻ và tình thương yêu của con người là một thứ nước thiêng như thứ nước từ bình nước cam lồ của Đức Bồ tát quán tự tại rưới xuống tình đồng loại, làm sự sống hồi sinh toả hương ngào ngạt. Tôi cũng tự hỏi, nếu không có sự cảm thông, chia sẻ và tình thương yêu của con người đối với nhau, thì nhân loại chắc đã biến thành sa mạc cằn cỗi từ lâu rồi. “Ôi, xin mau tìm về/ nụ hôn yên tĩnh nhất/ trên vầng trán nhàu nát/ - anh tôi”. Tôi cho rằng đây là một bài thơ lớn, bởi sự đồng cảm chia sẻ thật ân tình và thiêng liêng với người mắc chứng bệnh tâm thần. Không chỉ vậy, bài thơ còn toả ra vẻ đẹp của một đời sống tinh thần bị che mờ, khuất lấp trước sự thờ ơ lãnh đạm của đồng loại, của cuộc đời. Ánh sáng huyền linh trong thế giới đời sống tinh thần của người mắc bệnh tâm thần, lần đầu tiên được nhà thơ Trần Hùng mở ra như một sự khải thị, trong tình thương yêu, cảm thông, chia sẻ tột cùng.
Thơ Trần Hùng mở thông những cánh cửa thật rộng tới một thế giới vỗ những đôi cánh khát vọng giữa bầu trời của tình yêu, ước vọng trong “niềm trinh tĩnh vỡ oà” (Thời gian)
Phương trời nào ta cùng nhau trôi đi vun vút
qua bao nhiêu vườn nắng
qua bao nhiêu vườn người
cơn mưa chiều dòng kênh xa lạ
(…)
Mây bay về đâu cho tôi theo với
(Phương hạc bay)
Thôi chào nhé
những bờ vườn hoe nắng
hoa rau dền gai, hoa rau sam tím
chào dòng sông lặng im
(…)
Ròng ròng một mùa hè
tôi đi
tôi đi
tôi đi
nhẹ nhàng như cánh bướm
tìm về giấc thuỵ miên vĩnh viễn
(Thảm thắc)
Dưới đôi cánh đập mạnh trong bầu trời của ước vọng, ngập tràn âm thanh và ánh sáng “ròng ròng”. Cùng nhau trôi đi vun vút, chập chờn “nhô lên nỗi buồn sừng sững” (Thời gian). Ta có thể chạy đuổi với theo những đám mây “mây bay về đâu cho tôi theo với”, nhưng ta cũng có thể nhẹ nhàng như cánh bướm trở vào giấc thuỵ miên trong chiếc kén của vĩnh hằng. Tôi tự hỏi, rằng trong khoảng trời đất này, có ước vọng nào mang tính biểu tượng về con người với hai thái cực của tâm thế, đẹp và lãng mạn hơn hình ảnh con người chạy đuổi với theo những đám mây, rồi nhẹ nhàng chìm vào giấc thuỵ miên trong ngôi nhà vĩnh hằng của những chiếc kén.
Kia buổi sớm
Hạt mầm thức dậy
Niềm khát vọng nhói đau
(Khát vọng)
Mây lang thang
Nhớ mùa thu rất xa
(…)
Trên thảm lá dày
Gương mặt cổ nhân về đâu đây bên chiếc đồng hồ nước
(Đồng hồ mùa thu)
tôi đã ôm con tôi thật lâu
tôi đã khóc trên ngực người yêu
tôi lầm lũi bước theo những giọt nước mắt…
(Gửi một thi sĩ)
Dù sao, những sợi dây mỏng tang tưởng như vô hình của cuộc đời nơi thế tục, vẫn ghì riết níu kéo đôi cánh ước vọng của nhà thơ. Làm sao có thể dứt được những sợi dây giằng dịt của tình thương nỗi nhớ. Nó liên tục như những đợt sóng vỗ dồn dập vào ghềnh đá của số phận lầm lũi bước theo những giọt nước mắt, của niềm khát vọng nhói đau, như hạt mầm thức dậy vào buổi sớm nào đó trong cuộc đời. Những đám mây vẫn lang thang nơi mùa thu rất xa, ở đấy trên thảm lá dày, gương mặt cổ nhân trở về bên chiếc đồng hồ nước. Ở đấy, “những con ve ngày ấy đã già/ chúng biến thành nếp nhăn trên cây cổ thụ/ chiều nay bên gốc cây nhìn lên/ ta lặng người/ trước bình thản cây thăm thẳm lên trời” (Thời gian)
Ôi, những cái cây mãi mãi nằm trong biểu tượng khát vọng của con người, trong sự bình thản và thăm thẳm vươn lên bầu trời. Chân lý này đâu phải lúc nào và đâu phải ai cũng nhận ra, cùng thấu ngộ.
Thơ Trần Hùng luôn mở toang cánh cửa thế giới của cảm xúc và cảm giác đầy ấn tượng, từ một trực giác được ghi lại, bảo lưu đầy đủ và chính xác, từng cất giữ trong ký ức của nhà thơ.
Xưa ai áo trắng như em, ai cầm hoa cúc xanh như em
Trăng lên từ cánh đồng võng nước, tiếng sênh sáo cuối mùa, tay cầm tay lá trắng, em che trăng một tấm yếm sồi, ta che em ngực trần lá nóng.
Xưa ai áo trắng như em, ai cầm hoa cúc xanh như em
Bến đò than, sung rơi tầm tã, tay cầm tay lá lúa, mùi tóc ẩm, mùi áo ẩm, mùi dòng sông ngun ngút.
Rồi gật đầu tạnh cơn mưa nắng lên ngơ ngác.
(Cúc xanh)
Người đi đâu cả rồi
Liềm hái còn đây
(…)
Giờ chim xa, mây xa, nước im
Người đi đâu cả rồi.
(Trên cánh đồng làng)
Trong cái thế giới như vừa trở về từ giấc mộng thoáng buồn và xa vắng. Người đi đâu cả rồi, liềm hái còn đây. Kìa mây xa, những cánh chim cũng đã xa khuất ở phương trời nào, gió lặng, nước im. Một không gian thật tĩnh lặng, xa ngái, trống vắng và tiếc nuối. Tất cả vẫn còn đấy, mà tất cả đã trở về một thế giới nào đó khác biệt. Nơi ấy, bến đò than sung rơi tầm tã, mùi tóc ẩm, áo ẩm, mùi dòng sông ngun ngút. Trăng lên từ cánh đồng võng nước, ai đấy áo trắng như em, cầm bông cúc xanh như em thuở ấy, đang trở về như thực như mơ. Chợt giật mình, tạnh cơn mưa nắng lên ngơ ngác.
Cuộc đời là vậy đấy. Bảo là thực thì là thực, bảo là mộng thì là mộng. Quá vãng liên tục thổi những luồng gió và hắt ánh sáng mạnh lên hiện tại. Ta cứ thử giả định, nếu vào một lúc nào đó, quá khứ ngừng thổi những đợt gió về hiện tại, thì đời sống của con người trên thế gian này thật đơn điệu, nhàm tẻ và trống rỗng lạnh lẽo như thế nào.
Rồi một ngày nắng lên thênh thênh nước về
Rồi một ngày cô Mùi ra đi bước chân xa lắm
Và chúng mình cũng ra đi, theo phù sa về các đường chân trời
Bỏ lại những vườn trăng, những câu đồng dao rơi vãi
Bỏ lại con thuyền
(Gọi nguồn)
Thế giới của cảm xúc và niềm trắc ẩn mở ra trong những câu thơ của Trần Hùng, rộng thênh và đẹp đến nao lòng. Những con thuyền, những vườn trăng, và những câu đồng dao rơi vãi. Bảo là bỏ lại, nhưng thực ra nhà thơ đang níu kéo, nâng niu và thổi hồn vào chúng, làm cho chúng trở nên thật sinh động và quyến rũ.
Rồi một ngày nắng lên thênh thênh nước về, và chúng mình cũng ra đi, theo phù sa về các đường chân trời.
Tuổi trẻ như những ngọn gió buổi mai, mới mẻ, tinh khôi, trong trẻo và tràn trề sức sống – Chúng cuốn theo một tiếng gọi rất xa nơi chân trời của khát vọng. Tuổi trẻ luôn làm mới thế gian này bằng đôi cánh ước vọng của mình
*
Qua nhà thơ Nguyễn Thành Tuấn, tôi mới thực sự biết Cao Bằng và nhà thơ Trần Hùng, cũng chỉ cách đây dăm năm. Tôi còn nhớ, chuyến đi đầu tiên của chúng tôi lên Cao Bằng, chuyến đi làm nhà thơ Nguyễn Thành Tuấn thật sự hào hứng, anh là người yêu và hiểu Cao Bằng một cách kỳ lạ.
Trước khi đến Cao Bằng gặp nhà thơ Trần Hùng, theo gợi ý của nhà thơ Nguyễn Thành Tuấn, chúng tôi vào bái yết đền Đuổm, toạ trên núi Điểm sơn, đây là khối đá vôi tận cùng phía nam của vòng cung sông Gâm. Đền Đuổm thờ ngài Dương Tự Minh, được sắc phong là Cao Sơn quý minh. Ngài là Phò mã lang của nhà Lý, được hai vua nhà Lý gả cho hai công chúa là công chúa Diêm Bình và công chúa Thiều Dung. Hai công chúa cũng được thờ tại đây.
Nhà thơ Trần Hùng nói với tôi, anh mới chỉ in hai tập thơ mỏng vào năm 1991 và năm 1998. Tập thơ đầu tay Gọi bạn của nhà thơ Trần Hùng được nhà thơ Trúc Thông viết lời giới thiệu. Tôi chỉ thực sự được đọc thơ của nhà thơ Trần Hùng, là vào mùa hè năm 2007, anh sao lại cho tôi một bản tập thơ Mơ quê, xuất bản từ năm 1998. Chúng tôi gặp nhau nhiều lần, nhưng chưa bao giờ nói chuyện về văn chương. Đọc thơ Trần Hùng, tôi mới hiểu, đối với nhà thơ Trần Hùng mối quan tâm sâu sắc của anh không hẳn là câu chuyện thi ca, mà là câu chuyện của cuộc đời, đến độ nếu không có thi ca để ký thác, thì thật khó sống một cách thăng bằng và bình thản những năm tháng của một đời người trên thế gian đầy những lo âu bất trắc trong tiếng gõ cửa không ngừng của định mệnh. Có lẽ cái cao quý tột cùng của văn chương nghệ thuật và thi ca, cái mà nó phải mang vác cũng chỉ có chừng ấy mà thôi.
Lần tìm trong cỏ đêm thấy bài thơ cũ
Tìm trong bài thơ cũ thấy chiếc trâm cỏ thì người xưa đánh rơi
Và tôi chẳng thể cầm lòng, tôi lặng lẽ như vì sao xa nhất
(Ba giờ sáng)
Thơ Trần Hùng là thế, cứ run rẩy kiếm tìm, nâng niu, đồng cảm, sẻ chia với những gì mất mát của cuộc đời, trong tình cảm thiêng liêng nhất với sự đi lên đi xuống không ngừng của cảm xúc và suy tưởng. Trên đôi cánh vỗ không mỏi trong trập trùng của ước vọng, đôi lúc nhà thơ Trần Hùng cũng gợn lên thoáng qua cái linh cảm “có thể ban mai trong tôi sắp tắt/ (…)/ tôi cảm thấy một điều đang đến rất gần rất gần” (Ánh lên gương mặt).
Đọc thơ Trần Hùng, tôi thấy nhớ non nước đèo dốc Cao Bằng với những phiên chợ sớm. Tôi lẩm nhẩm ngâm hai câu thơ trong bài thơ Sơn hành của Đỗ Mục:
Đình xa toạ ái phong lâm vãn
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa
(Dừng xe vì yêu cảnh rừng phong buổi chiều
Lá gặp sương mùa thu màu đỏ hơn cả hoa tháng hai)
Tôi đọc thơ Trần Hùng, cảm nhận được cái sắc đỏ, ánh lên như là cái màu đỏ của lá gặp sương mùa thu trong câu thơ của Đỗ Mục vậy. Đó là cái sắc đỏ hiện ra từ sự ngâm trải trùng điệp của một đời người./.
Hà Đông, ngày 16-11-2009