Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
1.179
123.220.049
 
Dân ca
Khuyết danh

Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã nhất trí đánh giá Bến Tre là một trong những cái nôi dân ca Nam Bộ mang đậm dấu ấn vùng sông nước và đồng bằng sông Cửu Long. Ở Bến Tre có nhiều làn điệu dân ca như: hát ru, hò, lý, nói thơ, nói vè, đồng dao, hát huê tình, hát đối đáp, hát sắc bùa... Căn cứ vào nội dung và giá trị nghệ thuật, ở đây chỉ giới thiệu 4 thể loại dân ca tiêu biểu của tỉnh

-         

-         

-          nói thơ Vân Tiên

-          hát sắc bùa..

Phát triển trên vùng đất 3 cù lao nằm giữa các nhành sông Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, hò Bến Tre hình thành theo hai hệ thống: hò trên sông nước và hò trên cạn. Cũnh như vôn văn nghệ dân gian nói chung, hò Bến Tre có cội nguồn từ miền đất cũ do những thế hệ lưu dân người Việt mang theo cùng với hành trang khác của mình trên đường di chuyển để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn về phương Nam.

Hò trên sống nước gồm có:

-          Hò chèo thuyền (chèo ghe)

-          Hò mái đoản (mái cụt)

-          Hò mái trường (mái dài)

Hò trên cạn gồm có:

-          Hò cúng chùa

-          Hò bản đờn

-          Hò lờ

-          Hò cấy lúa

-          Hò đối đáp.

Dù hò trên sông hay hò trên cạn, tiếng hò Bến Tre, do những điều kiện làm ăn sinh sống và do khung cảnh thiên nhiên qui định, nên có phần thanh nhàn và ung dung hơn so với hò miền Trung hay miền Bắc với tiết tấu khỏe, gấp rút, vội vàng. Là một loại hình nghệ thuật dân gian, hò Bến Tre cũng có lề lối diễn xướng riêng. Hò trong lao động, hò giải trí trong lúc nghỉ ngơi, hò trong lễ hội, hò để đua tài cao thấp, hò trong môi trường vui chơi mỗi độ xuân về.

Hò cấy thường diễn ra ngay trên đồng ruộng, có thể kéo dài từ sáng cho đến chiều tối. Các nhóm hò, có kẻ xướng người xô, vừa lao động, vừa trổ tài đối đáp. Xưa kia, mỗi vạn cấy thường tập trung từ 20 đến 30 người, đứng đầu là một anh "trùm vạn" - người làm trung gian giữa chủ ruộng và thợ cấy. Những thợ cấy hò giỏi, hò hay thường được mọi người trọng vọng, công xá bao giờ cũng được nhận phần cao hơn so với các người khác trong vạn.

Hò cấy được phân bố hầu như khắp địa bàn trong tỉnh, nhưng phổ biến nhất là ở miệt ruộng của huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú, Mỏ Cày, Bình Đại.

Ở Thạnh Phú cũng thịnh hành hò chèo thuyền, Bình Đại có hò lờ, hò cúng chùa, hò bản đờn. Dọc theo sông Hàm Luông, ven vàm Tân Hương lại rất phổ biến hò mái đoản, hò mái trường, hò chèo ghe (chèo thuyền).

Trong dân gian, thuật ngữ hò rơi dùng để chỉ trường hợp hò lẻ một mình, chẳng có ai bắt, ai luận, ai gài, ai gỡ, dù có một hoặc nhiều người hò cũng vậy. Trong khi đó, hò kết lại có người bỏ, người bắt, người luận, người gài, người bẻ, tức là có đối có đáp.

Hò mép (hoặc hò bắt quàng) là loại hò ngẫu hứng, đòi hỏi nghệ nhân phải có trình độ nhạy cảm và có năng lực đối đáp ngay lúc biểu diễn trước cảnh và tình xung quanh.

Hò văn, hò thơ, hò truyện đòi hỏi người hò phải am hiểu chữ nghĩa, sử dụng thành thạo các thành ngữ, tục ngữ, nhất là những thành ngữ Hán Việt, phải thuộc nhiều thơ Nôm, thơ lục bát, nhất là các truyện thơ (Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Phạm Công – Cúc Hoa), biết nhiều điển tích trong các truyện Tàu như Tam quốc, Tây du, Đông Chu liệt quốc, Thủy hử.

Hò quốc sự ra đời muộn màng hơn so với các loại hò trên, cùng lúc với các phong trào đấu tranh chống xâm lược, giải phóng đất nước.

Hò đối đáp vốn là một loại hình dân ca phổ biến khắp ba miền đất nước, có lề lối sinh hoạt nghệ thuật giống nhau, đồng thời ở mỗi vùng lại có những tục lệ riêng. Hò đối đáp Bến Tre trải qua 3 giai đoạn diễn xướng. Mở đầu là hò rao, hò mời, hò hỏi thăm. Lời hò ở giai đoạn này chủ yếu là để tìm hiểu đối phương, cho nên thường khiêm nhường, từ tốn, lịch sự. Giai đoạn hai - phần chính của cuộc hò – là lúc thi tài cao thấp, phân định thắng bại, cho nên sôi nổi, căng thẳng, hồi hộp, gay cấn, nhưng cũng là giai đoạn lý thú và hào hứng nhất. Giai đoạn thứ ba mang tính chất kết thúc với những lời hò giã từ, tiễn đưa, hò hẹn, tạm biệt, có khi là sự luyến tiếc, vương vấn, buồn thương, cảm phục...

  

Bến Tre, qua kết quả sưu tầm được, có hơn 70 điệu lý khác nhau. Trong “vườn lý” ngát hương của xứ dừa, chúng ta đã từng nghe các điệu lý chim chuyền, lý đươn, (đan) đệm, lý lu là, lý con cua, lý con cúm núm, lý con sáo, lý con quạ, lý ngựa ô, lý cảnh chùa... Lý có nhiều khả năng diễn đạt, đề cập, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống thiên nhiên và xã hội, sự vật, sự việc chung quanh, vì vậy đề tài của lý vô cùng phong phú. Lý là tiếng nói của tình yêu lứa đôi hồn nhiên và mộc mạc, lý là ước mơ trong sáng, lạc quan, lý là khúc hát ngọt ngào của người bình dân ngợi ca cuộc sống, lý biểu lộ sự bất bình, sự phản đối trước những hiện thực bất công, chướng tai gai mắt, lý cũng là tiếng nói đồng tình, đồng chí dạt dào tin yêu... Người Bến Tre cũng đã chọn nhiều kiểu, nhiều cách để đặt tên cho các điệu lý như:

- Lấy nội dung của lời hát (ca dao) để đặt tên cho điệu lý: lý cái phảng, lý cảnh chùa, lý trái bắp, lý con cún, lý đươn đệm...

- Lấy ngay mấy chữ đầu câu hát (ca dao) mà đặt tên cho lý: lý dừa tơ, lý con cua, lý ông hương, lý ba xa kéo chỉ, lý nàng dâu, lý chim chuyền, lý con ác.

- Lấy tiếng đệm lót, tiếng láy đưa hơi mà đặt tên cho lý: lý lu là, lý hố mơi, lỳ kỳ hợi, lý bằng lưu thủy, lý bằng răng, lý giọng ứ, lý hố khoan...

Lời của lý là những câu ca dao ở thể lục bát. Âm bậc trầm bổng của lời ca tạo ra cốt cách của âm nhạc, và ngược lại do yêu cầu của thẩm mỹ, âm nhạc lại tác động tới lời ca. Đó là mối quan hệ qua lại rất đặc biệt, sinh động của lý.

Trong thể loại lý Bến Tre có hệ thống tiếng đệm lót, tiếng đưa hơi, tiếng láy, hệ thống này đóng vai trò như "gia vị" cho món ăn giai điệu, những tiếng đệm lót, tiếng đưa hơi này đều không có nghĩa cụ thể, nó có tác dụng làm cho giọng hát lên bổng xuống trầm một cách thoải mái, do đó mà cơ cấu giai điệu được tự nhiên, lời ca được tô điểm đậm đà và bay bướm hơn.

Người ta phân biệt được các điệu lý ngoài cấu trúc, đường nét giai điệu và lời ca, như ở tiếng đệm lót đặc thù của nó.

Với tính năng động của nội dung với sự phong phú của đề tài, với hình thức nghệ thuật nhiều màu vẻ, tiết tấu sinh động, dồi dào về điệu thức... thể loại lý đạt trình độ cao về thẩm mỹ, nên đã có mặt ngay từ buổi đầu trong phong trào ca nhạc tài tử và là nguồn bổ sung vô tận cho âm nhạc sân khấu cải lương Nam Bộ.

Nói thơ Vân Tiên

Nói thơ Vân Tiên là một loại hát kể mang tính chất ngâm ngợi, phù hợp với giọng thổ của nam giới. Nội dung là truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu – tác phẩm Lục Vân Tiên - được diễn đạt theo nhịp điệu không buông rơi đều đặn như hát bài chòi, hoặc hát sắc bùa, mà luôn luôn thay đổi từ khoan thai đến dồn dập. Giai điệu thường bắt đầu ở âm khu cao của đầu điệp khúc rồi lên xuống giữa âm khu trung và âm khu trầm và chậm dần để kết thúc mỗi điệp khúc. Khác với hiện tượng “cưỡng âm” ở lý, sáu thanh điệu của ngôn ngữ lời thơ trong nói thơ Vân Tiên bao giờ cũng được tôn trọng. Các dấu giọng (hỏi, ngã, nặng) đều được luyến láy rõ lời. Nói thơ Vân Tiên không sử dụng tiếng đệm lót, hãn hữu mới thấy tiếng "mà" giặm vào, hoặc tiếng đưa hơi "ơ ớ" tùy theo lối ngâm của từng người.

Theo nhạc sĩ Lê Nhất Vũ, căn cứ vào thang âm và điệu thức nói thơ Vân Tiên ở Bến Tre sử dụng điệu thức nam (hơi ai), trong khi đó nói thơ Sáu Trọng, nói thơ Hia Miêng, nói thơ Bạc Liêu thường diễn xướng trên điệu khúc oán.

Khi phong trào ca nhạc tài tử ra đời, tiếp theo là ca nhạc sân khấu cải lương thịnh hành và trở thành thời thượng, thì nói thơ Vân Tiên cũng bị phai nhạt dần. Vả chăng nhịp điệu nói thơ chỉ phù hợp với đời sống xã hội nông nghiệp cổ, không còn thích ứng với tâm lý con người trong thời đại công nghiệp, thời đại của ”mốt”, của tốc độ. Về phương diện thẩm mỹ, công chúng ngày nay, nhất là thế hệ trẻ, không chấp nhận sự lặp đi lặp lại những hình tượng nghệ thuật cũ kỹ, dù cho nó đã từng một thời làm say mê lòng người. Tuy nhiên, cho đến nay, ở Bến Tre, trong các làng quê vẫn còn những cụ già nằm lắc lư theo nhịp võng, vừa vuốt râu ngâm ngợi say mê điệu nói thơ Vân Tiên trong buổi trưa hè, hay giữa buổi chiều êm ả, tĩnh mịch: "dữ răn việc trước, lành dè thân sau...".

Hát sắc bùa

Hát sắc bùa Phú Lễ (xã Phú Lễ, huyện Ba Tri) là một sinh hoạt văn nghệ dân gian có tính chất lễ nghi nông nghiệp pha trộn với ma thuật Đạo giáo, chủ yếu diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán. Đôi khi hát sắc bùa Phú Lễ cũng được tổ chức vào dịp cúng đình hàng năm ở ngay tại đình làng.

Tục hát sắc bùa có địa chỉ hẳn hoi là xã Phú Lễ, nhưng kết quả điều tra thực tế cho thấy địa bàn hoạt động của nó rộng lớn, gồm các xã lân cận như các xã Phú Ngãi, Phước Tuy, An Đức, An Bình Đông, Mỹ Nhơn (huyện Ba Tri) và Tân Thanh (huyện Giồng Trôm).

Tục hát sắc bùa chúc Tết là một tục lệ có từ lâu đời, phổ biến ở nhiều nơi, từ Bắc chí Nam: Hòa Bình, Nghệ Tĩnh, Bình trị Thiên và một số tỉnh miền Nam Trung Bộ từ Phú Yên trở ra. Như vậy hát sắc bùa không phải là nơi sản sinh ra tục hát sắc bùa. Trong khi đi tìm nguồn gốc của nó, một số nhà nghiên cứu, sau khi so sánh những yếu tố tương đồng giữa hát sắc bùa Phú Lễ với hát sắc bùa của một số địa phương (kể cả tục hát xéc bùa của người Mường) đồng thời có liên hệ đối chiếu với hàng loạt gia phả của một số gia đình, dòng họ ở đây, đã đi đến bước đầu kết luận rằng hát sắc bùa Phú Lễ có rất nhiều yếu tố đồng nhất với hát sắc bùa Nam Trung Bộ về các phương diện: mục đích cuộc hát, biên chế nhạc cụ, hệ thống tiết mục, làn điệu, bố cục, hình thức văn học, đặc điểm âm nhạc...

Đội hát sắc bùa thường được tổ chức từ 4 đến 6 có khi lên đến 8 người, có một ông bầu điều khiển. Đội hát được coi là đầy đủ phải có 6 nghệ nhân biết chơi 6 nhạc cụ. Một cuộc hát thường có 2 phần: phần đầu có tính chất nghi lễ - phong tục, tiếp đến là phần diễn xướng giúp vui có tính chất thiên về sinh họat văn nghệ. Hát sắc bùa là hình thức diễn xướng tập thể, có xướng có xô, có nhạc cụ phụ họa và nhịp phách rõ ràng. Lời hát là những câu thơ dân gian thuộc thể sáu tám hoặc thơ 4 chữ.

Về nội dung, gạt ra một bên những câu hát nặng tính chất xưng tụng, nghi lễ xen lẫn với những phù chú "tống quĩ trừ ma" (chủ yếu ở phần đầu), lời hát sắc bùa phản ánh những ước mơ của người lao động trong dịp đầu năm mới: người làm ruộng mong "mùa màng bội thu", "cây trái tốt tươi", người dệt vải "làm không kịp bán", thợ nề, thợ mộc được “người ta năng rước”, xã hội “trăm nghệ tân phát”, “người yên, vật thịnh"...

Theo xu hướng và nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao của xã hội, nội dung của hát sắc bùa Phú Lễ đã có nhiều thay đổi, ngày càng gắn với hiện thực của đời sống hơn, trong khi phần tập tục, nghi lễ mang tính chất ma thuật phai nhạt dần.

----------------------

Chú thích

(1) Những tài liệu trong phần Dân ca này chủ yếu dựa vào công trình nghiên cứu Dân ca Bến Tre của Lư Nhất Vũ và Lư Giang, Ty Văn Hoá - Thông tin Bến Tre, 1981 và một số bản tham luận khoa học đã được đăng trên báo chí của tỉnh.

Khuyết danh
Số lần đọc: 4793
Ngày đăng: 09.11.2004
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhạc dân gian ở trường học trong một xã hội công nghiệp hoá cao - Khuyết danh
Lý đất giồng (Dân ca nam bộ) - Khuyết danh
Lý giao duyên - Khuyết danh
Cùng một tác giả
Khu di chỉ Óc Eo (khảo cổ)
CHỢ ÂM DƯƠNG - NƠI (dân tộc học)
Chợ Việt Nam (dân tộc học)
Bình thơ : (văn hóa)
Phù điêu (nghệ thuật)
Võ Việt Chung và (thời trang)
Tranh dân gian (hội họa)
Dân ca (dân ca)
Văn Thánh Miếu (lịch sử)
Lý Cái Mơn (ca cổ)
Tranh dân gian (hội họa)
Ngày bình yên (thời trang)
Bàn tay (điêu khắc)
Bên nhau (điêu khắc)
Chim lửa (điêu khắc)
Cô gái vuốt tóc (điêu khắc)
Mối quan hệ (điêu khắc)
Ngọc (điêu khắc)