Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.166
123.224.157
 
Dưới bóng trưởng lão : Gabriel García Márquez và những ma quỷ của thời đại ông
Enrique Krauze

Tất cả những nhà độc tài, từ Creon trở đi, đều là những nạn nhân –

Gabriel García Márquez.

 

Nhiều năm sau này, trong quá trình viết hồi ký, Gabriel García Márquez thường nhớ lại cái buổi chiều xa xưa ấy ở Colombia, khi ông nội đặt một quyển tự điển trên đùi và nói: “Quyển sách này không chỉ biết tất tật mọi thứ, mà nó còn là một quyển sách không bao giờ sai.” Cậu bé hỏi ông “Có bao nhiêu từ không sai hở ông?” “Tất cả,” ông nội trả lời.

 

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nếu một người ông cho đứa cháu một quyển từ điển làm quà, là ông đã cho nó một công cụ hiểu biết tuyệt vời; nhưng Colombia không phải đơn giản là bất cứ nơi nào. Nó là đất nước của những nhà ngữ pháp. Trong thời trai trẻ của ông nội García Márquez – đại tá Nicolás Márquez Mejía, sinh năm 1864 và chết năm 1936 – một số tổng thống và bộ trưởng trong chính phủ – hầu như tất cả bọn họ đều là luật sư của phe bảo thủ – xuất bản những quyển từ điển, sách giáo khoa ngôn ngữ, và các chuyên luận (bằng văn xuôi và bằng thơ) về  orthology[1] về chính tả, ngữ văn, lý thuyết và thực hành biên soạn từ điển, nhịp thơ, vận luật, và ngữ pháp phương ngữ xứ Castile. Malcolm Deas, một học giả về lịch sử Colombia, đã nghiên cứu hiện tượng kỳ quặc này, tuyên bố rằng tình trạng bị ám ảnh bởi ngôn ngữ được biểu hiện bằng sự vun trồng các môn khoa học này – Deas ghi chú rằng những người thực hành những môn này khăng khăng gọi chúng là những môn khoa học – vốn xuất phát từ sự thôi thúc kế tục di sản văn hóa Tây Ban Nha. Bằng cách đòi hỏi “Sự hiện diện vĩnh viễn của Tây Ban Nha  trong ngôn ngữ,” người Colombia nhằm đến sở hữu các truyền thống của nó, lịch sử của nó, các tác giả cổ điển của nó, các gốc rễ Latin của nó. Công cuộc chiếm hữu này, mở đầu bằng việc thành lập Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Colombia vào năm 1871, chi nhánh Mỹ châu của viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha, là một trong những chìa khóa để hiểu thời kỳ dài nắm quyền của phe bảo thủ – kéo dài từ 1886 đến 1930 – trong lịch sử chính trị Colombia.

 

Ông nội của García Márquez là một gương mặt nổi bật trong những tiểu thuyết đầu tiên của nhà văn, và ông không xa lạ gì với lịch sử chính trị-ngữ ngôn này. Đại tá Nicolás Márquez Mejía chiến đấu trong hàng ngũ của viên tướng huyền thoại của phe tự do Rafael Uribe Uribe (1859-1914), một trong số lãnh tụ hiếm hoi trong lịch sử Colombia. Câu chuyện của ông đến lượt nó lại gợi hứng để tạo ra  nhân vật Đại tá Aureliano Buendía trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Là một chiến binh hăng hái và kém may mắn trong ba cuộc nội chiến, Uribe Uribe còn là một nhà ngữ học chuyên cần, một người lính trong các cuộc chiến dân sự giữa phe bảo thủ và phe tự do. Có lần khi ngồi trong tù ông đã dịch Herbert Spencer, và năm 1887 ông đã soạn cuốn “Từ điển vắn tắt các đặc ngữ Pháp, các  phương ngữ và cách dùng từ đúng” (Diccionario abreviado de galicismos, provincialismos y correcciones de lenguaje), xem ra có được một thành công vừa phải.

 

Năm 1886 viên tướng này một mình trong Nghị viện chống lại sáu mươi thượng nghị sĩ phe bảo thủ. Rốt cuộc phe đa số áp đảo không để cho ông một lựa chọn nào khác ngoài “nhường lời cho đại bác” – theo lời của chính ông. Uribe Uribe là vai chính trong cuộc chiến tranh Nghìn Ngày đẫm máu trong khoảng 1899-1902, kết thúc bằng việc ký Hòa ước Neerlandia. Việc ký kết này được chứng kiến bởi Đại tá Márquez, là người nhiều năm sau đã tiếp cựu tướng quân tại nhà riêng ở Aracataca, gần nơi diễn ra những sự kiện ấy. Uribe Uribe bị ám sát năm 1914. Hai thập niên sau, viên trung úy của ngài tặng cho đứa cháu lớn của ông ấy không phải một thanh gươm hay khẩu súng, mà một quyển từ điển. Cuốn sách tuyệt vời này ở nơi nào khác thì có thể là công cụ của kiến thức đấy, nhưng ở Colombia thì nó là một công cụ của quyền lực.

 

Quyền lực thật ra đến với García Márquez thông qua nghệ thuật văn chương, nhưng ngay trong những giấc mơ nồng cháy hoang dã nhất, đại tá Márquez cũng không thể hình dung   ars combinatoria phi thường mà thằng cháu nội – ông gọi nó là Napoleon bé của ông – đã áp dụng vào quyển từ điển đó, cuốn sách “gần hai nghìn trang khổ lớn dày đặc, minh họa đẹp đẽ” mà “Gabito” bắt đầu đọc “theo thứ tự của bảng chữ cái, nhưng không hiểu mấy.” García Márquez đoạt giải Nobel Văn học năm 1982, và những cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng. Với sức mạnh phi thường của tài kể chuyện, với chất thơ duyên dáng, với thứ văn xuôi uyển chuyển và phong phú đến mức trong từng khoảnh khắc nó dường như chứa đựng toàn bộ các từ trong cuốn từ điển, những cuốn sách ấy được đọc ở khắp nơi. Thành phố quê hương của ông là điểm đến của khách hành hương văn chương. Ở Cartagena de Indias, cái thành phố cảng có thành bao quanh là nơi mà chàng phóng viên trẻ García Márquez trải qua những năm gian khó, các tài xế taxi chỉ cho du khách “Ngôi nhà Phần thưởng” một trong những ngôi nhà thuộc sở hữu của cái ông “Gabo” ấy trong các thành phố trên khắp cả thế giới. Cái biệt hiệu đáng yêu ấy cho ta thấy ông đã khơi dậy được sự đồng cảm rộng rãi trong dân chúng.

Năm 1996 García Márquez đã thanh toán một khoản nợ cũ trong lịch sử Colombia: lãnh đạo một cuộc cách mạng nhỏ chống lại sự chuyên quyền của các cuốn từ điển. Trước sự hoảng sợ của Viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha và bản sao của nó ở Zacatecas, Mexico, tác giả lừng danh này – ông chúa và bậc thầy của “Sự hiện diện vĩnh viễn của Tây Ban Nha trong ngôn ngữ – tự tuyên bố ông thích xóa bỏ chính tả. Sự khinh mạn này là thắng lợi cuối cùng của phái tự do cấp tiến Colombia đối với bá quyền về ngữ ngôn của phái bảo thủ. Linh hồn tướng Uribe Uribe và đại tá Márquez ngậm cười nơi chín suối.

Và Fidel Castro cũng mỉm cười. Vào lễ sinh nhật thứ bảy mươi của ông, ông nhận từ García Márquez một món quà hấp dẫn, một “vật báu thật sự”: một cuốn từ điển. “Tôi viết như vậy các bạn bè sẽ yêu mến tôi” García Márquez đã nhiều lần nói thế. Một trong các bạn bè đó là nhà độc tài Cuba. Trong lịch sử châu Mỹ Latin, không có mối ràng buộc nào giữa ngòi bút và quyền trượng từng mạnh mẽ bằng, thân mật bằng, lâu dài bằng và đôi bên cùng có lợi bằng liên minh giữa Fidel và Gabo. Năm 1915, khi nhà thơ lớn Nicaragua Rubén Darío (người có ảnh hưởng quan trọng đến García Márquez) già, yếu và túng bấn, ông đã cố đấm ăn xôi chấp nhận sự trợ giúp của nhà độc tài Guatemala Manuel Estrada Cabrera và thậm chí đã viết những bài thơ dành riêng tán tụng ông ta. Những động cơ chính trị để Castro liên kết công khai với nhà văn vĩ đại không khó hiểu, và cũng rõ ràng như của Estrada Cabrera: ông tìm kiếm lời lãi của tính hợp pháp. Thế nhưng  các động cơ của García Márquez là gì, vì ông đâu có ở trong tình trạng quẫn bách như ông già Darío?

Ngày nay, nhờ cuốn tiểu sử đồ sộ do Gerald Martin soạn, những gốc rễ tâm lý của mối quan hệ phi thường này đang bắt đầu lộ diện. Chúng dẫn về ngôi nhà của gia đình ở Aracataca, và đặc biệt, tới mối ràng buộc giữa Gabito với bậc trưởng thượng gia tộc của ông, Đại tá Márquez. Tại đây có mầm mống của sự mê say của ông đối với quyền lực: bí ẩn, khó nắm bắt, nhưng thật một cách kỳ diệu, giống như câu chuyện về quyển từ điển được chuyển từ viên đại tá Colombia đến vị lãnh tụ Cuba thông qua bàn tay nhà văn.

“Cuộc sống không phải cái mà người ta sống, nó là cái mà người ta nhớ và cái cách mà người ta nhớ để kể lại nó” García Márquez đã viết thế trong đề từ cho cuốn hồi ký của ông. Đó là cái cách mà ông đã nhớ lại, làm tái hiện và kể lại bằng nhiều cách một sự cố bi thảm trong đời người ông của ông. Nó xảy ra năm 1908, ở Barrancas. García Márquez nhắc đến nó trong cuốn “Sống để kể chuyện” như một cuộc “đọ kiếm” một “cuộc đấu vì danh dự” trong đó vị đại tá không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối đầu với một người bạn cũ, một viên cựu trung úy. Anh ta là “một gã khổng lồ trẻ hơn ông đến mười sáu tuổi” đã có vợ và hai con, tên anh ta là Medardo Pacheco. Theo kể lại, cuộc cãi cọ bắt đầu bằng một lời “nhận xét nhục mạ” đối với mẹ của Medardo Pacheco và nó được qui cho ông của García Márquez. Việc “giải thích công khai” về sự lăng nhục này không làm nguôi được cơn giận dữ điên cuồng của Medardo, và ông đại tá, “người xúc phạm danh dự” của anh ta đã thách Medardo một trận đấu kiếm trí mạng. Không có “ngày được ấn định” và anh phải mất đến sáu tháng để giải quyết vấn đề đảm bảo tương lai cho gia đình, trước khi ra đi để đón nhận số phận của mình. “Cả hai người đều trang bị vũ khí” García Márquez nhận xét. Medardo bị tử thương ngã gục xuống “bụi cây thấp nức nở không nói lên lời”

Một phiên bản trước đó của câu chuyện này, được kể trong một cuộc phỏng vấn với Mario Vargas Llosa, không nói đến cuộc đấu kiếm này: “Có lần ông đã phải giết một người, khi ông còn rất trẻ…hình như có một kẻ liên tục săn đuổi và thách thức ông, nhưng ông không để ý cho đến khi tình thế trở nên khó chịu đến mức ông phải cho hắn một phát đạn.” Theo García Márquez, thành phố đứng cả về phía ông nội của ông đến nỗi một người anh của kẻ đã chết phải ngủ “ngay trước cửa một ngôi nhà đối diện với nhà ông nội, để đề phòng gia đình khỏi đến trả thù cho cái chết của anh ta”

 

“Cháu không thể biết một người chết đè nặng lên cháu thế nào đâu” ông nội kể đi kể lại với Gabito cho nhẹ bớt nỗi lòng, Gabito say mê nghe những câu chuyện chiến tranh của ông, và nhấn mạnh tầm quan trọng của thời kỳ này trong cuộc đời mình: “Đó là sự cố đầu tiên trong cuộc đời thực nó khuấy động bản năng viết lách của tôi, và tôi vẫn không sao xua đuổi được nó đi.” Đúng là để xua đuổi nó, ông chọn tái tạo nó không phải như nó đã được trải nghiệm, mà như “người ta nhớ nó để kể lại nó.” Có lẽ sự tái hiện sự cố này bằng văn chương đã đến lần đầu tiên vào năm 1965, trong kịch bản ông viết cho bộ phim Thời để chết, của nhà làm phim Mexico, Arturo Ripstein. Sau nhiều năm ốm yếu mòn mỏi trong tù, Juan Sáyago trở về thành phố, tại đây hắn giết một người nữa, Raúl Trueba, sau một cuộc đua ngựa. Sáyago tìm cách xây lại ngôi nhà cũ và chiếm lại người đàn bà mà hắn đã bỏ lại phía sau, nhưng những đứa con của người chết tin rằng vụ giết người đó là một vụ gian lận, đã đợi hắn suốt thời gian đó để trả thù. Kịch bản biện hộ cho nhân vật chính: “Sáyago không giết một người không có vũ khí” hắn đã không giết “một cách hèn hạ” “hắn đã giết anh ta mặt đối mặt, như mọi người.” Cuối cùng Sáyago không có lựa chọn nào khác là giết một trong những đứa con của Trueba, mặt đối mặt, và sau đó hắn bị đứa khác bắn – vào lưng, khi không mang vũ khí, một cách hèn hạ.

 

Cảnh này còn xảy ra lần nữa trong Trăm năm cô đơn, chuyển thành một cuộc chọi gà, sau đó Aureliano Buendía  cho tên Prudencio Aguilar láo xược chọn vũ khí để họ có thể đối mặt nhau trong một cuộc đấu công bằng. Chỉ đến khi đó ông ta mới có thể giết Aguilar bằng một nhát giáo đâm chắc chắn. Giống như Đại tá Márquez  trong đời thực, Aureliano đầu tiên lên tàu trong một cuộc di cư cùng với gia đình, để tìm một thành phố mới: thành phố Aracataca thật, Macondo huyền ảo [hư cấu]. Nhưng những chân trời mới không xua tan được nỗi xấu hổ. Cả hai nhân vật, thực và tưởng tượng, sống trong nỗi dày vò của một “niềm ân hận khủng khiếp.” Và cả hai đều từ chối ăn  năn hối cải, lặp lại “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả chuyện đó lần nữa.”

 

Sau khi phỏng vấn hậu duệ của những người tận mắt chứng kiến, Gerald Martin dựng lại một phiên bản hoàn toàn khác. “Trong chuyện này chẳng có tí gì là anh hùng cả” ông kết luận. Mẹ của Medardo là người tình bị đá của ông đại tá khoác lác, và đứa con bị xúc phạm muốn tẩy rửa danh dự của nó; Márquez (lúc này đã bốn tư tuổi) chọn “thời gian, địa điểm, và thể thức cho cuộc quyết đấu”. Ông ta đã giết Medardo một cách hèn hạ: Medardo không có vũ khí. Trong tờ Công báo của bang Magdalena tháng Mười một năm đó, mà Martin đã tra cứu, có nêu viên đại tá bị phạt tù về “tội giết người.” Sau khi ngồi tù, giống như hóa thân văn chương của mình, ông không trở về Barrancas (nơi mà ông chắc chắn đã được đối xử giống như Juan Sáyago) mà lên đường trong một chuyến du hành quan trọng đến Aracataca, với hy vọng ngành trồng chuối mới phát đạt ở đó sẽ đem lại cho ông giàu có và quên lãng.

 

Mối liên kết giữa ông và cháu – được Martin nghiên cứu tỉ mỉ – giải thích nhu cầu của người cháu tạo ra câu chuyện hư cấu độc đáo này và giữ chặt mãi nó. “Chúng tôi luôn ở bên nhau” García Márquez nhớ lại trong hồi ký của mình. Thậm chí họ còn ăn mặc giống nhau. Trong nhà “chỉ có hai người đàn ông là ông nội và tôi.” Bị tách rời khỏi cha mẹ từ tấm bé và bị vây quanh bởi một lũ “những người đàn bà ngoan đạo” – bà nội, các cô, những người hầu gái Indian – đối với tôi, ông nội là tuyệt đối an toàn. Chỉ có ông mới làm cho những hoài nghi của tôi biến mất và làm cho tôi cảm thấy đôi chân của mình vững chãi trên đất và bản thân tôi đứng vững trong cuộc đời thực.” “Bị mắc cạn trong nỗi niềm hoài cổ” của ông già rắn chắc và mù dở trong cặp kính gọng đen ấy, người ông cứ mỗi tháng lại kỷ niệm “sinh nhật” cháu một lần và khen ngợi tài năng kể chuyện sớm nở của nó và bảo nó kể lại cho ông những cốt truyện phim mỗi khi nó từ rạp về nhà, García Márquez nhìn ông nội bằng ánh mắt đa cảm đầy tôn sùng và bao dung, như nhìn một hiện thân của tình yêu và sức mạnh.  “Tôi lên tám tuổi thì ông mất…trong tôi có cái gì đó chết theo ông… từ đó không có gì là quan trọng xảy đến với tôi nữa.” Theo ý kiến của Martin, điều đó không có gì là cường điệu: “Một trong những sức đẩy mạnh nhất trong cuộc đời của García Márquez sau này là ước muốn đặt lại bản thân ông vào trong thế giới của ông nội ông” tức là thừa kế  “những hồi ức của ông cụ, triết lý sống của ông và đạo đức chính trị của ông”, một đạo đức chính trị được gói gọn trong một câu duy nhất “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả chuyện đó lần nữa.”

 

Ý thức chính trị của Gabriel García Márquez được hình thành từ sớm, khi ông bước vào lứa tuổi hai mươi, cùng với sự thôi thúc sáng tác. Nó liên quan đến miêu tả văn chương và có tính tự truyện về Công ty Liên hiệp Hoa qủa. Trong Trăm năm cô đơn cũng như trong Sống để kể chuyện Aracataca không phải chỉ là một thành phố công ty (với những đồn điền, đường sắt, trạm điện tín, cảng, bệnh viện, và các đội tàu), mà còn là quang cảnh của “tai ương trời giáng” của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ (Yankee), một sức mạnh lịch sử quyết định, mà “cảm hứng cứu thế” của nó khuấy lên những hy vọng của hàng ngàn người (trong số đó có ông bà của García Márquez) chỉ làm nhơ bẩn sông biển của cái thiên đường độc đáo này, quấy rối nếp sống thanh bình của nó, và bóc lột nhân dân của nó. Sau lưng nó, “cơn dịch” này chỉ để lại những “rác rưởi”, những “phế thải của phế thải mà nó đã mang đến cho chúng tôi.” Khởi đầu cuốn hồi ký, nhắc lại chuyến trở về cùng với mẹ thăm nơi sinh của ông ở khoảng giữa thế kỷ, García Márquez lột tả môi trường bao quanh thời thơ ấu của ông như một nạn phân biệt chủng tộc vùng Caribbe: “Thành phố riêng… bị cấm” của những người nước ngoài (Anh, Mỹ..) “Những bãi cỏ xanh buồn tẻ với những chim công và chim cút, những ngôi nhà mái ngói đỏ với những cửa sổ che rèm và những chiếc bàn tròn nhỏ với những ghế xếp để ngồi ăn, giữa những cây cọ và những khóm hồng bụi bặm… Đó là những cái nhìn thoáng qua về một thế giới biệt lập và không chắc thực, mà chúng tôi bị cấm lui tới. ”

 

Đây là những sự thật lịch sử, hay là những câu chuyện thú vị? Cái thực tại được trải nghiệm, hay cái thực tại được tái chế để kể lại? Cái động lực đằng sau công ty này không ai khác hơn là Tướng Uribe Uribe, người trước đây làm đại lý cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ New York, và một giáo sư kinh tế nhiệt thành tin tưởng vào kinh tế thị trường và vào nông nghiệp để xuất khẩu. Người chiến binh huyền thoại này cũng sở hữu một trong những đồn điền cà phê lớn nhất ở Antioquia. Martin không nhắc gì đến sự kiện này, nhưng có nhận xét rằng người bạn của Uribe Uribe là đại tá Márquez, người ông thánh thiện của nhà văn, thật ra là một trong những người đầu tiên được hưởng lợi từ hợp đồng bảo hiểm của cuộc đầu tư ngoại quốc này. Ngôi nhà xinh đẹp của ông ở Aracataca có thể không có bể bơi hay sân tennis, những có những sàn ximăng, và là một trong những ngôi nhà lớn nhất thành phố. Vì ông là người thu thuế của thành phố, “thu nhập riêng của ông Đại tá phụ thuộc vào sự thịnh vượng tài chính, sự nhiễm độc vật chất và  từ đó kéo theo tình trạng bừa bãi tình dục của những “rác rưởi” đáng khinh ấy. Chúng ta không biết Nicolás đã thực hiện bổn phận của mình tận tâm như thế nào, nhưng hệ thống này không phải là một hệ thống để lại nhiều tự do cho liêm khiết cá nhân” Martin nhận xét, ông Đại tá giám sát những cơ sở gọi là “academias” ở đó cả rượu và sex tha hồ tự do” và những “gái điếm không chắc thực” phải thông qua đó, những gái điếm tạo cảm hứng cho những câu chuyện và tiểu thuyết của người cháu ông, xuyên suốt đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Hồi ức về những cô điếm buồn của tôi.

 

Bị lôi cuốn bởi sức mạnh của câu chuyện kể “được nhớ lại” trong Trăm năm cô đơn, Martin bỏ qua mối quan hệ nhập nhằng của gia đình với Công ty Liên hiệp Hoa quả, một quan hệ vừa yêu vừa ghét, điển hình cho thái độ vùng Carribe đối với người Mỹ. Công ty này bị lên án vì nó bỏ rơi nhân dân thành phố, chứ không phải vì sự hiện diện của nó. Trong hồi ký của mình García Márquez nhận xét rằng mẹ ông, Luisa Santiaga (tên trong đời thực của nhân vật Úrsula trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng) “khao khát mê say thời hoàng kim của công ty chuối” – tức là cái thời mà bà là một cô tiểu thư giàu có, với những lớp học clavico, những lớp nhảy đầm, những lớp tiếng Anh. Và bản thân ông thú nhận rằng ông nhớ cô giáo xinh đẹp của mình trong trường Montessori và những chuyến đi mua sắm với ông nội.

 

Sự thật là công ty chuối mang theo nó không chỉ là rác rưởi. Như nhà nhân loại học Catherine C. Legrand giải thích, vùng đất này bị vây quanh bởi các vùng đất khác, là một nồi lẩu thập cẩm của chủ nghĩa thế giới và chủ nghĩa địa phương, của “vàng xanh” và thuật phù thủy, bút máy Parker, thuốc mỡ VapoRub, yến mạch Quaker, kem đánh răng Colgate, của [các loại xe] Chevrolet và Fort, của thuốc nước phù thủy và thuốc vi lượng đồng căn (giống như những loại thuốc dùng bởi Eligio, người cha đồng bóng, túng quẫn và vắng mặt của Gabito) của sách của thuyết thần bí Thập giá hoa hồng [Rosicrucianbooks] và kinh sách Công giáo, của các Hội viên Tam điểm và những người theo thuyết thần trí, của những chuyện ma quỷ và những sáng tác hiện đại, của những thợ thủ công và những tay nhà nghề, của những cư dân đã có gốc rễ nhiều thế kỷ ở vùng bờ biển này với những kẻ nhập cư từ Italy và Tây Ban Nha, Syria, và Lebanon. Bà mẹ của García Márquez chắc đã muốn cảnh “phồn vinh giả tạo” này kéo dài vĩnh viễn. Đó là lý do tại sao, theo hồi ký, khi bà trông thấy quảng trường nơi xảy ra cuộc tàn sát, bà nói với con trai: “Đây là nơi thế giới chấm dứt.” Thế giới mà bà nói đến là thế giới của bà. Thiên đường không phải là đến trước công ty. Thiên đường là cái được tạo ra khi công ty đến – một thuật giả kim nhiệt đới mà García Márquez đã tái tạo ra trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, và, đáng kể nhất là trong Trăm năm cô đơn.

 

Và sau hồi ức về apacthai là đến hồi ức về khải huyền. Năm 1928, theo yêu cầu của Liên hiệp Hoa quả, quân lính liên bang nổ súng vào đám đông công nhân biểu tình ở nhà ga Cinéaga, rất gần Aracataca nơi Gabriel García Márquez, mới sinh năm trước, sống với ông bà. Hàng trăm người bị giết. Cuộc tàn sát này – được tái hiện bằng ngoa dụ trong Trăm năm cô đơn –làm ô nhục danh tiếng của chế độ bảo thủ và sau năm 1930 mở đường cho một loạt chính phủ phóng khoáng, mà những cải cách xã hội quan trọng đụng phải chống đối của phe bảo thủ với lập trường còn phản động hơn trước. Vì các cuộc bầu cử năm 1946, đảng tự do đang nắm quyền chia làm hai phái, một phái ôn hòa, ủng hộ Gabriel Turbay, và phái kia cấp tiến hơn, hậu thuẫn Jorge Eliécer Gaitán, một lãnh tụ có tài lôi cuốn quần chúng . Trong những bài diễn thuyết đại chúng chống chủ nghĩa đế quốc của ông, Gaitán liên tục nhắc nhở đến cuộc tàn sát 1928, mà ông đã điều tra và lên tiếng phản đối ở Nghị viện. Sau đó, trong bối cảnh Hội nghị Liên Mỹ lần thứ chín họp ở Bogotá 9 tháng Tư năm 1948, Gaitán bị ám sát. Giai đoạn này được biết đến dưới tên gọi “El Bogotazo” và là điểm xuất phát cho một thập kỷ bạo lực xã hội và chính trị được biết đến như “La violencia.” Chàng sinh viên luật Gabriel García Márquez đã sống tấn thảm kịch gần kề. Nó là cái “Damascus chính trị” của ông - như với Fidel Castro, cũng có mặt ở Bogota vào thời gian đó. Nó khích động lòng căm thù chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ và làm thức dậy những đồng cảm với chủ nghĩa cộng sản của ông.

 

Ngoài những tái tạo có tính văn học và tự truyện – tôn vinh ngài đại tá và biến công ty chuối thành quỷ dữ – trong ý thức chính trị của nhà văn trẻ đã hình thành nỗi nghi ngờ đối với các giá trị dân chủ đại nghị và cộng hòa. Martin hình như cũng chia sẻ điều này: “Colombia là một đất nước kỳ quặc trong đó hai đảng lớn có vẻ đã từng là kẻ thù quyết liệt trong gần hai trăm năm thế mà nay đã ngầm liên kết lại để đảm bảo nhân dân không bao giờ có quyền có đại diện thật sự của mình.” Ý tưởng về Colombia như một nước cộng hòa giả cũng là một sự tái hiện không phù hợp với thực tế. Ngay từ những thập kỷ đầu thế kỷ mười chín nhân dân tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhất ở Colombia đã được tập dượt chính trị quốc gia, tham gia vào những cuộc bầu cử sạch và có tính cạnh tranh, với sự phân ly quyền lực thật sự, và được hưởng – ít nhất trong thế kỷ hai mươi – một số quyền tự do đáng kể. Ngoại trừ giai đoạn hải quân của Tướng Gustavo Rojas Pinilla những năm 1950, người dân Colombia chưa bao giờ để xảy ra những cuộc đảo chính hay các nền độc tài. Cõ lẽ không phải là cường điệu khi nói rằng không có nước nào khác trong khu vực này đã thử nghiệm dân chủ kiên trì hơn (ngay cả Chile, Uruguay, Costa Rica, hay Venezuela trong nửa cuối thế kỷ hai mươi cũng không, cho đến khi Chávez lên cầm quyền).

 

Tuy nhiên bạo lực dường như là bản chất thứ hai ở Colombia. Lý do chính cho bạo lực này là sự bất hòa giữa phe phóng khoáng và phe bảo thủ – một cuộc tranh cãi về các giá trị chính trị, kinh tế, xã hội, và tôn giáo đã có từ thế kỷ mười chín ở châu Mỹ Latin. Mặc dầu các xu hướng cộng hòa và dân sự của nó, Colombia không tìm được một công thức cho ổn định, và kéo lê cuộc xung đột chính trị văn hóa chỉ đem lại tàn phá cho cả hai bên đến kiệt quệ. Ở Colombia, các truyền thống chính quy và pháp định của các nhà ngữ pháp ngự trị bị lật đổ hết lần này đến lần khác bởi lệnh động viên. Tổng thống Rafael Nuñez cuối thế kỷ mười chín đã tuyên bố “Ở Colombia, chúng ta đã thể chế hóa tình trạng vô chính phủ.”

 

Sự thiểu năng của hòa bình được bộc lộ một lần nữa ở “Bogotazo” năm 1948, đã gieo vào chàng García Márquez trẻ tuổi một ý thức sắt đá về sự vô ích của các ý thức hệ tự do và thủ cựu. Giống như Đại tá Aureliano Buendía, ông đi đến chỗ tin rằng “điều khác nhau duy nhất giữa những người phóng khoáng và những người bảo thủ là những người phóng khoáng thì dự lễ mixa lúc năm giờ còn những người bảo thủ thì dự lễ mixa lúc tám giờ.” Ông đồng tình với tuyên bố nổi tiếng của Simón Bolívar rằng “Tôi tin từ trong xương tủy của mình rằng chỉ có một chế độ chuyên quyền có năng lực là có thể cai trị được ở châu Mỹ.” Một bạo chúa tài năng, một trưởng lão tốt bụng, một Uribe Uribe mới và chống đế quốc: có lẽ đã trở thành lý tưởng của Gabito. Để tìm ra nó, ông đã lên đường đi một hành trình dài và khó khăn. Và thay vì đại bác, công cụ của ông là ngôn từ, đúng như ông nội của ông đã muốn.

 



II.


Gabriel García Márquez: Một cuộc đời là một cuốn tự truyện được ủy quyền, phiên bản chính thức của saga chính trị và văn chương của nhà văn. Cuốn sách được chia thành ba phần. Phần đầu  tập trung vào Colombia từ 1899 đến 1955, chồng lấn ở một mức độ nhất định với Sống để kể chuyện, nhưng nó làm tươi mát lịch sử gia đình bằng một thông tin mới, và phác họa từng thành viên trong cái gia đình mở rộng trong ngôi nhà ở Aracataca, và tái hiện chi tiết về đời sống sinh viên ở ngôi trường có uy tín ở San José. Nó gợi lại một ít niềm vui và nhiều nỗi buồn của gia đình García Márquez, giàu lên và nghèo đi mỗi năm bởi những anh chị em mới ra đời. Trên hết, nó miêu tả sự thăng trầm của chàng trai không xu dính túi ở những thành phố kế tiếp nhau (Cartagena, Barranquilla, Bogotá) có các bạn bè là nhà báo và các ông thầy văn chương vây quanh, say sưa dấn thân theo đuổi sự nghiệp văn chương, bằng cách đi bán những bộ sách bách khoa hay soạn những vở kịch rẻ tiền cho đài phát thanh.

 

Lạ thay, Martin hoàn toàn bỏ qua cái bối cảnh văn hóa trong đó García Márquez đã lớn lên – nét cởi mở và hạnh phúc đặc trưng của dân Caribbe, với chủ nghĩa phóng khoáng lạ thường của nó, thú ham khoái lạc hội hè của nó, sự sùng bái thơ ca và tình yêu âm nhạc của nó, cái xu hướng thích đùa bỡn quá trớn, ma thuật đen, và chết dễ dàng. Ông hơi cường điệu sự phong phú và phức tạp trong giáo dục văn chương của García Márquez, hình như chỉ giới hạn trong Darío và thời hoàng kim Tây Ban Nha, rất nhiều Faulkner và Hemingway, đôi chút Kafka, hầu như không có gì về Freud “bê bối”, thậm chí còn ít hơn về Mann “ngoắt nghéo”. Và Martin hầu như không đả động gì tới mảng báo chí rộng lớn của García Márquez.

 

Mặc dầu có rất ít thư từ hay tài liệu gốc từ các hồ sơ lưu trữ công hay tư được nêu trong sách của ông, Martin – được cánh García Márquez biết đến dưới tên “Tiso Jeral”, như ông nói trong đoạn mở đầu – bỏ ra mười bảy năm phỏng vấn hơn năm trăm người: các thành viên gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, biên tập viên, người viết tiểu sử, người viết tiểu sử thánh, và các viện sĩ (phần lớn họ nghiêng về yêu thích nhà văn). Những chứng thực này sống động và đôi khi mơ hồ. Một số người từ chối mô tả trực tiếp, như bản mô tả của người bạn ‘toàn thời gian’ của García Márquez, nhà trí thức và ngoại giao Plinio Apuleyo Mendoza, khẳng định cảnh nghèo nàn thê thảm của nhà văn trẻ – nhưng phải chăng ông đã thật sự ở trong một căn phòng chỉ có mười foot vuông? Phải chăng ông đã thật sự quen với việc “không đếm xỉa gì đến các nhu cầu cơ thể của riêng mình”? Và, ở nơi nào khác có phải ông thật sự ngủ với vợ của một quân nhân, người bắt quả tang ông tại trận, đã tha thứ cho ông vì nhớ tới ơn của người cha ‘vi lượng  đồng căn’ của ông? Có phải ông viết “Bão Lá“, tiểu thuyết đầu tay của ông về Macondo có cảm hứng từ chuyến đi cùng với mẹ đến Aracataca? Và chuyến đi này – như Martin gợi ý trong một chú thích, giống một cách đáng ngạc nhiên với chuyến đi ở đầu cuốn Pedro Páramo,  cuốn tiểu thuyết của Juan Rulfo này là chìa khóa trong việc xác định giọng cho cuốn Trăm năm cô đơn – thật sự diễn ra là vào 1950, và nó có ý nghĩa quyết định đối với tác phẩm của ông như được nêu trong hồi ký của ông không? Một bức thư không được Martin nhắc đến, ghi tháng Ba năm 1952 và công bố trong Textos costeños (Tập bài báo đầu tiên của García Márquez) dường như khẳng định ngược lại:

 

Tôi vừa mới từ Aracataca trở về. Nó vẫn còn là một ngôi làng bụi bặm, đầy im lặng và chết chóc. Không khí bất an hầu như tràn ngập, với những ông đại tá già ngắc ngoải trong sân nhà dưới bóng những cây chuối to lớn, và một số lượng đáng kinh ngạc các cô gái già đồng trinh ở tuổi sáu mươi, cau có toát ra những dấu vết cuối cùng của giới tính, uể oải thờ thẫn vào lúc hai giờ chiều. Lần này tôi tình cờ đến đây, nhưng tôi không nghĩ tôi sẽ quay lại đây một mình, nhất là sau khi Bão Lá ra mắt và các ông đại tá già quyết định rút súng chơi một cuộc nội chiến cá nhân đánh lại tôi.

 

Phần thứ hai của Martin dõi theo nhân vật chính từ những cuộc lang thang ở châu Âu và thời gian ở Paris từ 1955-1957 qua cuộc hôn nhân của ông với Mercedes Barcha năm 1958 – người tình đanh đá và nhẫn nại thời thanh niên của ông – và cuộc phiêu lưu của ông sang New York với tư cách là phóng viên tờ Prensa Latina, hãng tin Cuba được thành lập sau khi Fidel Castro thắng lợi, cho đến năm 1961, khi ông định cư lâu dài ở Mexico, một đất nước hiếu khách (may mắn thay lại độc tài, chống đế quốc, và có kỷ cương, ít nhất vào thời gian ấy). Ở đó hai con trai của ông, Rodrigo và Gonzalo được sinh ra, và ở đó lần đầu tiên ông sống một cuộc sống tươm tất và chắc chắn với hai hãng quảng cáo Mỹ (J. Walter Thompson và McCann Erickson)  và lãnh đạo thành công hai tạp chí thương mại (La familiaSucesos para todos). Ông còn thử vận may của mình trong ngành điện ảnh và xuất bản Ngài Đại tá chờ thư. Ở Mexico ông nối lại các tình bạn cũ (đặc biệt với Álvaro Mutis) và kết nhiều bạn mới, không kém phóng khoáng và bền lâu (chẳng hạn, với Carlos Fuentes) mua nhà riêng và xe hơi, xin cho các con vào trường Mỹ, bị quấy nhiễu bởi đám nhà văn, sợ thành nạn nhân của “hoàn cảnh tốt” và cuối cùng, vào năm 1967, ở tuổi bốn mươi làm ngạc nhiên các thế hệ bạn đọc bằng việc cho ra đời Trăm năm cô đơn.

 

“Mỗi người có ba cuộc đời: đời công, đời tư, và một cuộc đời bí mật” García Márquez cảnh báo người viết tiểu sử ông như vậy. Ngoài những tiết lộ đáng kể về ông nội nhà văn, sách của Martin chỉ làm sáng tỏ một giai đoạn duy nhất trong “cuộc đời bí mật” của García Márquez: mối quan hệ ở Paris – trước cuộc hôn nhân của ông, tất nhiên – với một nữ diễn viên Tây Ban Nha đầy tham vọng. Mãnh liệt và kém may mắn, cuộc tình này quan trọng không chỉ ở bản thân nó, mà còn là nguồn cảm hứng cho Ngài Đại tá chờ thư, và truyện ngắn “Vết máu em trên tuyết”. Nhưng những khía cạnh khác trong “cuộc đời bí mật” của ông vẫn còn nằm trong bóng tối. Tại sao bỗng dưng ông cắt đứt quan hệ với Prensa Latina? Chỉ có hồ sơ lưu của Cuba, nếu có khi nào họ mở nó, là có thể rọi ánh sáng lên chuyện này. Cái gì là uẩn khúc trong việc trao đổi thư từ lâu dài với Mercedes? Không thể biết được: hai bên đều tuyên bố họ đã đốt tất cả thư từ rồi. Các mối quan hệ với các bạn văn của ông đã tiến triển ra sao? Ngoại trừ những thư từ trao đổi với Plinio Apuleyo Mendoza và một vài tác giả khác, các hồ sơ văn học hiện có đã không được Martin tra cứu. Cách nói của người Âu về “đời tư” của nhà văn phóng túng này, người thích ca hát nhảy múa, có chứa nhiều giai thoại mủi lòng. Có thật ông đã phải “đi lượm vỏ chai và báo cũ và có ngày đã phải xin ăn ở Metro”? Sự thật, như Plinio Apuleyo Mendoza chỉ ra, là Gacía Márquez dường như hoàn toàn không quan tâm gì đến những trải nghiệm ở châu Âu. Ông sống cách biệt, chìm ngập trong những dự án riêng của mình. Theo Martin, “thật đáng ngạc nhiên ông đã quan sát được Đông và Tây Âu nhiều đến thế,” nhưng bản thân Gacía Márquez đính chính lại Martin: “Tôi chỉ trôi giạt có hai năm, và tôi chỉ chăm chú vào các cảm xúc của mình, vào thế giới nội tâm của tôi thôi.”

 

Nói về “đời công” Martin có bao gồm cả  Gacía Márquez-nhà báo –thời ấy là phóng viên ngôi sao của tờ báo Colombia El Espectador–khi ông làm một hành trình qua Đông Đức, Ba lan, Hungary, và Liên xô. Chẳng hạn, ông nhận xét về say mê kỳ lạ của nhà văn với xác ướp Stalin: “Không gì gây ấn tượng cho tôi mạnh hơn đôi bàn tay thanh nhã của ông, với những móng tay mỏng trong suốt. Đó là một đôi bàn tay phụ nữ.” Ông không giống chút nào với “tích cách nhẫn tâm mà Nikita Khruschev tố cáo trong trong một bài diễn văn cường điệu khủng khiếp.” Martin cũng ghi lại niềm “say sưa” của Gacía Márquez đối với sự gần gũi về thể xác của János Kádár, người đã đàn áp cuộc nổi dậy Hungary, mà ông ra sức biện hộ cho hành động của ông ta. Biết vụ hành hình lãnh tụ cuộc nổi dậy Imre Nagy, Gacía Márquez phê phán hành động ấy không phải về phương diện đạo đức, mà như “một sai lầm chính trị”. “Có lẽ chúng ta không nên ngạc nhiên” Martin nói, trong một lần phê phán thẳng thừng “rằng người viết điều này vào lúc đó rõ ràng đã tin rằng có những người “đúng” và người “sai” trong những tình huống đặc biệt, và hoàn toàn máu-lạnh đặt chính trị lên trước đạo đức, rốt cuộc bất chấp mọi trở ngại đã ủng hộ một lãnh tụ “không thể thay thế được” như Castro”

 

 

Những trang dành riêng về việc viết Trăm năm cô đơn thật sự hứng thú, nhưng hình như kết luận của Martin đã nói quá. Ông gọi cuốn tiểu thuyết là một tác phẩm – một tấm gương – trong đó lục địa của ông nói chung nhận ra chính mình, và như vậy tìm được một truyền thống. Nếu như Borges là người thiết kế ra kính ngắm (giống như một người anh em Lumière đến chậm) thì chính García Márquez là người đem đến một bức ảnh chân dung tập thể đầu tiên thật sự tuyệt vời. Như vậy châu Mỹ Latin không chỉ tự nhận ra mình mà bây giờ còn được công nhận ở khắp nơi, một cách phổ biến.

 

Vào thời gian đó, tất cả chúng ta đã đọc cuốn sách phi thường đó với một nhiệt tình thật sự đã khiến nó được coi như một loại kinh thánh (như Fuentes xác nhận), hay ít nhất một “Amadis châu Mỹ” (câu của Vargas Llosa); nhưng sự thật là cái thế giới của García Márquez không thể được gọi là tấm gương của cả châu Mỹ Latin. Ít nhất có hai yếu tố cơ bản bị bỏ sót từ mô tả hư cấu của ông: tầm cỡ bản địa và tín ngưỡng Công giáo.

 

Dù sao nó vẫn là tấm gương lạ thường của vùng Caribbe, không phải là chuyện nhỏ. Tuy nhiên không phải mọi ý kiến đều nhất trí ca tụng. Borges bình luận rằng Trăm năm cô đơn thì hay, nhưng giá nó rút ngắn đi hai mươi hay ba mươi năm thì hay hơn. Và phê phán của Octavio Paz còn gay gắt hơn: “Văn của Gacía Márquez về bản chất có tính hàn lâm, một kết hợp giữa văn báo chí và tưởng tượng. Chất thơ pha loãng. Ông là sự chắp nối hai dòng ở Mỹ Latin: sử thi thôn dã và tiểu thuyết quái dị. Ông không phải không có tài, nhưng ông là người pha loãng.” Martin thường muốn bỏ qua những phê bình văn học này, và lờ đi những phê bình (của Guillermo Cabrera Infante, và sau này của Vargas Llosa) về chủ nghĩa Castro của Gacía Márquez, coi nó như thành kiến ý thức hệ và đố kỵ tối tăm đối với tác giả cuốn tiểu thuyết mà, theo Martin, “là cái trục của văn học Mỹ Latin thế kỷ hai mươi, cuốn tiểu thuyết duy nhất không thể tranh cãi của lục địa này, có ý nghĩa lịch sử thế giới và tầm kinh điển thế giới”

 

Thật ra bắt đầu phần ba của cuốn sách, “Danh tiếng và Chính trị: 1967-2005,” Martin đã đánh mất khoảng cách của mình. Mặc dầu ông tiếp tục đưa ra những miêu tả sinh động về những hoàn cảnh trong đó cuốn tiểu thuyết được sáng tác – nỗi ám ảnh cũ về quyền lực kết tinh trong Mùa thu của trưởng lão, ký ức về một sự kiện có thực được Mercedes chứng kiến ở Sincé trong Ký sự về một cái chết đã được báo trước, cảnh điền viên của cha mẹ ông trong Tình yêu thời Thổ tả - Martin bám sát bản thảo chính thức của Gacía Márquez. Cuốn sách bắt đầu giống như một cột báo lớn lượm lặt những chuyện vụn vặt. “Đời tư” nhường chỗ cho “đời công”: hết trang này sang trang khác dồn dập những bữa ăn trưa, ăn tối, những tiệc tùng, phỏng vấn, những câu đùa, những chuyến đi, những khách sạn nhà hàng, những buổi xem hát và tiệc sinh nhật, tiệc Giáng sinh, những dạ hội lãng tử; một cuộc phô diễn những ông vua ông hoàng, những tổng thống, những diễn viên nam nữ, những nhà văn, những thành viên văn nghệ tiền phong. Mười trang Hello! xứng đáng dành cho lễ trao giải Nobel. Thậm chí những người hâm mộ nhiệt thành nhất của Gabo cũng phát chán khi đọc những đoạn mô tả dài dòng việc ông tiến bước lên ghế danh dự, mà Martin trong đoạn kết đã kêu lên: “Bất tử: một Cervantes mới.” Gacía Márquez tuyên bố đã nổi lên từ cái mê cung này bằng cách dùng danh tiếng của mình phục vụ cho một sự nghiệp cao quý hơn. Đó là Cách mạng Cuba.

 

 

III.

 

Khởi đầu là miêu tả về quyền lực: trong những truyện ngắn, trong Trăm năm cô đơn (với những ông đại tá già, cô đơn và chán nản, “đã hết thời vinh quang và không còn luyến tiếc vinh quang nữa”) và cuối cùng, năm 1975, trong Mùa thu của trưởng lão, một trong số sách được García Márquez ưa thích nhất, mà theo lời của chính nhà văn, là một lời thú tội. Martin hiểu ông qua chính lời của ông. Người trưởng lão đầy tham vọng, dâm dật, đáng tởm, tàn nhẫn, cô độc – trên hết là cô độc – là chính bản thân García Márquez, “một nhà văn rất nổi tiếng cực kỳ khó chịu với tiếng tăm của mình” và trút gánh nặng qua một cuốn tự truyện trong đó tinh thần chủ đạo là một cố gắng đạo đức vươn tới “tự phê bình.”

 

Mùa thu của trưởng lão không phải cuốn tiểu thuyết đầu tiên về những nhà độc tài cuồng nhiệt viết bằng tiếng Tây ban Nha trong thế kỷ hai mươi. Còn có Bạo chúa Banderas (1926) của nhà văn Tây Ban Nha Ramón del Valle-Inclán, và Ngài Tổng thống (1946), của nhà văn Guatemala Miguel Ángel Asturias (đoạt giải Nobel Văn học 1967). Đầu năm 1968, theo lời nhà văn Guatemala Augusto Monterroso, một số nhà văn Mỹ Latin, Monterroso nêu tên Fuentes, Vargas Llosa, Cortázar, Donoso, Roa Bastos, Alejo Carpentier, nhưng không có Gabriel García Márquez – soạn thảo một kế hoạch xuất bản các sách về các nhà độc tài của đất nước họ. Kế hoạch này đã không được thực hiện. “Tôi sợ rốt cuộc tôi sẽ ‘thông cảm’ và ‘thương hại’ ông ta”, Monterroso biện luận, chắc ông đã nhận được nhiệm vụ khắc nghiệt là miêu tả chân dung Somoza.

 

Trên bối cảnh ấy, có lẽ García Márquez đã đảm nhận viết cuốn tiểu thuyết của ông về nhà độc tài trong tinh thần đua tranh hơn là sám hối. Ông đã mất nhiều năm trăn trở nó trong đầu, và ông đã soạn ra những bản thảo mở rộng. Ông đã “dạy” Asturias và những người khác “viết một cuốn tiểu thuyết thật sự về nhà độc tài phải như thế nào.” Và nếu Mùa thu của trưởng lão chứng tỏ điều gì, thì đó là chủ đề bạo ngược chuyên chế rất thích hợp với những yêu cầu biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

 

Tính thô bạo và độc đoán của nhà độc tài, cách ông ta sử dụng quyền lực như một hình thức thể hiện cá nhân, sự đam mê phóng đãng với sức mạnh của riêng mình, là những biến thể tự nhiên thuộc bản chất của cái thực huyền ảo. Trưởng lão “chỉ biết cách thể hiện những mong mỏi tha thiết nhất của ông qua những biểu tượng thấy được của quyền lực khổng lồ của ông.” Ông khao khát làm một nhà pháp thuật của lịch sử thậm chí của vũ trụ, làm thay đổi các lực lượng của thiên nhiên và dòng chảy thời gian, bẻ cong bóp méo thực tại.” Cách nào đó hình tượng trưởng lão của García Márquez làm ta nhớ đến Caligula của Camus: “Nhìn thấy con người tự do duy nhất ấy trong toàn đế quốc La mã. Sung sướng chưa: cuối cùng một vị hoàng đế đã đến để dạy tự do cho họ…Tôi sống, giết, nắm quyền lực mê ly của kẻ phá hoại, bên cạnh nó quyền lực của đấng sáng tạo dường như chỉ là một bức biếm họa.”

 

Những sự quá đáng này làm thành một phần của thực tại, và ký ức, của nhiều đất nước. Nhà văn Venezuela đáng kính Alejandro Rossi biết điều gì đó về “sự mô tả bằng hình tượng được thừa kế” này. Viết năm 1975 và không có xu hướng hiện thực huyền ảo dưới dạng “tươi trẻ và mãnh liệt” nhất của nó, như đôi khi nó tự tuyên bố trong Mùa thu của trưởng lão, Rossi khen ngợi “những hình ảnh khắc họa một cách điêu luyện, đẹp đẽ và mãnh liệt,” “tính phức tạp và nghệ thuật” của thứ văn xuôi này và “những nhịp điệu thường là hoàn hảo” của tác phẩm, nhưng ông phản đối cái căn bản của nó:

 

Sự phối hợp của quá nhiều yếu tố quen thuộc biến cuốn sách thành một bài tập thông minh xuất sắc tuy nhiên nó không làm thay đổi quan niệm lịch sử và tâm lý của chúng ta về nền độc tài. Mùa thu của trưởng lão khảo sát về mặt thẩm mỹ một cái nhìn đã sờn mòn và cũ nát của chính chúng ta. Những thành tựu về văn phong điêu luyện và không thể hồ nghi của García Márquez hầu như chưa bao giờ cải biến được cái bản chất ngầm vẫn còn chôn dấu bên dưới cuốn tiểu thuyết, mà bất kể sự sắc sảo văn chương nào cũng không chạm đến được. Theo nghĩa đó nó là một cuốn sách Baroque, một cái lưới văn chương kín mít đôi khi – cho dù bằng những phương sách hoàn hảo – bóp nghẹt chủ đề chính của câu chuyện kể.

 

Cốt truyện  của cuốn tiểu thuyết là một ghi chép về chủ quan của bạo chúa: nỗi niềm hoài cổ của ông ta, những nỗi sợ hãi, các tình cảm của ông ta. Và sự đơn giản của thế giới nội tâm của ông ta là một sự xúc phạm về mặt đạo đức: họa hoằn lắm độc giả mới gặp những suy nghĩ về bổn phận và những thế tiến thoái lưỡng nan của quyền lực, hay ngẫm nghĩ về cái ác, sự đê tiện hay lời nhạo báng cay độc, nhưng hầu như không có dấu vết của một cuộc khủng hoảng lương tâm. Chỗ cao nhất trong lương tâm của nhà độc tài là dành riêng cho những nỗi đau riêng của ông ta: những hy sinh của ông ta cho người mẹ, ký sự về thói dâm dục và “những mối tình không được đền đáp” của ông ta. Có vẻ như nhà độc tài hầu như không có cuộc đời xã hội, mà chỉ có những đam mê riêng tư. Theo cách đó nhân vật lịch sử này được miễn trừ một cách kỳ lạ khỏi lịch sử. Ngược lại, những nhân vật vây quanh ông ta không có không gian riêng cho mình, mọi thứ họ nghĩ, nói, và làm là thuộc về đời sống xã hội, bởi vì nó xoay quanh nhà độc tài. Trong một câu chuyện mà cái trục chính là nhân vật tôi một nhà độc tài mơ mộng và đa cảm, mọi thứ khác thu nhỏ lại thành một sân khấu trên đó tôi tự bộc lộ. Các nạn nhân là những đạo cụ sân khấu.

 

Nếu García Márquez miêu tả nhà độc tài, thì không đến mức phơi bày và phân tích nội tâm phức tạp của một chính khách, mà chỉ khơi gợi tình thương đối với nỗi buồn, nỗi cô đơn của một ông già. Nhà độc tài là nạn nhân của nhà thờ, nước Mỹ, sự thiếu tình yêu, các kẻ thù, những cộng sự, cảnh mồ côi của ông ta, thiên tai, sức khỏe kém, sự ngu dốt cổ lỗ, vận rủi. Sau khi ông ta hãm hiếp một phụ nữ, chị ta an ủi ông. Còn có cả một nhà an dưỡng dành cho các nhà độc tài bị thất sủng, tại đó họ dùng những buổi chiều ở nơi lưu vong để chơi đôminô. Nỗi nhớ quê hương đảm bảo cho họ được miễn tố. Cuốn tiểu thuyết bằng một cách hoa mỹ và đa cảm làm mờ đi cái thực tại của quyền lực, và biến nền chuyên chính thành một vở cải lương. Nó lấy đi nhân tính của nạn nhân và trả lại nhân tính cho kẻ độc tài.

 

Trong Mùa thu của trưởng lão, chính cái mạch văn của nó, một dòng chảy ào ạt không thể kiềm chế lại được cuốn qua các thời đại, các lục địa, các nhân vật, bản thân câu chuyện kể trở thành độc đoán.

 

Cuốn tiểu thuyết bắt đầu bằng một đoạn văn dài tám mươi bảy trang, đôi khi dày vò bạn đọc một cách ngọt ngào, mà García Márquez đã biện hộ bằng cách nói rằng “nó là thứ đồ xa xỉ mà tác giả Trăm năm cô đơn có thể cho phép mình xài” Trong cuốn sách này chỉ có chỗ cho ý thức của nhà độc tài. Mọi chuyện xảy ra qua, cho, và trong nhận thức của trưởng lão. Ông ta là người kể chuyện biết hết mọi thứ, là tác giả của một đất nước. Các ý thức khác chỉ là thứ yếu, phái sinh và không tồn tại. “Hiến mình cho niềm hoan lạc cứu thế của tư duy cho chúng ta…ông là người duy nhất biết được kích cỡ thật của số phận chúng ta,”  García Márquez viết, và “cuối cùng, chúng ta không thể nào hình dung chúng ta có thể sẽ là gì nếu không có ông.” “Riêng mình ông là dân tộc”– và là cuốn tiểu thuyết.

 

Cuốn sách này về nhiều mặt khác với Ngài Tổng thống, một cuốn tiểuthuyết-thơ có hơi hướng siêu thực, chính trị, cách mạng; nhưng có lẽ chỗ khác nhau chủ yếu là ở sách của Asturias người ta không chỉ nghe có một giọng bạo chúa. Người ta còn nghe thấy cả giọng nói của “nhân dân đường phố.” Các quan chức dân sự và quân sự nói trong giận dữ và trong tự phê bình, trong khi người dân có cuộc sống đang diễn tiến của họ. Trong tiểu thuyết của Asturias những giọng nói của họ được kính trọng, và những trải nghiệm nhà tù và tra tấn được miêu tả. Khi phơi bày sự lạm dụng, tham nhũng và tính thất thường của chính quyền, giọng điệu của nó không chỉ là phê phán dứt khoát rành mạch không lập lờ, mà còn khinh bỉ. Không có miễn trừ. Trong Mùa thu của trưởng lão, ngược lại, các nạn nhân là một phần của phông màn sân khấu. Họ không bao giờ là những người tham gia tích cực vào câu chuyện.

 

“Khía cạnh chính trị của cuốn sách này phức tạp hơn rất nhiều so với vẻ ngoài của nó, và tôi không định giải thích nó.” García Márquez tuyên bố khi kết thúc cuốn tiểu thuyết. Martin chắc chắn đã sẵn sàng giải mã nó: “nhà văn cô đơn” (đừng để ý đến cái danh sách vô tận các bạn bè nổi tiếng của ông) đã nhìn thấy mặt của chính mình trong tấm gương và “quyết định sẽ sống tốt hơn và làm tốt hơn, khi lúc này số phận đã cho ông nhìn thấy sự thật.” Việc nâng cao đạo đức này nằm ở chỗ dùng danh tiếng của ông để phục vụ cho một sự nghiệp – Cách mạng Cuba – dẫn đầu bởi một người, thật ngược đời, sẽ mang một nét giống người trong gương. “Theo cái chủ nghĩa khuyển nho cực kỳ tàn nhẫn về con người, quyền lực và của cải này” Martin viết, “chúng tôi thấy bản thân mình bị buộc phải coi rằng quyền lực có đó là để được sử dụng và ‘một ai đó phải làm điều này.’” Dựa trên quan điểm lịch sử “Machiavenlli” này – tính từ này, cũng như logic, là của Martin – nhà viết tiểu sử tin rằng ông đã hiểu tại sao García Márquez thẳng tiến .. đi tìm quan hệ với Fidel Castro, một nhà giải phóng xã hội chủ nghĩa, người hóa ra là nhà chính khách Mỹ Latin có tiềm năng trở thành gương mặt lâu bền nhất và thân yêu nhất trong số các nhà độc tài trên toàn châu lục”

 

Một nhà độc tài là một nhân vật quyền uy, tôi nghĩ thế, nhưng là nhân vật rất kỳ quặc. Có lẽ Mùa thu của trưởng lão thể hiện câu thần chú cuối cùng của câu chuyện về người ông của nhà văn, trong đó từ “bạo chúa” được tế nhị làm dịu đi thành “trưởng lão”. Vị trưởng lão đọc cho viết chính tả toàn bộ tiểu thuyết, không có dấu chấm dấu phảy hay để cho ai kịp thở, trừ ông. Đó là cuốn tiểu thuyết trong đó bóng ma của Medardo Pacheco, kẻ nạn-nhân đạo-cụ ấy với người mẹ bị [tình nhân] đá, và người vợ với hai đứa con ma, sẽ vĩnh viễn biến mất. Tiếng nói của anh ta bị buộc phải câm lặng, không nghe được ở đâu nữa. Và sau khi mô tả vị trưởng lão trong văn học, thì đến lúc đi tìm ông ấy trong đời thực. Martin khẳng định điều này: chính “Fidel Castro, con người duy nhất, nhân vật người ông của ông, là người mà ông không thể, không dám, thậm chí không hề muốn thắng.” Từ Macondo đến Havana: một phép lạ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

 

Mặc dầu một trong những lời khuyên với tư cách phóng viên của García Márquez là “đầu độc người đọc bằng uy tín và nhịp độ”, trong mảng báo chí rộng lớn của mình ông đã không thực hành chủ nghĩa hiện thực huyền ảo nhiều bằng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bằng tiếng Tây Ban Nha những bài báo của ông chất đầy không dưới tám tập dày, từ 1948 đến 1991. Chúng chưa được dịch ra tiếng Anh, và Martin mới chỉ đọc lướt qua. Điều này thật đáng tiếc, nếu ta xét đến việc tập tiểu sử này ban đầu chỉ nói với một công chúng nói tiếng Anh. Những loạt bài báo đầu tiên của García Márquez là quan trọng vì nó cho ta một ý niệm mơ hồ về những bí mật của những “bài tập cơ bản” của ông, của “nghề mộc văn chương” của ông. Loạt thứ hai (1955-1957) bao gồm những phóng sự từ châu Âu và Hoa kỳ, có nội dung chính trị nhiều hơn và được nhà viết tiểu sử chú ý hơn một chút. Nhưng những bài báo chính trị then chốt, viết trong khoảng từ 1974 đến 1995, tập hợp trong Por la libreNotas de prensa – một nghìn trang tất cả – được coi là chỉ xứng đáng với những bình luận tối thiểu, hầu hết là ngưỡng mộ. Và điều này thật tai hại.

 

Ba loạt bài mà Martin coi là đáng ghi nhớ, nhưng không phê bình, được viết bởi García Márquez sau thời gian dài lưu trú ở Cuba năm 1975 và nhan đề “Cuba từ đầu này đến đầu kia” (Cuba de cabo a rabo). Chúng được xuất bản vào tháng Tám/tháng Chín năm đó bởi tạp chí Alternativa, do García Márquez lập ra năm 1974 ở Bogotá. Và chắc chắn là chúng đáng nhớ! Chúng công khai thừa nhận một niềm tin tuyệt đối vào Cách mạng như được hiện thân trong hình tượng anh hùng của Tư lệnh (mà đến lúc này García Márquez chưa được gặp): “Mọi người Cuba hình như nghĩ rằng nếu một ngày nào đó không còn ai ở lại trên đất Cuba, thì một mình anh ta, dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro, sẽ tiến hành cuộc cách mạng, đưa nó đến một kết cục hạnh phúc. Đối với tôi, nói thẳng ra, hiện thực này là kinh nghiệm phấn khích nhất và quan trọng nhất mà tôi từng có.”

 

Quả đúng vậy, đến mức mà trong ba mươi tư năm hỗn loạn ấy García Márquez chưa từng công khai tách mình khỏi cái nhìn thiên khải ấy. Ông đã thấy những gì mà mọi người đều có thể thấy? Những thành tựu xác thực trong y tế và giáo dục, mặc dầu ông không tự hỏi có nhất thiết phải duy trì một chế độ toàn trị để đạt được những mục tiêu xã hội ấy không. Và điều gì ông đã không nhìn thấy? Sự hiện diện của Liên xô, ngoài vai trò người cung cấp dầu lửa hào phóng? Và ông đã nói ông không nhìn thấy những gì? “Những đặc quyền đặc lợi cá nhân” (mặc dầu gia đình Castro đã chiếm quyền sở hữu hòn đảo này như thái ấp của riêng họ) và “sự đàn áp của cảnh sát và sự phân biệt đối xử đủ mọi kiểu” (mặc dầu từ năm 1965 đã tồn tại những trại tập trung cho những người đồng tính, những tín đồ tôn giáo, và những người bất đồng chính kiến – chúng được gọi một cách hoa mỹ là: Các Đơn vị Quân đội Hỗ trợ Sản xuất, hay UMAP).

Tóm lại, những gì mà ông nhìn thấy là những gì mà ông muốn nhìn: năm triệu dân Cuba thuộc về các Ủy ban Bảo vệ Cách mạng, không phải như những gián điệp và những người bị cưỡng bách của Cách mạng, mà là “lực lượng thật sự” đông vô kể những người hạnh phúc, tự nguyện, hay, nói trắng ra, bằng những lời lẽ ớn lạnh của chính Castro, được García Márquez trích dẫn một cách ngưỡng mộ - “một hệ thống cảnh giác cách mạng tập thể đảm bảo mọi người biết người ở nhà bên cạnh là ai và làm gì” Ông thấy “nhiều mặt hàng thực phẩm và hàng công nghệ được bày bán tự do trong các cửa hàng” và ông tiên tri rằng “năm 1980 Cuba sẽ là nước phát triển đầu tiên ở châu Mỹ Latin.” Ông thấy “những trường học cho mọi người” và những tiệm ăn “tốt như những tiệm tốt nhất ở châu Âu.” Ông thấy “sự thiết lập chính quyền nhân dân thông qua phổ thông đầu phiếu bằng những cuộc bỏ phiếu kín từ lứa tuổi mười sáu.” Ông thấy một cụ già chín mươi tư tuổi mải mê đọc sách “chửi rủa chủ nghĩa tư bản về tất cả những cuốn sách mà ông chưa đọc.”

Hơn hết cả, ông thấy Fidel. Ông thấy “cái hệ thống liên lạc gần như bằng ngoại cảm” mà ông đã thiết lập với nhân dân. “Cái nhìn chăm chú bộc lộ một tính dịu dàng kín đáo của trái tim như trẻ thơ trong ông.” “Ông đã sống bình an vượt qua sự gặm mòn khắc nghiệt và quái ác của quyền lực hàng ngày, của những nỗi buồn âm thầm… Ông đã thiết lập cả một hệ thống phòng thủ chống lại tệ sùng bái cá nhân.” Nhờ tất cả những cái đó, và nhờ “trí tuệ chính trị, những bản năng và sự tao nhã của ông, cái khả năng làm việc gần như phi phàm của ông, sự gắn bó sâu sắc và tuyệt đối tin tưởng vào sự khôn ngoan của quần chúng,” Castro đã đạt được ước mơ “đáng thèm muốn và khó nắm bắt” của tất cả những nhà cai trị: “tình thương”

 

Những đức tính này, theo sự miêu tả của García Márquez, được hỗ trợ bởi “cái kỹ năng cơ bản và bị coi thường nhất” của Fidel: cái “thiên tài làm nhà báo” của ông. Tất cả những thành tựu to lớn của Cách mạng, những nguồn gốc của nó, những chi tiết của nó, các ý nghĩa của nó, được “biên chép trong các bài diễn văn của Fidel Castro. Nhờ những bản báo cáo nói tuyệt vời này, người dân Cuba là một trong những dân được thông tin tốt nhất trên thế giới về thực tế cuộc sống của họ.” García Márquez thừa nhận rằng những bài diễn văn này “chưa giải quyết những vấn đề tự do phát biểu và dân chủ cách mạng” và đạo luật cấm tất cả các tác phẩm sáng tác chống đối các nguyên tắc của Cách mạng đánh vào ông như một sự “báo động” – nhưng, tất nhiên, không phải vì những giới hạn quyền tự do của nó. Không, điều làm ông băn khoăn về đạo luật đàn áp này là sự vô ích của nó: “bất cứ nhà văn nào liều lĩnh đến mức viết một cuốn sách chống lại Cách mạng không cần phải vấp vào hòn đá Hiến pháp… cách mạng sẽ đủ chín để tiêu hóa nó.” Theo ý ông, báo chí Cuba vẫn còn thiếu thông tin và những đánh giá phê phán, nhưng người ta có thể “thấy trước” rằng nó sẽ trở nên “dân chủ, sinh động, và độc đáo”, bởi vì nó sẽ được xây dựng trên một “nền dân chủ thực sự và mới mẻ…chính quyền nhân dân hình dung như một cấu trúc kim tự tháp nó bảo đảm cơ sở bền vững và sự kiểm soát trực tiếp của các lãnh đạo của nó.” (Một năm sau, trong một phỏng vấn của The New York Times, ông được Alan Riding hỏi tại sao ông không chuyển đến Cuba, vì ông thường xuyên đến đó. “Bây giờ rất khó mà đến đó và thích ứng với hoàn cảnh. Tôi đã thiếu thốn quá nhiều thứ, tôi không thể sống mà thiếu thông tin.”) “Quỷ ạ, đừng tin tôi” García Márquez kết luận “Anh cứ đến đấy mà thấy tận mắt.”

 

Một tác phẩm thuộc hệ hình khác trong báo chí chính trị của ông – danh tiếng đích thực của García Márquez trong thế giới nói tiếng Anh có thể không trụ nổi sau bản dịch của tuyển tập báo chí của ông sang tiếng Anh “Vietnam por dentro” hay “Việt nam nhìn từ bên trong,” mà Martin không nói đến trong cuốn sách của ông. Một năm trước khi nó được xuất bản, tháng Mười Hai năm 1978, García Márquez đã sáng lập một tổ chức gọi là “Quỹ Habeas vì Nhân quyền” ở Mỹ, với mục đích “vận động trả tự do cho các tù nhân. Không phải là chỉ trích các nhà cai trị bạo ngược, nó chỉ cố gắng trong phạm vi có thể để điều tra tung tích những người mất tích và tạo điều kiện cho người lưu đày trở về nhà. Tóm lại – không giống với các tổ chức cứu trợ sự sống khác, Habeas sẽ tập trung quan tâm trực tiếp vào việc giúp đỡ những người bị đàn áp hơn là lên án kẻ đàn áp.” Theo tinh thần này, có thể hy vọng rằng những thảm kịch của những thuyền nhân rời khỏi Việt nam trong tuyệt vọng có thể thu hút sự chú ý của ông, như nó đã thu hút sự chú ý của Sartre và những người khác ủng hộ chế độ Việt nam.

 

Nhưng trong chuyến đến Việt nam người sáng lập của Habeas chỉ nói chuyện với một bên, và chỉ lắng nghe câu chuyện chính thức. Trong loạt bài báo mà García Márquez gửi về, chúng ta được biết một chánh án Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, “một quan chức chóp bu” hàm Bộ trưởng của Đảng Cộng sản phụ trách quan hệ đối ngoại, ông thị trưởng Chợ Lớn, ông Bộ trưởng Ngoại giao, và, tất nhiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người với “trí sáng suốt lặng lẽ…tiếp tôi và gia đình tôi vào một giờ mà hầu hết các nguyên thủ quốc gia vẫn còn đang say giấc nồng: vào sáu giờ sáng.” Trong chuyến thăm “gần một tháng” nhóm của García Márquez đã có dịp tham dự “những lễ hội văn hóa” trong đó “những thiếu nữ duyên dáng chơi đàn thập lục, và hát những điệu ca buồn thương để tưởng nhớ những liệt sĩ”; nhưng họ không có thời gian để nghe những người tị nạn, hay phỏng vấn họ, hay chìa tay giúp đỡ họ. “Câu chuyện của họ, García Márquez nói một cách thật thà “chiếm vị trí thứ yếu trong thực tế khắc nghiệt của đất nước này. Cái “thực tế khắc nghiệt” ấy, tất nhiên, là lịch sử cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và nguy cơ một cuộc chiến tranh mới với Trung Quốc.

 

Điều thật sự trọng yếu đối với García Márquez ở Việt nam là nó “đã thua cuộc chiến tranh thông tin”. Đối với người sáng lập Habeas, thảm họa không phải là hàng trăm nghìn dân tị nạn, chết đuối, chết đói, đau ốm, bị cướp hết tài sản, bị hãm hiếp, bị giết chết. Thảm họa là thế giới biết tất cả về điều này. García Márquez tiếc rằng những người Việt nam, những người Việt nam thật sự quan trọng, những người mà ông đã phỏng vấn – không có “ tầm nhìn xa để tính toán quy mô rộng lớn của những nỗ lực quốc tế vì lợi ích của những người tị nạn.” Phe nhân đạo đã thắng phe toàn trị - đó là điều đã làm ông buồn bực.

 

Tất cả những bài báo này vẫn theo mẫu những bài báo trước đây của García Márquez về Hungary, và làm lộ rõ cái hình mẫu của tất cả những bài báo chính trị của ông, lúc đó và bây giờ: chỉ nghe tiếng nói của kẻ mạnh, và làm mất tác dụng – ngăn chặn, hạ thấp, bóp méo, xuyên tạc, và bỏ qua – bất kỳ thông tin nào có thể “rơi vào tay bọn đến quốc.”

 

 

IV

 

Mặc dù những bài báo đáng nhớ này” năm 1975, Fidel Castro nhận xét với Régis Debray rằng ông vẫn chưa tin tưởng vào tính “kiên định cách mạng” của nhà văn Colombia này. Thật ra, García Márquez đã từ chối giúp đỡ nhà thơ Cuba Heberto Padilla trong cái vụ nổi tiếng ông ta bị buộc “thú tội” rằng tiếng vọng mãnh liệt của các vụ án Moscow đã dẫn đến việc cắt đứt các nhà trí thức Mỹ Latin với chế độ này. Castro nhận thấy điều này, nhưng ông vẫn còn chưa chắc chắn, và không cho phỏng vấn. García Márquez lúc đó đã phải tự bằng lòng với việc phỏng vấn người hùng của Panama, Omar Torrijos, một nhà đốc tài hạng hai vùng Carribe, nhưng là một độc giả trung thành của García Márquez. Torrijos đã có câu này để nói về Mùa thu của trưởng lão: “Nó đúng đấy, nó là chúng tôi, chúng tôi là như thế đấy.” “Bình luận của ông khiến tôi ngạc nhiên và thích thú,” García Márquez nói. “Và rất nhanh, hai người đã thiết lập một tình bạn dựa trên sức hấp dẫn tình cảm sâu sắc qua thời gian đã biến thành một cuộc tình” Martin viết.

 

Năm 1976 García Márquez trở lại Cuba, và sau khi chờ đợi một tháng (giống như ông đại tá truyền kỳ) ở khách sạn Nacional một cuộc gọi của ngài Tư lệnh, cuộc gặp đã được dự tính gần hai thập kỷ cuối cùng cũng đa diễn ra. Ngay sau khi được Castro tiếp, và dưới sự giám sát cá nhân của ông ta, ông đã viết “Chiến dịch Carlota: CubaAngola,” một biên niên mang đến cho ông một giải thưởng từ Tổ chức Nhà báo Quốc tế. Mario Vargas Llosa (người đã viết và xuất bản luận án tiến sĩ về Trăm năm cô đơn) đã gọi thẳng ông là “đầy tớ” của Castro. Hai năm sau,  García Márquez tuyên bố rằng việc ông gắn vó với Cuba có ý nghĩa tương tự như với đạo Thiên Chúa: “một sự hiệp thông với các Thánh.”

 

Martin dành vài trang để miêu tả mối ràng buộc đang lớn lên giữa Tư lệnh và nhà văn sau 1980. “Mối quan hệ của chúng tôi là một mối quan hệ trí thức” García Márquez nói năm 1982. “Khi chúng tôi ngồi với nhau chúng tôi nói về văn học.” Và không phải chỉ có văn học liên kết họ lại với nhau. “Họ bắt đầu có những chuyến đi nghỉ hàng năm cùng với nhau tại dinh thự của Castro ở Cayo Largo,” Martin ghi lại, “nơi đôi khi một mình, đôi khi với khách, họ có thể nói chuyện trong chiếc xuồng du lịch nhanh hay du thuyền Acuaramas của ông.”

 

Vợ García Márquez “đặc biệt thích thú những dịp này bởi vì Fidel có cách cư xử đặc biệt với phụ nữ, luôn luôn chu đáo với một cử chỉ ga lăng theo phong cách cũ khiến người ta vừa vui thích vừa hãnh diện.” Ông cũng cho chúng ta biết về tài nấu bếp của Castro, và Gabo thì thích món trứng cá muối, còn Castro thì thích cá tuyết. Mừng giải Nobel, Castro gửi cho bạn mình cả một thuyền rượu rum, và khi gia đình trở lại ông đưa họ lên Nhà Lễ tân số sáu, ngôi nhà này chỉ vài năm sau trở thành ngôi nhà Cuba của họ. Tại đây García Márquez cho những vị khách như Debray ngập trong Veuve Cliquot. “Không có mâu thuẫn giữa việc người ta giàu có và việc người ta là nhà cách mạng,” García Márquez tuyên bố thế, “chừng nào bạn chân thành trong vai trò là nhà cách mạng và không chân thành trong việc là người giàu có.”

 

Nguồn cảm hứng này – không phải của chủ nghiã hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo – Martin có thể đã lấy một it nước ngọt từ Gabo và Fidel  của Ángel Esteban và Stéphanie Panichelli (mà ông có nhắc đến trong cuốn tiểu sử nhưng không trích dẫn vào sách). Tập này đưa ra lời chứng thực của nhà thơ Cuba Miguel Barnet, một người bạn của García Márquez và là chủ tịch Tổ chức Fernando Ortiz. Barnet cho ta một mô tả chi tiết về các bữa tiệc ở “lâu đài Siboney” thậm chí miêu tả đến cả trang phục của chủ nhân. Fidel và Gabo – Barnet nói – là những chuyên gia thật sự về các vấn đề văn hóa ẩm thực, và họ biết cách thưởng thức rượu ngon và thức ăn ngon. Gabo là ‘người hưởng lạc số dách’ vì ông biết yêu bánh ngọt, cá tuyết, hải sản và thực phẩm nói chung.” Và Manuel Vázquez Montalbán, một nhà văn Tây Ban Nha và là bạn của Castro, sưu tập những chứng cớ sau đây từ “người thợ rèn vĩ đại” người có lẽ là đầu bếp giỏi nhất Cuba “Gabo là người tán thưởng tuyệt vời tài nấu bếp của tôi, và ông ấy hứa viết lời giới thiệu cho cuốn sách nấu ăn của tôi, mà tôi viết đã gần xong.” Trong cuốn sách dạy nấu bếp đó, mỗi món ăn được dành riêng cho một người và vì người ấy nó được sáng tạo ra. Món của Gabo là “Tôm hùm à la Macondo” còn của Fidel Castro là “Rùa Consommé.” Điều quan trọng cần ghi chú ở đây là vào thời gian đó sổ lương thực ở Cuba (được áp dụng từ năm 1962) gồm, cho mỗi người mỗi tháng, những cao lương mỹ vị sau đây: bảy pao[2] gạo và ba mươi aoxơ[3] đậu, năm pao đường, nửa pao dầu, bốn trăm gam mì sợi, mười quả trứng, một pao gà đông lạnh, và nửa pao thịt nền (gà) trộn với cá, mortadella, hay xúc xích có thể chọn cho thêm vào để thay đổi, trong cái loại “sản phẩm thịt” này.

 

Trong “Mùa thu của trưởng lão vị trưởng lão nhìn xuống con người văn chương bằng vẻ kẻ cả: “Bọn nó vênh vang trong cái nghề văn như những con gà trống thuần chủng khi chúng rụng lông, do đó chúng nó  là đồ vô tích sự trừ khi có giỏi một thứ gì đó.” García Márquez bây giờ có ngôi nhà của riêng mình trên hòn đảo ấy, là phải giỏi nhiều thứ. Tháng Mười Hai năm 1986, ông thành lập một Viện hàn lâm điện ảnh ở San Antonio de los Bãnos: New Latin American Cinema Foundation. Học viện mới này – do García Márquez tài trợ, là quan trọng đối với chế độ, bởi vì ở châu Mỹ Latin văn hóa luôn luôn là nguồn gốc cơ bản của tính hợp pháp. Trong số khách mời có Robert Redford, Steven Spielberg, và Francis Ford Coppola. Học viện này, như Martin mô tả, là một ý tưởng thông minh và kích thích: “Điện ảnh có tính vui vẻ, tập thể, tiên phong, trẻ trung; điện ảnh là sêchxy và điện ảnh là vui nhộn. Và García Márquez sống từng phút của nó; ông được bao vây bởi những cô gái trẻ hấp dẫn, nồng nhiệt và những chàng trai đầy tham vọng nhưng cung kính, và ông ở trong môi trường của mình”

 

Martin nói đúng:  García Márquez “ở trong môi trường của ông.” Điều mà Martin không nhìn thấy là ý nghĩa tiểu sử của những gì ông kể lại. Toàn bộ sự việc giống như xây dựng lại thiên đường Macondo trước cơn bão lá, với thuận lợi là bây giờ Gabriel García Márquez là người sống ở phía bên kia, phía đặc quyền đặc lợi, phía “Mỹ”. Đối với những người Cuba bình thường, lâu đài Siboney của ông, những bữa ăn hoang phí của ông, nhưng sâm banh, những hải sản,  mỳ sợi tuyệt diệu do Castro nấu nướng, những cuộc đi chơi bằng du thuyền, là  – như García Márquez viết về “thành phố cấm” của người Mỹ ở Arcataca – “cái nhìn lướt qua về một thế giới biệt lập và không chắc thực mà chúng tôi bị cấm lui tới.”

Điều hay nhất là lại một lần nữa được đi dạo tay trong tay với trưởng lão. Năm 1988 García Márquez viết một tiểu sử sơ lược về “caudillo”[4] (như ông gọi ông ta) được xuất bản như lời giới thiệu cho Habla Fidel hay Fidel nói, một cuốn sách của tác giả Ilaty Gianni Minà. Trong cuốn tiểu sử sơ lược này, dành sự ngưỡng mộ về văn học đối với nhân vật chính của mình (“Ông có thể không nhận thấy sức mạnh của sự hiện diện của ông, nó dường như chiếm hết không gian trong phòng, mặc dầu ông không cao cũng không to như ấn tượng từ cái nhìn đầu tiên.”)  Cùng năm đó, đang sống ở Habana, García Márquez đạt được tiến bộ trong cuốn sách về hành trình cuối cùng của Bolivar: Tướng quân trong mê hồn trận. Martin gợi ý rằng miêu tả của ông về Bolivar  được gợi hứng từ những nét đặc trưng của Castro, và ngược lại.

 

Năm tiếp theo mở đầu một cách tồi tệ, với những phản hồi của một bức thư chung được ký 1988 bởi nhiều nhà văn có danh tiếng quốc tế yêu cầu Castro theo bước Pinochet có đủ can đảm để làm một cuộc trưng cầu dân ý về chế độ của ông ta.

 

Đối với García Márquez, người từ những năm 1970 đã bộc lộ sự khinh bỉ đối với những thiết chế, luật pháp và các quyền tự do của nền dân chủ “tư sản”, và năm 1981 đã chế giễu “những giọt nước mắt cá sấu của những kẻ “thường chống Liên xô và chống cộng” sau cuộc đàn áp công đoàn Đoàn kết ở Ba lan – bức  thư này là một chương mới trong sự nổi lên của “phái hữu” được John Paul II, Thatcher, Reagan, và bản thân Gorbachev  cổ vũ. (Trong một chuyến thăm Moscow vào cuối những năm 1980, García Márquez đã cảnh cáo Gorbachev về nguy cơ đầu hàng đế quốc.)

Về những người đã ký bức thư phản đối nền chính trị phi tự do ở Cuba, Martin viết rằng “Những cái tên Mỹ không gây được mấy ấn tượng, trừ Susan Sontag, ngay cả những cái tên Mỹ Latin cũng thế (Carlos Fuentes, Augusto Roa Bastos, v..v.).” Trong số những tác giả Mỹ không gây được ấn tượng với Martin có Saul Bellow và Elie Wiesel; những tác giả Mỹ Latin là Reinaldo Arenas (người soạn thảo bức thư này), Ernesto Sábato, Mario Vargas Llosa, Guillermo Cabrera Infante, và Octavio Paz; trong số những người Âu có Juan Goytisolo, Federico Fellini, Eugene Ionesco, Czesław Miłosz, và Camilo José Cela.

Nhưng điều này có thể hiểu được. Đối với nhà viết tiểu sử và với chủ đề cuốn sách của ông, năm 1989 là năm tận thế. Một đòn đánh vào uy tín của Cuba còn mạnh hơn cả sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu là bản án được bàn tán nhiều kết án Tướng tư lệnh sư đoàn Arnaldo Ochoa và anh em Antonio (Tony) và Patricio de la Guardia, về tội vận chuyển ma túy và phản bội Cách mạng. Thời kỳ đen tối và tệ hại này – Martin chỉ dành có vài đoạn cho nó – được công luận chú ý vào Tháng Sáu 1989. Theo nhà báo Andrés Oppenheimer, việc vận chuyển ma túy qua Cuba bắt đầu năm 1986, và được sự bảo trợ ngầm của Fidel, cho đến khi tình báo Mỹ khám phá ra một vụ móc ngoặc. Khi đó Castro chớp lấy cơ hội giết bốn con chim bằng một hòn đá: ông có thể dứt bỏ một kẻ thù tiềm tàng nguy hiểm (Ochoa là một trong những chỉ huy cao cấp trong cuộc can thiệp vào Angola, một cựu binh trong cuộc đột nhập vào Venezuela. Ethiopia, Yement, và Nicaragua, và được công nhận chính thức là “Anh hùng của Cách mạng”) cùng với anh em Guardia, cả hai là bạn của Castro và gắn bó với Bộ Nội vụ dưới một “phe cánh ngầm” khác, viên tướng tư lệnh sư đoàn José Abrantes. Fidel đã giao cho Tony de la Guardia, người “được ông bảo hộ”, nhiều nhiệm vụ tình báo (như vụ rửa 60 triệu đô la cho Montoneros của Argentina trong năm 1975, để thanh toán cho một cụ bắt cóc). Khó mà tin rằng cuộc phiêu lưu mới này – theo lệnh rõ ràng của Abrantes – không được hưởng sự bảo trợ của Fidel, giống như tất cả mọi việc trên hoàn đảo này. Nhưng mục đích biện minh cho phương tiện.

 

Sự kiện nổi bật là Antonio de la Guardia, một tính cách như trong một phim hành động, cũng là bạn thân của García Márquez. Một trong những tranh vẽ của ông ta treo ở nhà của García Márquez ở Habana. Cùng năm đó, 1989, Gabo đề tặng Tướng quân trong mê hồn trận cho ông ta: “Tặng Tony: người gieo điều thiện.” Ngày 9 tháng Bảy, khi bản án cuối cùng sắp được công bố, Castro đến thăm García Márquez tại nhà riêng ở Havana. Oppenheimer tái hiện một đoạn trong cuộc nói chuyện dài đó như sau: “Nếu họ bị hành hình, sẽ không ai tin rằng nó không phải là do anh ra lệnh” theo thuật lại, García Márquez đã nói thế. Đêm khuya, nhà văn tiếp Ileana de la Guardia, con gái Tony, và chồng cô ta là Jorge Masseti (con trai của một chỉ huy du kích đã mất Jorge Ricardo Masseti, một người bạn cũ và sếp của García Márquez ở Prensa Latina). Họ đến cầu xin García Márquez can thiệp giùm để cứu mạng Guardia. Nhà văn nói đại loại “Fidel không điên đến mức ông có thể để cho các vụ hành hình diễn ra,” và khơi dậy hy vọng của họ. Ông nói họ không nên lo lắng, và khuyên họ không nên kêu gọi các tổ chức nhân quyền. Bốn ngày trôi qua. Rồi, ngày 13 tháng Bảy, 1989, người bạn tốt của Gabo, Tony de la Guardia và Ochoa bị hành hình. Patricio bị phạt ba mươi năm tù và Abrantes hai mươi năm. Ông này chết vì bệnh tim năm 1991.

 

Mặc dù rời Cuba trước vụ hành hình, theo những chứng cớ do chính Ileana de la Guardia thu thập được, García Márquez đã “tham dự phiên tòa, cùng với Fidel và Raúl, đằng sau tấm gương lớn’ trong hội trường lớn của Các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba.” Ở Paris, trong lễ kỷ niệm hai trăm năm Cách mạng Pháp, ông nói với François Mitterrand rằng đó chỉ là “một xích mích giữa các sĩ quan.” Ông tuyên bố công khai đã có “những thông tin rất tốt” rằng việc kết án “phản bội” là công bằng, và ông bình luận rằng trong tình hình đó Castro không có lựa chọn nào khác.

 

Vài tháng trước sự kiện đó, khi viết những trang cuối cùng của Tướng quân trong mê hồn trận, García Márquez đã tả Simón Bolívar khoái trá trong giấc ngủ khi ông ta nhớ lại ông ta đã ra lệnh bắn viên tướng lai đen can đảm Manuel Piar, là người vô địch chống Tây Ban Nha và một anh hùng của quần chúng. “Đó là việc sử dụng quyền lực dã man nhất trong đời ông,” García Márquez bình luận trong tiểu thuyết của mình. “Nhưng cũng là thời cơ thuận lợi nhất cho ông để củng cố quyền lực, hợp nhất quyền chỉ huy của ông, và dọn đường đi đến vinh quang.” Và đến đoạn cao trào của chương, García Márquez đặt vào mồm Bolivar câu nói của ông nội ông: “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả những chuyện đó.”

 

“Hồi đó tôi không xuất bản bất kỳ quyển sách nào trước khi Tư lệnh đọc nó” García Márquez nói đôi lần vào giữa những năm 1980. Đó là lý do vì sao Martin, nhắc đến những đoạn nói về Bolívar và Piar, đã tự hỏi “Liệu ông [Castro] có nhớ đến những đoạn ấy khi ông ra quyết định không?” Tất nhiên ông ấy nhớ. Nhưng căn cứ vào “những thông tin rất tốt” mà García Márquez luôn luôn tuyên bố là ông có được về tình hình Cuba, và căn cứ vào việc ông rất thân với Antonio de la Guardia, những câu hỏi thú vị không dính dáng đến nhà độc tài mà đến nhà văn. Chẳng lẽ García Márquez không biết gì về nhiệm vụ bí mật của ông bạn Tony của mình? Khi ông viết cuốn tiểu thuyết của mình, ông có xem xét cái khả năng là các bạn ông sẽ bị bắt về tội cố ý “phản bội” không?

 

Và như vậy một chu kỳ cũ của sự đồng lõa đã hoàn thành. Nó bắt đầu bằng việc hành hình trong nhóm khống chế của chàng García Márquez trẻ tuổi – việc ông nội chàng bắn người bạn, trung úy Medardo, con của người tình – và kết thúc với việc hành hình trong nhóm khống chế của ông: bản án của Tổng Tư lệnh về người bạn Tony của ông, người gieo giống tốt. Nhà văn là người từ thời rất sớm, đã chấp nhận thứ “đạo đức chính trị” của ông nội, là người “hoàn toàn máu lạnh đặt chính trị lên trước đạo đức,” là người đã thấy Castro như “hình ảnh của ông nội ông, người mà ông không thể, không dám, và thậm chí không muốn thắng” đã buộc phải thử nghiệm lý thuyết của mình bằng xương máu. Và ông đã chấp nhận phán quyết của quyền lực.

 

Tình bạn và những con tôm hùm đã tiếp tục trong hai mươi năm. Người viết tụng ca, cố vấn cung đình, đại lý báo chí, đại sứ lưu động, đại diện toàn quyền, lãnh đạo các quan hệ quốc tế: García Márquez đã làm tất cả những vai trò này cho Castro. Năm 1996, ông ăn tối với tổng thống Clinton và nói với ông ta rằng: “Nếu ông và Fidel có thể ngồi đối diện nhau, sẽ không còn vấn đề gì nữa.” Sau [sự kiện] ngày 11 tháng Chín, ông công bố một bức thư dài gửi Bush: “Ông sẽ cảm thấy thế nào nếu bây giờ sự khủng khiếp ấy nổ bùng ra ngay trong sân nhà ông mà không phải trong phòng khách nhà hàng xóm?”

 

Mọi việc diễn biến khá ổn cho nhà văn và Tư lệnh, chỉ trừ một vài thời điểm, như trong năm 2003, một phong trào quan trọng hơn và rộng rãi hơn phong trào dân chủ, là phong trào nhân quyền, hình như đã xen vào giữa họ. Vào tháng Ba năm đó, bằng một đòn bất ngờ và tàn ác, Castro lặp lại những phiên toà Moscow, kết án bảy mươi tám nhà bất đồng chính kiến từ mười hai đến hai mươi bảy năm tù. (Một người trong số họ bị kết án vì đã sở hữu một máy ghi âm Sony). Ngay lập tức sau đó, giữa thời khắc nóng bỏng ấy, ông ra lệnh hành hình ba thanh niên đã cố trốn thoát khỏi thiên đường trên một chiếc bè. Đối đầu với tội ác ấy, José Saramago tuyên bố (mặc dầu sau đó ông rút lại tuyên bố này) rằng đó là “đây là điểm tận cùng” trong quan hệ của ông với Castro. Nhưng Susan Sontag đi xa hơn, và trong Hội chợ Sách Bogotá, bà trực diện với García Márquez: “Ông ấy là nhà văn lớn nhất của đất nước này và tôi rất ngưỡng mộ ông ấy, nhưng không thể tha thứ được việc ông không lên tiếng về những biện pháp mới đây của chế độ Cuba

 

Để đáp lại, García Márquez dường như có vẻ xa lánh, một cách không dứt khoát, với Castro: “Xét về các án tử hình, tôi không có gì nói thêm vào những gì tôi đã nói ở chỗ riêng tư hay trước công chúng trong chừng mực mà tôi còn nhớ: tôi phản đối nó ở bất kỳ nơi nào, vì bất kỳ lý do nào, và trong bất kỳ hoàn cảnh nào.” Cứ như thể vấn đề chỉ là án tử hình! Và gần như liền đó ông đã lánh xa ngay sự xa lánh của mình: “Một số cơ quan truyền thông – trong đó có CNN – đang xuyên tạc và bóp méo câu trả lời Susan Sontag của tôi, làm cho nó có vẻ như một tuyên bố chống lại Cách mạng Cuba.” Để nhấn mạnh, ông nhắc lại một tuyên bố cũ, để thanh minh cho quan hệ cá nhân của ông với Castro: “Tôi không thể đếm được số lượng các tù nhân, những nhà bất đồng chính kiến, và những kẻ âm mưu, những người mà tôi đã giúp đỡ trong im lặng tuyệt đối, để ra khỏi nhà tù và di cư khỏi Cuba trong ít nhất hai mươi năm qua.”

 

Trong “im lặng tuyệt đối” hay trong đồng lõa tuyệt đối? Tại sao García Márquez có thể giúp đỡ bất kỳ ai rời khỏi Cuba nếu ông không coi việc tù tội của họ là bất công? Và nếu ông coi nó là bất công, trong phạm vi đấu tranh cho sự nghiệp của họ, tại sao ông đã tiếp tục – tại sao ông vẫn còn tiếp tục – ủng hộ một chế độ gây nên những bất công ấy? Tố cáo sự cầm tù bất công đối với “những tù nhân, những nhà bất đông chính kiến, những kẻ âm mưu” ấy, và như vậy giúp xóa bỏ hệ thống nhà tù chính trị, có phải là giá trị hơn không?

 

Gabriel García Márquez không phải là một nhà văn trong lồng kính. Ông tuyên bố tự hào với công việc nhà báo của mình. Ông cổ súy báo chí tại một học viện ở Colombia. Ông đã khẳng định rằng những bài báo phóng sự là thể loại văn học với tiềm năng trở thành “không chỉ chân thật với cuộc sống mà còn tốt đẹp hơn cuộc sống. Một bài báo cũng tốt như một cuốn tiểu thuyết, nhưng có một sự khác biệt quan trọng và không thể xâm phạm: tiểu thuyết và truyện ngắn cho phép bịa đặt không giới hạn, nhưng phóng sự phải thật cho đến dấu phảy cuối cùng.” Như vậy làm thế nào có thể hòa hợp tuyên bố về đạo đức nghề báo này với việc chính ông che dấu sự thật ở Cuba, mặc dầu ông có đặc quyền thông tin nội bộ?

 

Cuối cùng lịch sử đã phán quyết cả về đạo đức và thẩm mỹ. Về phương diện thẩm mỹ, nói rằng García Márquez là một “Cervantes mới” là hơi vội vã. Nhưng về mặt đạo đức, chắc chắn là không thể có sự so sánh. Là một anh hùng trong chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kỳ, bị thương và tàn tật trong chiến tranh, đắm tàu và bị cầm tù ở Algeria trong năm năm, Cervantes sống với những lý tưởng của ông, những nỗi đau khổ của ông, trong cảnh nghèo nàn với tính chính trực như Don Quixote, và hưởng tự do cao cả nhất trong việc chấp nhận thất bại một cách hài hước. Không hề có một dấu vết nào của sự cao cả về tinh thần đó ở García Márquez, người đã say sưa cộng tác với độc tài và áp bức. Còn Cervantes ư? Không bao giờ!

 

Vẻ đẹp của những hư cấu của Gabriel García Márquez sẽ sống mãi mặc dầu những sự trung thành méo mó của người sáng tạo ra nó, đúng như tác phẩm của Céline sẽ sống mãi mặc dầu sự say mê của ông đối với chủ nghĩa quốc xã, và tác phẩm của Pound sẽ sống mãi mặc dầu ông ngưỡng mộ Mussolini. Nhưng sẽ là một sự công bằng đầy chất thơ nếu, trong mùa thu của cuộc đời mình và trên đỉnh cao chói lọi của vinh quang, ông tự tách mình ra khỏi Fidel Castro và dùng ảnh hưởng của mình để phục vụ cho những thuyền nhân Cuba. Tất nhiên chẳng có hy vọng gì cho một sự chuyển biến như thế. Những chuyện như thế chỉ xảy ra trong các tiểu thuyết của García Márquez mà thôi.

 

Enrique Krauze là biên tập viên của Letras Libres. Tiểu luận này được Natasha Wimmer dịch từ tiếng Tây Ban Nha.

 

Bản tiếng Việt : Hiếu Tân. November 7, 2009

 



[1] Nghệ thuật nói đúng ngữ pháp và dùng từ đúng

[2] 0,454 kg

[3] 28,35 g

[4] Caudillo là một từ tiếng Tây Ban Nha mô tả một lãnh tụ chính trị-quân sự đứng đầu một chế độc độc tài chuyên chế (sếp, tư lệnh, người hùng, như Simón Bolivar) hay những lãnh tụ có sức lôi cuốn quần chúng (như Jorge E. Gaitán). Các Caudillo có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử châu Mỹ Latin. (Theo Wikipedia)

 

Enrique Krauze
Số lần đọc: 2249
Ngày đăng: 02.12.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải : Phần 2 - Sam Harris
Cao Bá Quát: Một đời lận đận vì... hoa - Văn Thành Lê
Cái tình trong ca dao Việt Nam - Võ Công Liêm
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải - Lê Quốc Tuấn
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải-Phần 1 - Sam Harris
Thời kỳ Bảo Bình- 1 - Hamvas Béla
Thời kỳ Bảo Bình- 2 - Hamvas Béla
Nhà thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên - Trần Hoài Anh
Bàn luận về thơ Tân hình thức - Đỗ Quyên
Từ thầy đến Quân sư - Trần Hạ Tháp