I. Duy giáp lệnh theo sự hiểu hiện thời.
“Duy giáp lệnh” được trích từ quyển thứ ba trong Việt tuyệt thư, Ngô nội truyện. Việt tuyệt thư do một số người đã ghi chép lại chuyện xảy ra ở Ngô và Việt thời Xuân Thu - Chiến Quốc, trong đó phần nhiều là do Ngũ Tử Tư viết, khoảng năm 484 TCN, trước Sử ký của Tư Mã Thiên nửa thiên niên kỷ. Đoạn văn như sau:
越絕書·吳内傳 維甲令
越王句踐反國六年,皆得士民之眾,而欲伐吳,於是乃使之維甲。維甲者,治甲系斷。修內矛,赤雞稽繇者也,越人謂入铩也。方舟航買儀塵者,越人往如江也。治須慮者,越人謂船為須慮。亟怒紛紛者,怒貌也,怒至。士击高文者,躍勇士也。習之于夷,夷、海也;宿之于萊,萊,野也;致之于單,單者堵也。。
Phiên âm: Việt vương Câu Tiễn phản quốc lục niên, giai đắc sĩ dân chi chúng, nhi dục phạt Ngô, vu thị nãi sử chi duy giáp. Duy giáp giả, trị giáp hệ đoạn. Tu nội mao, xích kê kê chựu giả dã, Việt nhân vị nhập sát dã. Phương châu hàng mãi nghi trần giả, Việt nhân vãn như giang dã. Trị tu lự giả, Việt nhân vị thuyền vi tu lự”. Cực nộ phân phân giả, nộ mạo dã, nộ chí. Sĩ kích cao văn giả, diệu dũng sĩ dã. Tập chi vu di. Di, hải dã; túc chi vu lai, lai, dã dã; chí chi ư đan, đan giả đồ dã.
Cho đến ngày nay, “Duy giáp lệnh” được hiểu như sau:
維甲 修內矛 Duy giáp tu nội mao
方舟航 治須慮 phương châu hàng tu lự
*亟怒紛紛者, cực nộ phân phân giả *
*士击高文者 sĩ kích cao văn giả **
習之于夷. Tập chi vu di
宿之于萊. Túc chi vu lai
致之于單. Chí chi vu đan
*và **: lời của sử quan bị người sau đưa đưa lẫn vào Lệnh.
Ông Trịnh Trương Thượng Phương giải nghĩa như sau:
维甲,修内矛(赤鸡稽繇) = 连结好犀牛甲,快整修好枪矛刀剑!
Duy giáp, tu nội mao (xích kê kê chịu) = Liên kết cho xong ngưu giáp, mau chuẩn bị đao kiếm giáo mác! 方舟航(买仪尘),治须虑 = 要想抬起头来航行,快整治战船
Phương châu hàng (mại nghi trần), trị tu lự = Phải ngẩng đầu lên mà phóng thuyền, chuẩn bị chiến thuyền.
亟怒纷纷,士击高文 = 激起冲天怒火,勇士们坚定地迈步向前!
Cực nộ phân phân, sĩ kích cao văn = Kích khởi nộ hỏa xung thiên, các dũng sĩ hãy kiên định cất bước thẳng tiến!
习之于夷 = 让勇士们在海上苦练,
Tập chi vu di = Hãy để dũng sĩ khổ luyện trên biển
宿之于莱 = 让勇士们在野地宿营
Túc chi vu lai = Hãy để dũng sĩ ngủ ở dã ngoại
致之于单 = 勇士们到前线致胜攻关!
Chí chi Vu Đan = Hãy để các dũng sĩ đến tiền trận đến thắng công quan
Nhận xét:
Đoạn trên là văn kể chuyện, tường thuật sự việc kèm theo trình bày nội dung Duy giáp lệnh. Trong văn bản, tác giả không như chúng ta ngày nay dùng dấu ngoặc kép để phân biệt mệnh lệnh của Việt vương với lời trần thuật của mình khiến cho người đọc dễ lầm. Khi ông Trịnh Trương Thượng Phương đưa hai câu “ Cực nộ phân phân và Sĩ kích cao văn” vào Duy giáp lệnh, tôi thấy là không thỏa đáng! Thực ra đây chỉ là lời ghi chú của sử gia viết lại quang cảnh “bừng bừng khí thế” của quân lính tập trận khi nghe lời nói của Việt vương Câu Tiễn mà tập trung lại thôi. Bởi vì, trong một lệnh “tổng động viên” mà có hai câu “ Tức giận bừng bừng, sĩ khí cao dâng” thì có vẻ kỳ lạ? Vô lý! Thật ra lịch sử đã cho thấy là sau khi có “Duy giáp lệnh” 10 năm nước Việt mới chinh phạt nước Ngô. Trước khi phục quốc thành công thì nước Vu Việt đã bị nước Ngô xâm chiếm. Dưới sự cai trị, giám sát của người Ngô thì làm sao có một lệnh tổng động viên công khai kèm theo lời nói “tức giận bừng bừng, sĩ khí cao dâng”?
- Lời giải nghĩa của ông Trịnh Trương Thượng Phương hoàn toàn vô lý và tối nghĩa ngay trong bản thân câu văn. Do biết được bối cảnh chuẩn bị chiến tranh của “Duy giáp lệnh” ông suy diễn “giáp” là áo giáp! Trong khi đó, tiếng Mân Việt của Câu Tiễn còn đọc “giáp” là “cả”, “nội” là “lại” ... Ông cũng quên rằng ngôn ngữ thời Ngô Việt là đa âm và đa âm xưa vẫn tồn tại đến ngày nay: trị tu lự gồm hai từ: trị và tu + lự = trị tự là “trật tự”!
- Bài giảng nghĩa của ông Trịnh quá công phu và quá dài với quá nhiều dẫn chứng bằng cổ thư như “Quốc ngữ-Việt ngữ hạ”, “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận, “Sử ký” của Tư Mã Thiên, “Thủy kinh chú” và các từ điển diễn giãi “Quảng âm” , “Tập âm” v v... có dùng hay có giải thích những chữ tương tự trong “Duy giáp lệnh” đồng thời so sánh các từ đồng âm bên tiếng Thái và tiếng Choang... Do cách giải thích hoàn toàn sai cho nên tôi không phiên dịch phần đó trong bài nầy. Nếu như người nào muốn nghiên cứu toàn bài giải thích “Duy giáp lệnh” của tác giả Trịnh Trương Thượng Phương thì có thể xem ở : www.eastling.org/paper/zhengzhang/zhengzhang_Weijialing.doc
- Cho dù bài giải nghĩa “Duy giáp lệnh” nầy theo tôi và một số bloger Trung Văn cho là sai nhưng hiện tại nó đang được xem là “mẫu mực” , “chính thức” , “giá trị” , “tài liệu để giảng dạy trong trường Đại học”... Cho nên, bất cứ ai có tinh thần yêu chuộng sự thật thì cũng nên góp phần thảo luận để chỉ rõ ra cái sai và tìm ra cái đúng...
II. Phục nguyên Duy giáp lệnh
- Theo truyền thống thì người ta dùng hai chữ đầu tiên của mệnh lệnh để đặt tên cho lệnh vua, nên cái lệnh chúng ta bàn có tên là “Duy giáp lệnh”! Nguyên văn “Duy giáp lệnh” trong một đoạn ngắn được các sử quan nhiều đời sau cố tình giữ nguyên cổ ngữ Việt để giữ đặc tính nguyên thủy và tính trung thực của “lệnh”. Đó là một việc làm thật quý giá, nhưng họ đã kèm theo những lời giải thích mà vô tình làm cho tối nghĩa thêm! Khi thì thêm bằng chữ Nôm-Việt, khi thì thêm bằng Hán ngữ, sử quan đã gây thêm ngộ nhận cho đời sau. Có người vin vào đó mà nói rằng “Lệnh của vua Việt mà lại dùng khi thì chữ “Hoa”, khi thì chữ “Việt”! Như vậy có nghĩa là dân thì dùng tiếng Việt còn vua và quý tộc thì đã bị “Hoa” đồng hóa cho nên quen dùng tiếng Hoa và sợ rằng dân Việt không hiểu nên kèm theo tiếng Việt! Lại có người nói rằng “Dân Việt thời đó đã bị đồng hóa bởi tiếng Hoa, cho nên lệnh vua phải kèm tiếng Hoa cho dân hiểu!” Cho tới bây giờ người ta vẫn căn cứ theo những cái sai của tinh thần chủ quan, không thực tế, không hiểu tiếng Việt mà lại đi giải nghĩa tiếng Việt để rồi giải nghĩa “Duy giáp lệnh” hoàn toàn sai bét! Trong khi, những cái đúng của sử quan ngày xưa thì không ai hiểu, bị bỏ qua để hiểu theo nghĩa khác !
Chúng tôi ghi lại nguyên văn Duy giáp lệnh như sau:
維甲 修內矛 Duy giáp tu nội mao
方舟航 治須慮 phương châu hàng trị tu lự
習之于夷. Tập chi vu di
宿之于萊. Túc chi vu lai
致之于單. Chí chi vu đan
Như vậy, cái lệnh của vua Việt Câu Tiễn thật ngắn gọn, vẻn vẹn có 23 chữ. Nhưng đó là sự thách đố suốt 25 thế kỷ. Muốn giải nghĩa được, cần tìm nghĩa những từ sau:
- Chữ Tuyệt (絕), ngày nay chúng ta đọc là Tuyệt絕 trong khi cổ xưa lại đọc là Chép絕. “Việt chép” (越絕) bây giờ trở thành “Việt tuyệt thư” (越絕書).
- Chữ Đôi 堆 nghĩa là đống (ví dụ đống đất), tiếng Mân Việt-Triều Châu lại đọc là “Túi堆” và cũng có nghĩa là “tất cả”. Nguyên một đoàn người thì có thể nói là nguyên một “túi堆”-(“đống堆”) người. - Chữ Duy 維 ngày nay chúng ta đọc là Duy維 nhưng trong “Duy giáp lệnh” thì có thể ngày xưa đọc là “Tất” hoặc là chữ “Túi堆” và “túi堆 cả甲” bị chép nhầm là “Duy 維Giáp甲” như trường hợp chữ chép絕 bây giờ đọc là “Tuyệt絕”, quá khác nhau! Suy ra: 1, Ngày xưa ghi là “堆甲-Túi cả =Tất cả” ; 2, Ngày xưa dùng chữ “Duy維” chính là đọc thành “Tất” , cho nên “duy giáp維甲” cũng là “Tất cả維甲”
Nếu quý vị nào quen biết người Triều Châu biết đọc chữ “vuông” theo tiếng Triều châu thì sẽ thấy là tiếng Mân Việt có khác:
- “giáp 甲”: đọc là “Cả” .
- Nội-內: đọc là “lại” .
- lai-萊: đọc là “lái”.
- Châu舟: đọc là “chuấn”
Chỉ có người nào vừa biết tiếng Triều Châu và tiếng Việt Nam mới dễ thấy được sự tương đồng và rõ nghĩa. Ví dụ “Nội-內” có nơi đọc là “Lội” và Quảng Đông đọc là “nồi” hay “lồi” thì không xa âm “Lại內” của Mân Việt-Triều Châu bao nhiêu, và cũng từ đó sẽ dễ hiểu chữ “Tu修 lại 內mau矛” tức là “Tụ lại mau” chứ không phải là “Sửa xoạn-bên trong-giáo mác” như chuyên gia ngôn ngữ bên Trung Quốc đã giải thích!
Xin giải thích từng chữ của “Duy giáp lệnh” theo tiếng Việt và Mân-Việt (Triều Châu):
維: Duy hiện giờ đọc là “Uy” ngày xưa có thể đọc là “Tất”! 甲Giáp đọc là “Ca, Cà , Cả”. 修 Tu. 內 Nội đọc là “lai, lài, lại”. 矛 Mao đọc là “Mao”, “Mau”. 方 Phương. 舟 Châu đọc là “Chuấn”. 航 Hàng. 治 Trị đọc là “Tia”. 須 Tu. 慮 Lự. 習 Tập. 之 Chi đọc là “Chua” phát âm tương tự như “Cho”.于 Vu. 夷 Di. Chữ nầy là Di của “Đông Di”, nhưng mà ghi chú của các sử quan ngày xưa ngay trong “Duy giáp lệnh” đã giải thích “Di” nầy đọc là “Hổi 海”, Hải theo phát âm Triều Châu bây giờ là “Hái海”, và người Quảng Đông ngày nay vẫn đọc Hải海 là “Hổi”. “夷Di” trong thời của “Duy giáp lệnh” là “Hổi海”. 宿 Túc đọc là “Sok”. 于 Vu. 萊 Lai đọc là “láy”. 致 Chí nầy là “chí致mạng命” là “Chết”, trong “Việt tuyệt thư” khi dùng “chí至” nghĩa là “đến” thì viết khác và viết là “Chí至”. 于 Vu. 單 Đan (hay đơn).
Ghi chú: theo tiếng Mân Việt-Triều Châu thì những chữ sau đây sẽ là:
Duy維 trong bài nầy phải là chữ “Đôi” đọc theo Mân Việt là “Túi”, là “tất” (tất cả).
Phương方Chuấn舟ngày nay là chữ “Phuấn” = Phóng.
Tu須Lự慮 là chữ đa âm, ngày nay là chữ “tự”.
Vu于hổi夷 là chữ đa âm, ngày nay là chữ “vổi” = giỏi .
Vu于lái萊 là chữ đa âm, ngày nay là chữ “vái” = vẻ.
Vu于Đan單 là chữ đa âm, ngày nay là chữ “van” = vang.
Sau khi đối chiếu Hán Việt – Chữ Vuông/ cổ văn - Việt/ Mân Việt/ Triều Châu- tiếng Việt ngày nay, tôi xin trình bày phục nguyên “Duy giáp lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn như sau:
Duy giáp tu nội mao 維 甲 修 內 矛 Tất (Túi) cả tu lại mau à Tất cả tụ lại mau
Phương châu hàng trị tu lự 方舟 航 治 須慮Phuấn hàng trị tự à Phóng hàng trật tự
Tập chi vu di 習 之 于夷 Tập cho vu-hỏi à Tập cho giỏi
Túc chi vu lai 宿 之 于萊 Sóc cho vu-láy à Sống cho vẻ
Chí chi vu đan 致 之 于單 Chí cho vu-đan à Chết cho vang
- Ngày xưa Việt Vương Câu-Tiễn đã nói “Tất cả tụ lại mau ...” Bây giờ nhờ vào tiếng Việt và tiếng Triều Châu là tiếng Mân Việt (Tiếng Mân Việt ngày xưa khác với bây giờ, giống tiếng Việt Nam hiện nay nhiều hơn, ngày nay dù đã biến âm vì ảnh hưởng của Hoa ngữ-quan thoại nhiều nhưng không xa “nguồn gốc” lắm), cho nên tôi đã phục nguyên được “Duy giáp lệnh” .
Đối chiếu với các lời ghi chú – giải thích của các sử quan thời xưa ghi trong “Duy giáp lệnh” thì càng thấy bản phục nguyên của tôi là đúng. Dưới đây là lời giải thích của sử quan ngày xưa đã ghi trong “Duy giáp lệnh” mà chưa có ai giải nghĩa chính xác cũng bởi vì người ta không ngờ nhiều chữ chính là chữ “Nôm” cổ đại của tiếng Việt:
- “赤雞稽繇”者也: “Xích Côi kê chựu” giả dã=Người “Xét côi tề tựu” vậy. (Kê雞: chữ Nôm cổ đại đọc là “Côi”). Câu chú thích nầy dùng “chữ Nôm cổ đại” chứng tỏ được ý nghĩa “Tụ lại mau”. Người ra lệnh “Tụ lại mau” là người “Xét coi tề tựu” .
- 越人謂 “入铩”也: Việt nhân vị “Nhập Sát” dã = Người Việt gọi “Nhanh” vậy. Chữ Nôm cổ đại: Nhập sát入铩 nghĩa là “nhát” hay “nhat” (cổ ngữ không có cố định các thanh “sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng”) âm “nhat” là nói về chữ “nhanh入铩”
- “買儀塵”者: “Mại Nghi Trần” giả= người “bày nghi trận”. Chữ Nôm cổ đại “Nghi trần” hoàn toàn trùng âm với “Nghi trận”. Chữ Mại買 còn có âm đọc là “Bồi買” bên tiếng Triều Châu. Tiếng Triều châu “mại買 mải賣” đọc là “bồi bôi” trong khi tiếng Việt Nam hiện giờ vẫn dùng “Buôn bán-買賣” cho Mại買 và Mãi賣 là mua vào và bán ra. “Mại nghi Trần” là “bày nghi trận” trong “chữ Nôm cổ đại”. Điều này càng thấy “Tụ lại mau, phóng hàng cho thẳng” đúng là đang “bày nghi trận”.
- 越人往如江也: Việt nhân vãng như giang dã. Câu chú thích nầy dùng từ Hán Việt, ý nói người Việt đến tụ hợp rất đông, hàng hàng lớp lớp ...(“vãng” là “vãng lai” “vãng” là đến; “Như giang” là “như nước sông” ý nói hàng hàng lớp lớp...)
- 越人謂船為 “須慮”: Việt nhân vị thuyền vi “tu lự” - người Việt gọi thuyền là “tu-lự”. Sở dĩ có câu nầy là vì vùng Giang Tô tiếng Việt (Ngô Việt) gọi thuyền là “xuy須-lùy慮” phát âm tương đương tiếng “xuyềnh” của Quảng Đông và chữ “Thuyền” bên tiếng Việt ngày nay. Câu nầy chỉ là phần giải nghĩa thêm chữ “Thuyền” của một sử quan nào đó. Nó làm rõ nghiã là “phóng hàng trật tự...” chứ không thể nào “phóng châu mà “trị” thuyền, sửa thuyền!
- 亟怒紛紛者怒貌也怒至: Cực nộ phân phân giả nộ mạo dã nộ chí - Câu chú thích bằng Hán Việt nói về những người lính đang tập hợp phóng hàng là “Cực nộ bừng bừng”... rõ ràng có dùng chữ “giả者” là “người” vậy nó không thể nằm trong bản mệnh lệnh!
- “士击高文”者躍勇士也: “Sĩ kích cao văn” giả diệu dũng sĩ dã - Câu chú thích bằng tiếng Hán Việt nói về “sĩ khí dâng cao” của những người đã “phóng hàng trật tự”, cũng có chữ “giả者” là “người” nên không thể nằm trong mệnh lệnh!
- “夷”、 “海”也: “Di” , “Hỏi” (Hải) dã - chú thích nầy lại nói rõ “Di” nầy là “hải海” là “hỏi” bên Hán Việt nhã ngữ. Chú thích nầy quá lạ. Không ngờ thời xưa “Di” lại đọc là “Hỏi”. Nhờ vậy mà biết được “vu-hỏi” là “vỏi” tức là “giỏi” của ngày nay!
- “單”者堵也: “Đan” giả đồ dã - chú thích nầy khó hiểu nhất ! “Đan單” giả là “Đồ單” dã! “Đồ” là đồ sát, là giết chết... Có lẽ sử quan ngày xưa hiểu được ý câu “Sống cho vẻ, chết cho vang” nên giải thích “đan” là “bị giết chết khi đánh giặc là vẻ vang”. Ngày nay người Trung Hoa không hiểu nên diễn giải là “tấn công thành lũy, công quang, đến khi chiến thắng !
3. Kết luận:
Phục nguyên “Duy giáp lệnh” không khó nếu như nắm vững qui luật đa âm thời cổ và đơn âm thời nay, cùng với các phương ngữ Việt. Nhưng trình bày cho rõ lại là chuyện không dễ! Việt nhân ca với Duy giáp lệnh là hai văn bản xa xưa cho thấy rằng khoảng 2500 năm đến 3000 năm về trước, người Việt đã có chữ “Nôm” rồi! Điều nầy phù hợp với “suy luận theo lý lẽ” của tôi là chữ “Nôm” có trước và chữ “Hán-Việt” hay chữ “Hoa” là có sau! Bởi vì, chữ “Hoa” hay “Hán-Việt” toàn là đơn âm! Chẳng lẽ người xưa phải “chờ” đến khi ngôn ngữ biến thành đơn âm hết rồi mới có chuyện sáng chế ra chữ viết? Theo suy luận của tôi thì người xưa không chờ mà đã sáng chế ra chữ viết ngay khi còn dùng tiếng nói đa âm. Đó là chữ “Nôm”! Chắc chắn là không phải chỉ có riêng một người sáng tạo ra ngôn ngữ, vì không ai đủ sức và sống lâu ngàn năm để làm được như vậy! Chính bá tánh toàn dân đã sáng chế ra chữ viết “Nôm”. Bởi vậy nên chữ Nôm không có tính thống nhất. Sau nầy các văn bản của triều đình được gọi là “nhã ngữ” đã thay thế dần rồi làm thất truyền đi “chữ Nôm”. Do vậy sau nầy người ta mới không hiểu và giải nghĩa sai “Việt nhân ca” và “Duy giáp lệnh”! Có nhiều vết tích để lại là chữ “Nôm” có trước. Hy vọng thế kỷ 21 sẽ chứng minh được điều nầy./.